Trong chương trình tìm hiểu văn thơ đời xưa, mời quý anh chị đọc bài viết của Con Cò Thơ về tác giả Lý Thượng Ẩn với một trong những bài thơ nổi tiếng nhất là bài Cẩm Sắt.
Nhân dịp này, mời quý anh chị đọc thêm phần tiểu sử của Lý Thượng Ẩn để hiểu thêm tâm sự người cầm bút.
Những bất công hay nghịch cảnh khi làm cho con người đau thấu con tim thì thường cho ra những bài thơ đầy nguồn cảm xúc.
Người ta có thể đọc thơ hay làm thơ mà khóc cho ai đó hay cho ai đó khóc thay cho mình.
Cám ơn Con Cò Thơ và các tác giả được trích bài post trên trang Blog này.
Caroline Thanh Hương
Lời Con Cò Thơ
Không ngờ 1100 năm trước đã có một thi hào làm bài này để tả tâm
trạng của người Việt tiễn bạn đi vượt biên (Xin xem lời bàn của Con Cò,
câu chót).
Lý Thương Ẩn 李商隱
(813-858)
Nguyên bản Dịch âm
錦瑟 Cẩm sắt
錦瑟無端五十弦 Cẩm sắt vô đoan ngũ thập huyền,
一弦一柱思華年 Nhất huyền nhất trụ tứ hoa niên.
莊生曉夢迷蝴蝶 Trang sinh hiểu mộng mê hồ điệp.
望帝春心託杜鵑 Vọng đế xuân tâm thác đỗ quyên.
滄海月明珠有淚 Thương hải nguyệt minh châu hữu lệ.
藍田日暖玉生煙 Lam Điền nhật noãn ngọc sinh yên.
此情可待成追憶 Thử tình khả đãi thành truy ức,
只是當時已惘然 Chỉ thị đương thời dĩ võng nhiên.
Chú giải: Trang sinh: Tức Trang Tử, tên là Chu. Trang Chu
nằm mơ thấy hoá thành bướm bay khắp nơi, khi tỉnh mộng, bàng hoàng tự hỏi,
không biết mình là người lúc trước mơ thành bướm, hay là bướm bây giờ mơ hoá
người. :Vọng đế: Vua Thục tên là Đỗ
Vũ. Khi Vọng đế thác đi, thương nước cũ, tiếc duyên xưa, hồn hoá làm chim đỗ
quyên (cuốc). Lam Điền: Tên núi, ở
huyện Lam Điền, tỉnh Thiểm Tây, nơi có nhiều ngọc đẹp.
Dịch nghĩa
Đàn cẩm sắt
-Đàn cẩm sắt
chẳng hỉểu vì cớ chi mà có năm mươi dây?
-Mỗi dây mỗi
trụ gợi nhớ đến mỗi tuổi đời.
-Trang Chu
buổi sáng nằm mộng thành bươm bướm.
-Lòng xuân
của vua Thục đế gửi vào chim Đỗ Quyên.
-Ở gần biển
xanh lúc trăng sáng thì hạt châu như có nước mắt.
-Dưới ánh
nắng ấm áp, hạt ngọc Lam Điền trông như đang nhả khói.
-Gỉa thử
tình này sớm trở thành dĩ vãng,
- Ngay lúc
đó ta đã thấy hão huyền rồi.
Dịch
thơ
Đàn
Cẩm Sắt
Dây đàn Cẩm sắt há năm mươi?
Mỗi dây mỗi trụ mỗi niên đời.
Trang sinh tảng sáng mơ thành bướm.
Vọng đế lòng xuân hóa cuốc thôi.
Biển biếc sáng trăng châu rướm lệ,
Lam Điền nắng rọi ngọc hà hơi.
Tình này dẫu xếp vào tiềm thức,
Lúc ấy ta nghe hão huyền rồi.
Lời bàn của Con Cò
Bài thơ này
đã tốn giấy mực của nhiều bình lụân gia văn học trên khắp thế giới (kể cả những
nước Âu Mỹ) nhưng chưa ai giải mã được hai câu 5, 6. Tại sao chỉ có hai câu thơ
mà khiến nhiều học gỉa bận tâm như vậy? Bởi vì hai câu đó siêu việt đến độ
người ta, tuy không hiểu rõ tác gỉa muốn nói gì, nhưng chỉ cần nghe âm thanh
của chúng đã bị thu hút bởi cái diễm lệ của chúng rồi.
Hãy tóm tắt
hai ý kiến khác nhau của các học gỉa:
1/
Có người cho là một bài thơ tả tiếng
đàn cẩm sắt (như đầu đề của bài): tiếng đàn lúc huyền ảo như giấc
mơ của Trang sinh, lúc khắc khoải như ác mộng của Thục đế. Lúc lạnh
lẽo như giọt nước mắt của ngọc trai lung linh trong màu biển xanh dưới
ańh sáng trăng. Lúc ấm áp như ngọc Lam điền bốc khói dưới ánh nắng
vàng. Lời giải mã nghe cũng xuôi tai nhưng chưa thuyết phục bởi vì
ngay từ câu đầu, tác gỉa đã nói cây đàn đó không thực (có 50 dây,
gấp đôi số dây 25 của cây đàn thực).
2/
Có người cho rằng tác gỉả̀ tả dùng thể
hứng để tả đời của ai đó ở tuổi 50, cái tuổi biết mệnh trời (ngũ
thập nhi tri thiên mệnh): 50 dây căng trên 50 trụ tượng chưng cho 50
tuổi đời. Có khi phiêu diêu như Trang sinh mơ thành
bướm. Có khi khắc khoải như Thục đế sau khi chết, hóa thành con cuốc
gào khóc giữa đêm thanh. Nhưng giọt lệ của ngọc trai (câu 5) và làn
khói của ngọc Lam điền (câu 6) thì họ giải thích thế nào? Còn
hai câu kết nữa, đã xếp vào dĩ vãng mà vẫn hão huyền! Dẫu
họ lẻo mép nói trời, trăng, mây, nước thì cũng chỉ là ý kiến riêng
của một nhóm người, không thuyết phục được mọi người.
Riêng Con Cò
thì dễ dãi hơn vì hắn chả cần thắc mắc gì, chỉ muốn thưởng thức một bài thơ kỳ
lạ giống như người ta thưởng thức một bài nhạc không lời. Tỷ dụ như bài Moon
Light của Beethoven. Khi làm bài này ông đã không đặt tên cho nó. Sau này,
người ta thấy nó êm dịu, trong trẻo như ánh sáng trăng nên đã đặt tên này cho
nó. Vậy thì cứ vô tư lắng nghe danh thủ dương cầm trình diễn mà chả cần để ý
tới cái tên mà thế gian đặt ra cho nó (nhỡ Beethoven tả một thứ gì êm dịu hơn
ánh trăng thì sao?). Bài thơ Cẩm Sắt cũng vậy. Không biết họ Lý muốn nói gì
nhưng thấy bài thơ diễm tuyệt thì cứ vô tư thưởng thức cái nét diễm tuyệt ấy,
việc gì mà bàn cãi để mất vui?
