dimanche 23 septembre 2018

Ngày Xưa Ta Đi Học, bài viết của Nguyễn Nhơn.

"Cái học ngày nay đã hỏng rồi..."

Câu tiếp theo thì tuỳ ý anh chị nghỉ ra như những câu thơ trên mạng viết, đọc mà thấy ngậm ngùi.
Nói về chuyện đi học ngày xưa, khó khăn cách mấy, học trò vẫn cố gắng với khả năng của mình mà thi cho đậu để có dịp làm hãnh diện mẹ cha và có "job thơm" cho bản thân.

Đã lâu lắm rồi, người viết về cái học ngày xưa như càng hiếm, vì thời gian làm xoá đi bao nhiêu ký ức, thì may mắn thay cũng còn anh Nguyễn Nhơn kể lại cho chúng ta hồi ký vể cuộc đời đi học của anh.

Theo đó mà người ta mới hiểu thế nào là công ơn thầy giáo đã truyền kiến thức và những hình phạt đau đớn để đi đến thành công là cái giá mà các học trò đều phải ngoan hứng chịu chứ không có chuyện cầm dao xin tí huyết thầy giáo như thế hệ đời nay.

Ngày xưa, chữ viết mà không biết nắn nót là cũng đủ ăn thước vào tay, chưa kể bao nhiều lời phán vào học bạ để về nhà lãnh thêm hăm he của cha mẹ.

Thế mà ai dám không thầy đố mày làm nên...

Kính mời quý anh chị đọc bài viết của tác giả Nguyễn Nhơn.

Cám ơn tác giả đã chia sẻ bài viết đáng quý này, từ sau những  truyện của Vương Hồng Sểnh.

Caroline Thanh Hương

Bài văn tả về ngày đầu tiên đi học
KÍNH CHUYỂN
Nguyễn Nhơn

Ngày Xưa Ta Đi Học

(HNPĐ)Dân mạng được một phen cười khoái chí, vì mụ chủ tịt cuốc hội xã nghĩa lỡ miệng trong câu nói tự đề cao mình mà thành ra khen Ngụy: Chúng tôi ngày xưa đi học đâu đến mức vậy mà từ tên núi, tên sông, tên cao nguyên, thể hiện trên bản đồ sẽ ở đoạn nào giờ vẫn không thể quên được… Bởi ngặt cái điều ngày xưa đó của mụ nó lại là cái ngày xưa của Việt Nam Cộng Hòa, dân mạng dám nói chắc vậy là do căn cứ vào lý lịch trích ngang của chính mụ nói!
( Đi học ngày xưa - Việt Nhân )

Mụ vc Kim Ngân, cựu công dân VNCH, nhớ ngày xưa đi học.
Ông cựu Petrus Ký Việt Nhân vui miệng kể chiện Đi học ngày xưa.
Gã nhà quê xứ Thủ, cựu Petrus Ký lở sạt, càm ràm chiện tui đi học:

Tôi Đi Học

Ngày xưa, thời Quốc Gia VNCH, tôi đi học:

Giữa lúc Mùa Thu của cuộc đời, ngồi buồn lẩn thẩn vẽ vời về kỷ niệm tuổi Thanh Xuân. Thuở nhỏ, ai cũng từng cắp sách đến trường, ít thì cũng đôi ba năm sơ cấp trường làng, cho biết đọc, biết viết với người ta. Khá hơn một chút thì lần mò ra tỉnh kiếm cái bằng Tiểu học lận lưng. Còn như trì chí, lấy cho được cái bằng Thành Chung, hoặc bảnh hơn, là cái “đíp lôm” Tây (B.E.P.C. Trung Học Đệ Nhất Cấp, chương trình Pháp), thì chức Thầy Thông, Thầy Ký, Thầy Giáo Sư Phạm là trong tầm tay. Còn những ai gan lì, xông pha xuống tận Saigon, vác cho được cái bằng Tú Tài thì…ôi thôi! cuộc đời sắp sửa nở hoa. Tiến lên thì Giáo sư, Kỹ sư, Luật sư mấy hồi. Đặc biệt, những tay yên hùng, chen chân được vào Học Viện Quốc Gia Hành Chánh Saigon thì cái câu thách đố “Phi cao đẳng bất thành phu phụ” dư sức thừa đương.
Nhưng mà, muốn được như vậy thì cũng phải trầy vi, tróc vảy, chịu lắm gian nan chớ đâu phải dễ. Thử nghĩ mà coi, suốt mười lăm mười bảy năm trường, miệt mài đèn sách, trí óc hao mòn, thân hình gầy guộc chứ đâu phải ít. Đã vậy thì chớ, từ buổi thanh thiếu bước vào tuổi trưởng thành, làm sao tránh được việc yêu đương. Cho nên ngoài cái “hành” của việc học còn đèo bồng thêm cái “hành” của việc yêu. Gặp khi tình yêu trắc trở thì nỗi gian nan của việc học làm sao so sánh được nỗi đau đớn của việc yêu. Cho nên mới nói:
Lưu ly nửa nước, nửa dầu
Cuộc đời đèn sách, qua cầu mới hay!
Trường làng Bưng Cầu
Hè năm 1944, ba tôi gởi tôi vào học trường xóm của thầy giáo Ợt để tập làm quen với mặt chữ trước khi chánh thức vào học lớp chót trường làng. Làng nói đây là làng Tương Bình Hiệp, Quận Châu Thành, tỉnh Thủ Dầu Một. Tôi học lớp chót với Thầy Ngộ. Thầy tuy nghiêm khắc nhưng ít đánh, mặc dầu có sắm cái roi ngựa cùn cầm tay dá dá, dọa nhiều hơn đánh. Năm đó tôi học giỏi đến nỗi có lần Mợ Sáu Hà Văn Khuyên dạy lớp Nhì, mượn tôi qua làm toán chia, biểu diễn cho các anh, chị lớp trên xem chơi. Thế rồi kỳ nghỉ hè đến. Những cuộc rượt đuổi, bắn ống thụt nước tiếp diễn từ Mội Chợ đến Mội Thầy Thơ. Sau buổi cơm chiều, lơn tơn xuống bãi chợ. Nào đạp lon, cút bắt. Nào rượt đuổi, cá sấu lên bờ trên các sạp chợ.
Bất đồ, quân Nhật kéo đến, chiếm trường làm đồn bót. Kế đến biến cố “Mùa Thu rồi, ngày hăm ba…” tức là Nam Bộ Kháng Chiến. Rồi tản cư lên tận Long Nguyên, Bến Cát. Lúc hồi cư thì trường học lại bị Tây chiếm, làm bót. Viên chức Làng mới mượn rạp hát phía sau Nhà Việc, tạm làm lớp học. Tôi vào học lớp Nhì trường Làng với Cậu Sáu Hà Văn Gương. Cậu la hét cũng dữ mà khẻ tay, cốc đầu cũng nhiều