Lý Thương Ẩn 李商隱
Thơ » Trung Quốc » Vãn Đường
Nước:
Đọc nhiều nhất
- Vô đề (Tương kiến thì nan biệt diệc nan)
- Cẩm sắt
- Vô đề (Tạc dạ tinh thần tạc dạ phong)
- Đăng Lạc Du nguyên
- Lạc hoa
- Cẩm sắt
- Vô đề (Tạc dạ tinh thần tạc dạ phong)
- Đăng Lạc Du nguyên
- Lạc hoa
Thích nhất
- Vô đề (Tương kiến thì nan biệt diệc nan)
- Cẩm sắt
- Vô đề (Tạc dạ tinh thần tạc dạ phong)
- Lạc hoa
- Đăng Lạc Du nguyên
- Cẩm sắt
- Vô đề (Tạc dạ tinh thần tạc dạ phong)
- Lạc hoa
- Đăng Lạc Du nguyên
Mới nhất
Lý Thương Ẩn 李商隱
(813-858) tự Nghĩa Sơn 義山, hiệu Ngọc khê sinh 玉谿生, người Hà Nội, Hoài
Châu (nay Tầm Dương, phủ Hoài Khánh, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc), xuất thân
trong một gia đình quan lại nhỏ sa sút. Thuở thiếu thời giỏi văn thơ,
được giao du với các con của tể tướng Lệnh Hồ Sở, trong đó có Lệnh Hồ
Đào. Bấy giờ trong triều có hai phe đối nghịch nhau, tranh quyền đoạt
lợi, một phe là Tăng Ngưu Nhu, phe kia là Lý Đức Dụ, hầu hết quan lại
đều bị lôi cuốn vào cuộc tranh chấp ấy. Sở theo phe Ngưu. Năm Lý Thương
ẩn mười bảy tuổi (829), Sở tiến cử làm tuần quan mạc phủ. Năm hai mươi
lăm tuổi (837), ông lại được Lệnh Hồ Đào khen ngợi, nâng đỡ nên đỗ tiến
sĩ năm Khai Thành thứ 2. Năm sau ông được Vương Mậu Nguyên, tiết độ sứ
Hà Dương mến tài, dùng làm thư ký và gả con gái cho. Chẳng may, Vương
thuộc phe Lý Đức Dụ khiến ông trở thành kẻ vong ân bội nghĩa, xảo quyệt
vô hạnh trong mắt Lệnh Hồ Đào. Vương Mậu Nguyên chết, rồi Lý Đức Dụ thất
thế, ông đến kinh sư nhưng không được làm gì cả. Sau nhờ Trịnh Á vận
động, ông được làm chức quan sát phán quan. Trịnh Á bị biếm ra Lĩnh
Biểu, ông cũng đi theo. Ba năm sau ông lại trở về, làm truyện tào tại
Kinh Triệu. Ông nhiều lần đưa thư, dâng thơ cho Lệnh Hồ Đào để phân trần
và xin tiến dẫn, nhưng vẫn bị lạnh nhạt. Tiết độ sứ Đông Thục là Liễu
Trọng Hĩnh dùng ông làm tiết độ phán quan, kiểm hiệu Công bộ viên ngoại
lang. Liễu bị bãi quan, ông cũng mất chức. Như thế là ông mắc kẹt giữa
hai phái, chưa hề được đắc chí trên hoạn lộ, cứ bôn tẩu khắp nơi: Tứ
Xuyên, Quảng Đông, Quảng Tây, Từ Châu nương nhờ hết người này đến người
khác, long đong khốn khổ. Cuối cùng ông về đất Oanh Dương thuộc Trịnh
Châu rồi bệnh chết năm 46 tuổi.
Văn Lý Thương Ẩn có phong cách khôi lệ ỷ cổ, thơ nổi tiếng ngang Ôn Đình Quân, nên người Đương Thời gọi là "Ôn - Lý", hoặc ngang Đỗ Mục, nên được gọi là "tiểu Lý - Đỗ" (để phân biệt với "Lý - Đỗ" là Lý Bạch - Đỗ Phủ). Vương An Thạch đời Tống khen ngợi rằng người đời Đường học tập Đỗ Phủ mà đạt được mức "phiên ly" (rào dậu, xấp xỉ) của ông, thì chỉ có một mình Thương Ẩn. Dương Ức và Lư Tử Nghi mô phỏng thơ ông làm ra tập Tây Côn thù xướng nên có tên Tây Côn thể. Tác phẩm của ông có Phàn nam giáp tập (20 quyển), Ất tập (20 quyển), Ngọc khê sinh thi (3 quyển); ngoài ra còn một quyển phú và một quyển văn. Tương truyền ông có tình luyến ái với nữ đạo sĩ Tống Hoa Dương và các cung nữ Lữ Phi Loan, Khinh Phụng, nên ông làm bảy bài Vô đề mang tính diễm lệ, bí ẩn.
Thơ ca Lý Thương Ẩn có nhiều nét rất đặc sắc so với truyền thống thơ ca cổ điển Trung Quốc. Ông tiếp thu ảnh hưởng cổ thi, nhạc phủ Hán - Nguỵ và cả cung thể Lương - Trần. Ông cũng học tập ngũ ngôn hiện thực của Đỗ Phủ, phong cách lãng mạn của Lý Hạ cho nên thơ ông khá phức tạp cả về nội dung tư tưởng lẫn hình thức nghệ thuật.
Đặc sắc nhất trong thơ Lý Thương Ẩn là thơ tình. Với những bài Vô đề, ta thấy được đời sống tình ái của kẻ sĩ đại phu xưa. Lễ giáo phong kiến và chế độ hôn nhân không cho phép tự do, vì thế không thoả mãn yêu đương, họ có nhiều ảo tưởng và khát vọng, hoặc là mang tâm trạng ẩn ức, hoặc là sống phóng đãng buông lung. Thơ Lý Thương Ẩn ít nhiều nói lên niềm mơ ước về hạnh phúc lứa đôi và có tính chống lại lễ giáo phong kiến. Những bài thơ Vô đề của ông âm điệu nhịp nhàng uyển chuyển, tình điệu thê luơng ai oán, niêm luật nghiêm túc chỉnh tề, ngôn từ gọt dũa bay bướm, tạo nên những hình tượng tươi đẹp, sinh động, cảm xúc sâu sắc chân thành. Tuy nhiên do không thể đấu tranh đập tan những gông cùm ấy nên ông cũng như tầng lớp của ông trở nên bi quan tiêu cực, bám lấy hư vô chủ nghĩa, kết hợp với sự suy tàn của thời đại và giai cấp.
Văn Lý Thương Ẩn có phong cách khôi lệ ỷ cổ, thơ nổi tiếng ngang Ôn Đình Quân, nên người Đương Thời gọi là "Ôn - Lý", hoặc ngang Đỗ Mục, nên được gọi là "tiểu Lý - Đỗ" (để phân biệt với "Lý - Đỗ" là Lý Bạch - Đỗ Phủ). Vương An Thạch đời Tống khen ngợi rằng người đời Đường học tập Đỗ Phủ mà đạt được mức "phiên ly" (rào dậu, xấp xỉ) của ông, thì chỉ có một mình Thương Ẩn. Dương Ức và Lư Tử Nghi mô phỏng thơ ông làm ra tập Tây Côn thù xướng nên có tên Tây Côn thể. Tác phẩm của ông có Phàn nam giáp tập (20 quyển), Ất tập (20 quyển), Ngọc khê sinh thi (3 quyển); ngoài ra còn một quyển phú và một quyển văn. Tương truyền ông có tình luyến ái với nữ đạo sĩ Tống Hoa Dương và các cung nữ Lữ Phi Loan, Khinh Phụng, nên ông làm bảy bài Vô đề mang tính diễm lệ, bí ẩn.
Thơ ca Lý Thương Ẩn có nhiều nét rất đặc sắc so với truyền thống thơ ca cổ điển Trung Quốc. Ông tiếp thu ảnh hưởng cổ thi, nhạc phủ Hán - Nguỵ và cả cung thể Lương - Trần. Ông cũng học tập ngũ ngôn hiện thực của Đỗ Phủ, phong cách lãng mạn của Lý Hạ cho nên thơ ông khá phức tạp cả về nội dung tư tưởng lẫn hình thức nghệ thuật.
Đặc sắc nhất trong thơ Lý Thương Ẩn là thơ tình. Với những bài Vô đề, ta thấy được đời sống tình ái của kẻ sĩ đại phu xưa. Lễ giáo phong kiến và chế độ hôn nhân không cho phép tự do, vì thế không thoả mãn yêu đương, họ có nhiều ảo tưởng và khát vọng, hoặc là mang tâm trạng ẩn ức, hoặc là sống phóng đãng buông lung. Thơ Lý Thương Ẩn ít nhiều nói lên niềm mơ ước về hạnh phúc lứa đôi và có tính chống lại lễ giáo phong kiến. Những bài thơ Vô đề của ông âm điệu nhịp nhàng uyển chuyển, tình điệu thê luơng ai oán, niêm luật nghiêm túc chỉnh tề, ngôn từ gọt dũa bay bướm, tạo nên những hình tượng tươi đẹp, sinh động, cảm xúc sâu sắc chân thành. Tuy nhiên do không thể đấu tranh đập tan những gông cùm ấy nên ông cũng như tầng lớp của ông trở nên bi quan tiêu cực, bám lấy hư vô chủ nghĩa, kết hợp với sự suy tàn của thời đại và giai cấp.
- An Định thành lâu9
- Bản Kiều hiểu biệt7
- Bắc lâu3
- Bắc Tề kỳ 14
- Bắc Tề kỳ 24
- Bắc Thanh La13
- Bích thành kỳ 12
- Biện thượng tống Lý Dĩnh chi Tô Châu5
- Bình phong7
- Cảnh Dương tỉnh5
- Cao hoa4
- Cao tùng3
- Cẩm sắt 22
- Cận hoa7
- Chính nguyệt Sùng Nhượng trạch4
- Chúc tật3
- Cung kỹ5
- Cung từ 9
- Cửu nhật4
- Dạ ẩm3
- Dạ bán4
- Dạ lãnh7
- Dạ vũ ký bắc17
- Dạ xuất Tây khê3
- Dạ ý6
- Dao lạc1
- Dao Trì7
- Dương liễu chi kỳ 42
- Đại tặng2
- Đại tặng kỳ 19
- Đại tặng kỳ 25
- Đại ứng2
- Đại ứng kỳ 17
- Đại ứng kỳ 23
- Đàm Châu6
- Đan Khâu4
- Đăng Lạc Du nguyên18
- Đề bạch thạch liên hoa ký Sở công7
- Điệu thương hậu phó Đông Thục tịch chí Tản Quan ngộ tuyết5
- Đoan cư8
- Đỗ công bộ Thục trung ly tịch6
- Đỗ tư huân2
- Độc Nhậm Ngạn Thăng bi1
- Đông đình liễu3
- Đông hạ tam tuần khổ ư phong thổ mã thượng hí tác5
- Đông hoàn5
- Đông nam2
- Đương cú hữu đối2
- Giả Sinh7
- Giang đình tán tịch tuần liễu lộ ngâm quy quan xá5
- Hải thượng5
- Hàm Dương4
- Hán cung từ3
- Hàn đồng niên tân cư tiễn Hàn tây nghinh gia thất hí tặng2
- Hí đề Xu Ngôn thảo các tam thập nhị vận1
- Hí tặng Trương thư ký2
- Hiểu toạ4
- Hiệu Trường Cát3
- Hoa hạ tuý13
- Hoạ Hàn lục sự “Tống cung nhân nhập đạo”5
- Hoa Sơn đề Vương Mẫu từ1
- Hoa sư3
- Hoa Thanh cung1
- Hữu cảm (Phi quan Tống Ngọc hữu vi từ)7
- Hữu cảm (Trung lộ nhân tuần ngã sở trường)7
- Khốc Lưu Phần4
- Khốc Lưu tư hộ kỳ 14
- Khốc Lưu tư hộ kỳ 24
- Khốc Lưu tư hộ Phần1
- Khúc giang5
- Khúc Trì5
- Ký Bùi Hành4
- Ký Lệnh Hồ lang trung4
- Ký Thục khách3
- Kỹ tịch ám ký tống đồng niên Độc Cô Vân chi Vũ Xương4
- Lạc Du nguyên3
- Lạc hoa19
- Lãm cổ4
- Lệ6
- Liễu (Giang Nam, Giang Bắc tuyết sơ tiêu)7
- Liễu (Liễu ánh giang đàm để hữu tình)6
- Liễu (Tằng trục đông phong phất vũ diên)6
- Liễu (Vị hữu kiều biên phất diện hương)4
- Loạn thạch2
- Long Trì4
- Lương tứ8
- Lưu oanh4
- Ly đình phú đắc chiết dương liễu kỳ 17
- Ly đình phú đắc chiết dương liễu kỳ 29
- Ly tứ2
- Mã Ngôi kỳ 15
- Mã Ngôi kỳ 210
- Mạc Sầu13
- Mạn thành ngũ chương kỳ 15
- Mạn thành ngũ chương kỳ 34
- Mẫu đơn3
- Mộ thu độc du Khúc giang 9
- Mộc lan hoa13
- Mộng Lệnh Hồ học sĩ6
- Mộng trạch6
- Nam triều4
- Ngân hà xuy sanh3
- Ngọc sơn4
- Ngô cung2
- Ngụ hứng4
- Nguyệt3
- Nguyệt dạ trùng ký Tống Hoa Dương tỷ muội5
- Nguyệt tịch4
- Nhạc Dương lâu5
- Nhâm Thân nhuận thu đề tặng Ô Thước4
- Nhân dục4
- Nhật nhật5
- Nhất phiến4
- Nhật xạ8
- Nhị nguyệt nhị nhật7
- Niệm viễn2
- Phá kính3
- Phong (I)2
- Phong (II)3
- Phỏng ẩn2
- Phỏng ẩn giả bất ngộ thành nhị tuyệt kỳ 14
- Phỏng ẩn giả bất ngộ thành nhị tuyệt kỳ 25
- Phòng trung khúc2
- Phong vũ10
- Phú Bình thiếu hầu3
- Quá Chiêu Quốc Lý gia nam viên kỳ 12
- Quá Chiêu Quốc Lý gia nam viên kỳ 22
- Quá Sở cung2
- Quan môn liễu2
- Quy lai1
- Quy thự2
- Sở cung6
- Sở cung kỳ 13
- Sở cung kỳ 23
- Sơ khởi5
- Sở ngâm6
- Sơ thực duẩn trình toạ trung3
- Sùng Nhượng trạch đông đình tuý hậu miến nhiên hữu tác3
- Sùng Nhượng trạch yến tác3
- Sương nguyệt 15
- Tạ tiên bối Phòng ký niệm chuyết thi thậm đa, dị nhật ngẫu hữu thử ký2
- Tả ý3
- Tạc nhật3
- Tam nguyệt thập nhật Lưu Bôi đình5
- Tảo khởi13
- Tặng ca kỹ kỳ 22
- Tặng liễu2
- Tặng Lư tư hộ3
- Tặng tòng huynh Lãng Chi4
- Tặng tư huân Đỗ thập tam viên ngoại3
- Tân Mùi thất tịch4
- Tây đình4
- Tây nam hành khước ký tương tống giả3
- Tề cung từ2
- Tế vũ (Duy phiêu Bạch Ngọc đường)1
- Tế vũ (Tiêu sái bạng hồi đinh)1
- Thanh Lăng đài2
- Thành ngoại4
- Thánh nữ từ4
- Thành thượng2
- Thập nhất nguyệt trung tuần chí Phù Phong giới kiến mai hoa2
- Thất nguyệt nhị thập cửu nhật Sùng Nhượng trạch yến tác5
- Thiền10
- Thiên nhai7
- Thiệp Lạc xuyên2
- Thính cổ1
- Thuỷ trai2
- Thứ Thiểm Châu tiên ký Nguyên tòng sự2
- Thường Nga 9
- Thương Ư1
- Tịch Dương lâu7
- Tịch thượng tác1
- Tiễn tịch trùng tống tùng thúc dư chi Tử Châu1
- Tỉnh Lạc4
- Tống Thôi Giác vãng Tây Xuyên1
- Tống Trăn sư kỳ 11
- Tống Trăn sư kỳ 21
- Trệ vũ5
- Trù Bút dịch9
- Trùng hữu cảm1
- Trùng quá Thánh nữ từ3
- Truy đại Lư gia nhân trào đường nội1
- Túc Lạc thị đình ký hoài Thôi Ung, Thôi Cổn9
- Túc Tấn Xương đình văn kinh cầm4
- Tuỳ cung (Thừa hứng nam du bất giới nghiêm)5
- Tuỳ cung (Tử tuyền cung điện toả yên hà)8
- Tử Châu bãi ngâm ký đồng xá2
- Tự huống3
- Tức nhật (Nhất tuế lâm hoa tức nhật hưu)5
- Tức nhật (Tiểu uyển thí xuân y)1
- U cư đông mộ2
- Uyên ương3
- Ức mai8
- Ức Trụ Nhất sư4
- Vãn tình2
- Vị hữu8
- Vi vũ5
- Vịnh sử kỳ 15
- Vịnh sử kỳ 23
- Vọng Hỷ dịch biệt Gia Lăng giang thuỷ nhị tuyệt kỳ 12
- Vọng Hỷ dịch biệt Gia Lăng giang thuỷ nhị tuyệt kỳ 22
- Vô đề (Bạch đạo oanh hồi nhập mộ hà)2
- Vô đề (Bát tuế thâu chiếu kính)3
- Vô đề (Cận tri danh A Hầu)2
- Vô đề (Chiếu lương sơ hữu tình)2
- Vô đề (Đãi đắc lang lai nguyệt dĩ đê)6
- Vô đề (Hộ ngoại trùng âm ám bất khai)5
- Vô đề (Phụng vĩ hương la bạc kỷ trùng)6
- Vô đề (Tạc dạ tinh thần tạc dạ phong)7
- Vô đề (Thọ Dương công chúa giá thì trang)2
- Vô đề (Trùng duy thâm há Mạc Sầu đường)8
- Vô đề (Trường my hoạ liễu tú liêm khai)2
- Vô đề (Tương kiến thì nan biệt diệc nan) 51
- Vô đề (Vạn lý phong ba nhất diệp chu)2
- Vô đề (Văn đạo Xương Môn Ngạc Lục Hoa)2
- Vô đề tứ thủ kỳ 1 (Lai thị không ngôn khứ tuyệt tung)9
- Vô đề tứ thủ kỳ 2 (Táp táp đông phong tế vũ lai)5
- Vô đề tứ thủ kỳ 4 (Hà xứ ai tranh tuỳ cấp quản)3
- Vương Chiêu Quân3
- Vương thập nhị huynh dữ Uý Chi viên ngoại tương phỏng, kiến chiêu tiểu ẩm, thì dư dĩ điệu vong nhật cận, bất khứ, nhân ký3
- Xuân nhật1
- Xuân nhật ký hoài2
- Xuân phong3
- Xuân tiêu tự khiển4
- Xuân vũ11
- Yên đài thi - Đông1
- Yên đài thi - Hạ1
- Yên đài thi - Thu1
- Yên đài thi - Xuân1
- Yết Sơn2
Phần dưới đây là bài sưu tầm trích từ Hồn Việt
Về bài “Cẩm sắt” của Lý Thương Ẩn - Từ ý nghĩa bài thơ đến tiếng đàn sum họp của Thúy Kiều
24 Tháng Tám 2010 7:00 SAVĨNH SÍNH
Trên đường từ
Việt Nam trở về lại Canada, tôi ghé Tokyo, thăm anh bạn cũ đang ốm
nặng. Một tối, trước giờ đi ngủ, tình cờ trong nhà có cuốn Ri Shôin
(Lý Thương Ẩn; 812?-858), tôi lấy ra xem. Lý sống vào thời vãn Đường
Trung Quốc, một thời kỳ có lắm bế tắc về chính trị và xã hội, nhưng
chín mùi về văn hóa nghệ thuật. Tuy đỗ đạt cao, Lý không mấy may mắn
trên bước hoạn lộ. Thơ Lý được ưa chuộng nhưng nổi tiếng hóc búa. Trong
thơ có nhiều điển tích, giàu hình tượng, mà cũng chứa lắm ẩn dụ khó
giải mã.
“Cẩm sắt” thường
được xem là bài thơ hay nhất và cũng là bài thơ khó hiểu nhất của họ
Lý. Chả vậy mà nhà thơ đời Thanh Vương Sĩ Trinh đã nhận xét: “Nhất biên Cẩm sắt giải nhân nan” (Bài thơ Cẩm sắt hiểu sao đây!) (1)
Tối đó tôi khẽ đọc bài cẩm sắt qua âm Hán Việt. Ngâm chầm chậm hai câu mở đầu “Cẩm sắt vô đoan ngũ thập huyền/Nhất huyền nhất trụ tứ hoa niên”,
tự dưng tôi thấy xúc động mạnh. Chỉ có hai câu mà họ Lý đã đưa người
đọc đến ngay ngưỡng cửa của những dĩ vãng xa xôi, sâu lắng. Ngâm xong
cả bài, tuy không nắm hết ý nhưng tôi vẫn cảm thấy những âm hưởng trong
Cẩm sắt có sức quyến rũ, có một ma lực lạ lùng.
Người dịch, chú thích và bình luận tập thơ Ri Shôin là
Takahashi Kazumi (1931- 71), một nhà văn, nhà thơ, và cũng là một nhà
nghiên cứu văn học Trung Quốc xuất sắc nhưng mệnh bạc. Những lời bình
của Takahashi như những tia chớp sáng, trong khoảnh khắc một sát na đưa
người đọc đi thẳng vào thế giới thẩm mỹ của thơ Lý Thương Ẩn mà các nhà
bình luận thơ Đường xưa nay vẫn thường nói tới.
Đọc lui đọc lại, tôi như bị
thu hút bởi bài thơ. Duyên nọ dẫn đến duyên kia, sau đó cũng do tình
cờ, tôi được biết là trong phần cuối Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng
đã mượn bốn câu trong bài thất ngôn bát cú này để diễn tả cảnh Kiều
gảy đàn cho Kim Trọng nghe sau mười lăm năm cách biệt.
Khi so sánh bốn câu trong nguyên tác với đoạn thơ phóng dịch trong Kiều,
chúng tôi phát hiện một điều khá kì thú: Tiên Điền tiên sinh đã thay
đổi không khí u uất trong nguyên tác thành một bầu không khí đầm ấm, êm
ái, tươi sáng cho phù hợp với cảnh sum hợp vui vầy giữa Kiều với Kim
Trọng!
Mục đích của chúng tôi khi
viết bài này là hy vọng được chia sẻ với độc giả một bài thơ hay, đồng
thời cũng mong được mạn đàm về một số chi tiết xung quanh bài thơ và
đưa ra một số nhận xét về đoạn thơ phỏng dịch trong Truyện Kiều nói trên. Trước hết, ta thử xem qua gốc gác những từ cần giải thích cùng những điển tích trong bài Cẩm sắt.
Cẩm sắt
Cẩm sắt vô đoan ngũ thập huyền,Nhất huyền nhất trụ tứ hoa niên. Trang sinh hiểu mộng mê hồ điệp, Vọng đến xuân tâm thác đỗ quyên. Thương hải nguyệt minh châu hữu lệ, Lam điền nhật noãn ngọc sinh yên. Thử tình khả đãi thành truy ức, Chỉ thị đương thì dĩ vong nhiên. |
Câu 1) Cẩm sắt: Có người dịch là đàn gấm (2),
nhưng trên thực tế là cây đàn sắt có chạm trổ. Đàn sắt là loại đàn lớn
làm bằng gỗ cây ngô đồng. Đàn sắt và đàn cầm là hai loại đàn cổ, chữ
cầm sắt (3) thường dùng để chỉ vợ chồng hòa hợp, như đàn sắt đàn cầm hòa nhau.
Theo Daijigen (Đại từ nguyên), cẩm sắt là mỹ nhân của cây đàn sắt (4). Vô đoan: do đâu, từ đâu, không có lý do. Ngũ thập huyền: Theo truyền thuyết, khi Tố Nữ gảy đàn sắt tế trời theo lệnh vua Phục Hy (5),
đàn này có 50 dây. Nhưng vì tiếng đàn quá ai oán não nùng, Phục Hy cấm
không cho sử dụng đàn này nữa. Sau đó, vì dân chúng vẫn không chịu tuân
lệnh, Phục Hy mới cho phép dùng nửa số dây, từ đó đàn sắt chỉ có 25
dây (theo “Phong thiền thư”, Sử ký của Tư Mã Thiên; hoặc “Giao tự chí”,
Hán Thư của Ban Cố đời Hậu Hán) (6).
Câu 2) Tru: trụ, trục; hay “con nhạn” đỡ dây đàn (huyền). Hoa niên: Thanh xuân; tuổi trẻ; thời kỳ rạo rực yêu đương. Tư; tứ:
nghĩ, nhớ; ở đây dùng theo nghĩa “gợi nhớ”. Mỗi dây đàn, mỗi trục, xui
nhớ lại tuổi hoa niên. Đọc hai câu mở đầu, ta không khỏi liên tưởng
đến hai câu hát ru con Việt Nam “Hai tay cầm bốn tao nôi / Tao thẳng tao
dùi, tao nhớ tao thương” – tuy dân dã mộc mạc nhưng có sức gợi cảm vô
cùng mãnh liệt.
Câu 3) Trang sinh: tức Trang Chu, nhà tư tưởng thời Chiến Quốc. Sách Trang Tử
ghi lại những ngôn thuyết của Trang Tử và những người cùng phái, chủ
trương là mọi việc trên đời như lớn nhỏ, khôn dại, sống chết, v.v…
chẳng có gì khác nhau cho lắm; xem vô vi, tự nhiên là đạo đức cao nhất.
Thuyết giải về sự khó phân biệt giữa tỉnh và mộng, sống và chết, thiên “Tề vật luận” trong Trang Tử
viết: “Ngày xưa, Trang Chu chiêm bao thấy mình hóa bướm bay nhởn nhơ,
tự lấy làm thích chí, quên mình là Chu. Bất giác tỉnh giấc, thấy hình
thù mình vẫn là Chu. Không biết Chu chiêm bao là bướm, hay bướm chiêm
bao là Chu!”
Câu 4) Vọng đế: đế hiệu của vua Đỗ Vũ nước Thục cuối đời Chu (nên còn gọi là Thục đế) (7).
Tương truyền Vọng đế ra lệnh bộ hạ là Miết Linh đi cứu lũ ở xa nhằm
thừa dịp tư tình với vợ của Miết Linh. Sau đó Vọng đế tự hổ thẹn về
hành vi bất chính của mình, từ ngôi rồi mai danh ẩn tích. Mỗi năm cứ
vào tháng hai âm lịch (Vọng đế rời đất Thục cũng vào tháng này), đêm
đêm chim đỗ quyên lại cất tiếng sầu thảm. Bởi vậy, người nước Thục mỗi
lần nghe tiếng chim đỗ quyên lại nhớ đến Vọng đế (8). Xuân tâm: lòng
xuân, còn có nghĩa như “xuân tình”: tình yêu trai gái, có thể bao hàm
hơi hướng tình dục. Nguyễn Du cũng đã dùng chữ “xuân thì” khi phỏng
dịch đoạn thơ này trong Truyện Kiều.
Câu 5) Thương hải: Biển xanh, còn có nghĩa là biển rộng, biển cả. Thương hải cũng có khi dùng để chỉ tên một biển hư cấu ở cõi tiên. Nguyệt minh châu hữu lê: Theo Văn tuyển (Lý Thiện chú thích), “khi trăng đầy, trai có ngọc (châu), khi trăng khuyết trai không có ngọc” (nguyệt mãn tức châu toàn, nguyệt khuy tức châu khuyết). Theo cuốn Biệt quốc động minh ký
thời Lục Triều, ngày xưa có người lặng xuống đáy biển tìm ngọc, lạc
vào cung điện của nhân ngư, tìm được bảo ngọc do nước mắt của nhân ngư
đọng lại (9). Ngoài ra câu này còn có thể hiểu theo điển tích “thương hải di châu” (hạt ngọc bỏ rơi trong biển cả), ngụ ý là người có tài mà không có chỗ thi thố.
Câu 6) Lam Điền: tên một ngọn núi ở Thiểm Tây (Lam Điền sơn), còn gọi là Ngọc Sơn, nổi tiếng có nhiều ngọc quý. Theo Sơn hải kinh,
Ngọc Sơn là nơi bà tiên Tây Vương Mẫu ở - chi tiết này khiến người đọc
liên tưởng đến một cõi tiên hư cấu, giống như Thương hải trong câu 5 (10) Ngọc sinh yên: Theo Lục dị truyện,
con gái Ngô Phù Sai là Tử Ngọc yêu người lính hầu là Hàn Trọng nhưng
không được Ngô vương chấp thuận, mang mối bi tình xuống tuyền đài.
Một sáng, khi Ngô vương
đang dùng lược chải tóc, nhìn ra vườn thấy có viên ngọc lớn màu tím
chiếu sáng, phu nhân nghe nói chạy ra vườn, khi vừa ôm chầm hòn ngọc
thì ngọc tan thành khói biến mất. Lại có thuyết cho rằng tứ thơ trong
câu này lấy từ ý nghĩa câu sau đây của nhà thơ Đái Thúc Lân (732- 789)
thời Trung Đường: “Cảnh, đối với nhà thơ, tựa như viên ngọc quý bốc tan
thành khói khi Lam Điền ửng nắng, chỉ có thể đứng nhìn từ xa chứ không
được lại gần” (thi gia chi cảnh như Lam Điền nhật noãn lương ngọc sinh yên, khả vọng nhi bất khả trí ư mi tiệp chi tiền giã) (11).
Hai câu 5 và 6 đối nhau,
bởi vậy khi chuyển ngữ chúng tôi đã cố gắng giữ nguyên những chữ đối
nhau ở trong câu. Nói một cách khác, khi xem Thương hải là một danh từ
riêng; chúng tôi cũng xem Lam Điền là một dnah từ riêng; và khi dịch
“Thương hải” như một danh từ chung (biển cả), chúng tôi cũng dịch “Lam
Điền” như một danh từ chung (đồng xanh).
Hai câu 7 và 8) Khả (đãi): trợ từ có nghĩa là: phải, nên, đáng, có thể, chắc có thể, có lẽ, hình như, hoặc là trợ từ nghi vấn (làm sao có thể…). Võng nhiên:
không biết gì cả, ngơ ngác như mất hồn, phôi pha. Câu 7 có thể dịch là
“Tình này (giả sử) có thể trở thành một cái gì đáng ghi nhớ?” Chúng
tôi đã chọn cách dịch thứ nhất. Câu 8 có nghĩa là “Thì lúc ấy thời
gian/ duyên tình cũng đã phôi pha/ tàn phai/ nhạt nhòa”.
Sau đây là hai bản dịch bài Cẩm sắt của chúng tôi:
Bản dịch 1:
Cẩm sắt vì đâu năm chục dây?
Mỗi dây mỗi trục nhớ thương đầy. Trang sinh sớm mộng mê thành bướm, Thúc đế tình xuân tiếng cuốc chầy. Thương hải trăng thanh châu nhỏ lệ, Lam Điền nắng ấm ngọc tan bay. Tình này ví thử sau còn nhớ, Lúc đã tàn phai với tháng ngày! |
Bản dịch 2:
Cẩm sắt vì đâu ngũ thập huyền?
Mỗi dây mỗi trục gợi hoa niên. Trang sinh sớm mộng mê thành bướm, Thục đế xuân tình gửi tiếng quyên. Bể cả trăng thanh châu đẫm lệ, Đồng xanh nắng ửng ngọc tan liền. Tình này ví thử sau còn nhớ; Khi đã qua rồi thưở lứa duyên! |
Như chúng ta đã thấy, lời
thơ trong bài cẩm sắt đượm nét buồn man mác, như chất chứa một “nỗi sầu
vạn đợi”. Có người cho rằng Lý đã viết bài thơ này vào những năm cuối
đời để khóc người vợ quá cố của mình, có kẻ bảo Lý viết để than tiếc
cho người yêu mang tên là Cẩm Sắt. Ngoài ra còn có không biết bao nhiêu
giả thuyết khác (12). Có lẽ chúng ta nên
hiểu là Lý muốn nói về bản chất mộng ảo, mong manh của cuộc đời và tình
yêu, không chỉ của nhà thơ mà của con người nói chung. Những năm tháng
đã trôi qua trong cuộc đời (mà trăm năm là giới hạn) như thâu gọn lại
trong năm chục sợi dây đàn.
Từ mỗi dây, tiếng đàn ngân
lên như khơi dậy lại tuổi hoa niên, của “cái thuở ban đầu lưu luyến ấy/
Ngàn năm chưa dễ đã ai quên” (Thế Lữ)! Làm sao phân biệt được thực với
mộng? Trang Chu hay con bướm, Thục đế hay chim đỗ quyên, bên nào thực,
bên nào mộng? Ngay giữa lúc “Thương hải trăng thanh” thì “châu đẫm
lệ”, và ngay khi “Lam Điền nắng ấm” thì “ngọc tan bay”! Và tình yêu,
khi muốn ghi nhớ, muốn trân trọng, thì hỡi ôi, lúc đó thời gian đã phôi
pha; duyên tình, hương nguyền ngày trước còn đâu nữa! Tất cả đều mong
manh, mộng ảo.
Cho dầu chúng ta không thể
giải thích một cách thỏa đáng tất cả những ẩn dụ trong Cẩm sắt, nhưng
vẫn có thể cảm nhận được giá trị của bài thơ, đúng như Lương Khải Siêu
(1873-1929) đã nhận xét khi đọc những bài thơ khó giải mã của Lý. Lương
viết: “Tôi không hiểu và thậm chí không thể giải thích ý nghĩa của
từng câu thơ, nhưng tôi vẫn yêu và vẫn bị lôi cuốn bởi vẻ đẹp của thơ
họ Lý (13).
Cuối cùng chúng tôi xin đưa ra một vài nhận xét về đoạn phóng dịch bốn câu 3, 4, 5,6 của bài Cẩm sắt trong Kiều. Đoạn này nằm trong phần cuối của Truyện Kiều,
khi Kiều và Kim Trọng gặp lại sau sau mười lăm năm cách biệt. Kim
Trọng nhờ Kiều đánh đàn cho mình nghe, và Kiều đã “Nể lòng người cũ
vâng lòng một phen”.
Trước đó, khi Kiều đàn cho
Kim Trọng nghe lần đầu tiên, hay trong những lần Kiều bị buộc phải gảy
đàn cho Thúc Sinh, Hoạn Thư v.v… nghe, thì tiếng đàn của nàng lâm ly,
não nùng “nghe ra như oán như sầu phải chăng”. Nhưng lần này, khác hẳn
với những lần trước, tiếng đàn của Kiều nghe thật ấm áp, êm ái, trong
sáng.
Nguyễn Du đã phóng dịch bốn câu trên nhằm diễn tả tiếng đàn sum họp của Kiều như sau:
Khúc đâu đầm ấm dương hòa
Ấy là hồ điệp hay là Trang sinh. Khúc đâu êm ái xuân tình, Ấy hồn Thục đế hay mình đỗ quyên? Trong sao châu nhỏ duềnh quyên, Ấm sao hạt ngọc Lam Điền mới đông! |
Qua tiếng đàn vui tươi, ấm
áp trong đoạn phóng dịch này, người đọc không còn thấy bóng dáng trăn
trở hoài nghi của một Trang Chu nguyên sơ trong thiên Tề vật luận (14),
tiếng ca của chim đỗ quyên không còn nhuốm máu vì Thục đế - mà chỉ là
một giai điệu êm ái gợi nhớ vị quân vương đa tình, những hạt châu không
còn đẫm lệ ở Thương hải vào những đêm trăng tỏ, và hạt ngọc kia cũng
không còn bốc khói khi ửng nắng ở Lam Điền!
Dĩ nhiên Tiên Điền tiên
sinh đã không hiểu lầm ý thơ của họ Lý. Do đâu mà chúng ta có thể khẳng
định như vậy? Ngoài bản lĩnh của nhà học giả này như ta đã biết, lý do
là ngày sau đó, khi Kim Trọng hỏi Kiều: “Tiếng đàn ngày trước sao ai
oán, não nùng, mà hôm nay em đàn nghe sao vui thế?” (Chàng rằng: Phổ ấy
tay nào?/ Xưa sao sầu thảm, nay sao vui vầy”), thì Nguyễn Du đã thay
nàng Kiều đáp lời: “Tẻ vui bởi tại lòng này/ Hay là khổ cận đến ngày
cam lai?”.
Mặc dù phải đối đầu với
định mệnh phũ phàng, nghiệt ngã trong suốt mười lăm năm chia cách (“Ong
qua bướm lại đã thừa xấu xa/ Bấy chầy gió táp mưa sa”), Nguyễn Du đã
thay Kiều khẳng định phẩm chất đẹp đẽ trong sạch của nàng: “Chữ Trinh
còn một chút này”. Chữ Trinh ở đây dĩ nhiên phải hiểu theo nghĩa tinh
thần. Kiều cảm kích bởi tấm lòng của người cũ, vì hơn ai hết Kim Trọng
hiểu được điều đó, bởi thế Kiều mới nói: “Thân tàn gạn đục khơi trong/
Là nhờ quân tử khác lòng người ta/ Mấy lời tâm phúc ruột rà/ Tương tri
dường ấy mới là tương tri! Trong không khí “tình xưa lai láng khôn
hàn”, Kim Trọng nhờ Kiều gảy cho nghe một khúc (“Thong dong lại hỏi ngón
đàn ngày xưa”). Đoạn Nguyễn Du phỏng dịch từ Cẩm sắt chính là để diễn
tả tiếng đàn của Thúy Kiều lúc đó.
Ta hãy thử suy luận. Phải
chăng Nguyễn Du đã thay đổi hẳn bầu không khí “một cách sáng tạo” khi
phỏng dịch đoạn trên nhằm nói lên rằng: “Tẻ vui bởi tại lòng này” và
trong giờ phút tương phùng, Kiều cảm thấy đã được phỉ nguyền (Ba sinh
đã phỉ mười nguyền”), hay nói đúng hơn, nàng cảm thấy đã được giải
thoát khỏi nghiệp chướng? Chắc hẳn chính vì vậy, nên ngay cả giai điệu
lâm ly, u uất của bài Cẩm sắt mà nghe vẫn êm ái, đầm ấm!
Bằng chứng cụ thể và hùng
hồn nhất về sự cố ý thay đổi một cách sáng tạo của Nguyễn Du có thể tìm
thấy ở câu cuối cùng trong sáu câu thơ phỏng dịch. Trong câu này,
thiên tài họ Nguyễn đã đảo ngược hiện tượng, biến “Lam Điền nhật noãn
ngọc sinh yên” (Lam Điền nắng ấm ngọc tan bay) thành “Ấm sao hạt ngọc
Lam Điền mới đông”, tức “ngọc tan thành khói” trong nguyên tác đã trở
thành “ngọc… mới đông” trong Truyện Kiều! Vì “ngọc… mới đông” nên Nguyễn Văn Vĩnh khi chuyển ngữ dang tiếng Pháp, đã dịch câu này là: “Et c’était chaud comme une de ces gouttes qui viennent de se cristalliser en perles sur la plaine de Lam Điền” (15).
Trong Truyện Kiều,
điều đáng chú ý là Nguyễn Du đã khởi đầu bằng thuyết “tài mệnh tương
đố” cũng có xuất xứ từ thơ của Lý Thương Ẩn (“Cổ lai tài mệnh lưỡng
tương phương”, tức “Xưa nay tài mệnh thường hay kỵ nhau”, và như chúng
ta đã thấy, trong phần kết thúc, Nguyễn cũng đã phóng dịch một đoạn thơ
của họ Lý trong khúc đàn cuối cùng của nàng Kiều nhằm chứng minh là
“tẻ vui” là “bởi tại lòng này” và niềm vui sẽ có được khi trong lòng
không còn bị vướng vất bởi các nghiệp chướng. Theo Nguyễn Du, đánh thức
thiện căn, thiện tâm chính là chìa khóa đưa đến sự giải thoát (“Thiện
tâm ở tại lòng ta/ Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”).
Sự thay đổi nội dung, từ bốn câu thơ trong bài Cẩm sắt sang đoạn phóng dịch trong phần kết thúc Truyện Kiều,
nghĩ cho cùng, là một hiện tượng khúc xạ xảy ra khá phổ biến, với mức
độ khác nhau khi nước này tiếp thu văn hóa nước kia trong quá trình
giao lưu, giao thoa văn hóa.
Điều đáng chú ý là trong
trường hợp này, thiên tài “Nguyễn Du” đã “Việt Nam hóa” bốn câu thơ
trong bài Cẩm sắt một cách điêu luyện nhằm bảo vệ nàng Kiều, nạn nhân
của nghịch cảnh xã hội, và chứng minh rằng mặc bao “gió táp mưa sa”,
nàng Kiều đã giữ được phẩm giá trong trắng của mình. Như nhiều thức giả
đã nhận xét, đành rằng Tố Như tiên sinh đã ít nhiều ký thác tâm sự vào
Kiều khi bảo vệ cho nàng (16), tuy nhiên
tâm thức “tấm lòng như tuyết như băng”, hoặc “gần bùn mà chẳng hôi tanh
mùi bùn” mà Tố Như tiên sinh đã khẳng định qua Kiều nằm ngay trong cốt
lõi tâm tình dân tộc của người Việt. Có lẽ vì thế nên Truyện Kiều,
ngoài những vần thơ điêu luyện, đã được người Việt – nạn nhân của
không biết bao cơn binh lửa cùng nghịch cảnh xã hội – yêu chuộng mãi
không thôi.
(1)
|
Trích lại từ Wang Chiu-kuei (Vương Thu Quế) “Objective Correlative” in the love Poems of Li Shang-yin
(Tương quan khách quan trong những bài thơ tình của Lý Thương Ẩn),
Trung tâm Nghiên cứu Ngữ văn Ngoại quốc, Đại học Quốc lập Đài Loan
(Taipei: Quỹ Văn Hóa, Gia Tân Thủy Nê Công Ty, 1970), trang 31.
|
(2)
|
Ví dụ, xem Lê Nguyễn Lưu, Đường thi tuyển dịch (Huế: Nxb Thuận Hóa, 1997), tập 2, trang 1331.
|
(3)
|
Có học giả nhầm tên bài thơ này là Cầm sắt, thay vì Cẩm sắt; ví dụ: Nguyễn Thạch Giang khảo đính và chú giải. Truyện Kiều (Hà Nội: Nxb Giáo dục, 1996, xuất bản lần thứ XIII), trang 234; hoặc Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim hiệu khảo và chú thích, Truyện Thúy Kiều (Fort Smith, AR: Nxb Sống mới, không ghi năm in lại), trang 206.
|
(4)
|
Tokyo: Kadokawa Shoten, 1992, trang 1820
|
(5)
|
Có sách ghi là Thái đế. Xem James Liu, The Poetry of Li Shang-yin (Thơ Lý Thương Ẩn). (Chicago: The University of Chicago Press, 1969), trang 51.
|
(6)
|
Trích dẫn lại từ Takahashi Kazumi, Ri Shôin (Lý Thương Ẩn) (Tokyo: Kawade Bunko, 1996), trang 40.
|
(7)
|
Đối với độc
giả Việt Nam, tuy cách gọi Thục đế nghe quen tai hơn Vọng đế, nhưng
nguyên văn chữ Hán để là Vọng đế thì ta phải theo đúng vậy, khi dịch
sang tiếng Việt dĩ nhiên ta có thể chuyển thành Thục đế; chẳng hạn
như: Nguyễn Thạch Giang khảo đính và chú giải, sđd, trang 234; Tản
Đà Nguyễn Khắc Hiếu chú giải, Vương Thúy Kiều (Đoạn trường tân thanh) Sài Gòn: Tủ sách Hương Sơn, 1960), trang 234.
|
(8)
|
Takahashi Kazumi, sđd, trang 40.
|
(9)
|
Như trên
|
(10)
|
Như trên, trang 40-41.
|
(11)
|
Trích lại từ Wang Chiu-kuei, sđd, trang 38.
|
(12)
|
Xem James Liu, Sđd, trang 52-57.
|
(13)
|
Xem Fusheng Wu, The Poetics of Decadence: Chinese Poetry of Southem Dynasties and Late Tang Periods
(Thi ca đồi phế: Thơ Trung Quốc vào thời Lục Triều và Vãn Đường)
(Albany, NY: State University of New York, 1998), trang 169.
|
(14)
|
Về điểm này, học giả Đặng Thanh Lê cũng đã đưa ra nhận xét tương tự trong Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm (Hà
Nội: Nxb Khoa học Xã hội, 1979), trang 141. Cách lý giải trong sách
này về ý nghĩa của đoạn phỏng dịch từ Cẩm sắt hay phần “Tái hồi Kim
Trọng” nói chung có điểm khác với cách lý giải của chúng tôi.
|
(15)
|
Nguyễn Du, Kim Vân Kiều: Traduction en Francais par Nguyễn Văn Vĩnh
(in theo bản của Nhà Alexandre de Rhodes, Hà Nội, 1943: Nxb Văn
học, 1994), trang 780. Người viết gạch dưới để nhấn mạnh.
|
(16)
|
Theo quan
niệm “Trung thần bất sự nhị quân” (tôi trung không thờ hai vua) ngày
trước, việc làm quan cho hai triều (trước làm tôi nhà Lê và sau ra
làm quan cho nhà Nguyễn) chắc đã làm Nguyễn Du trăn trở không ít.
|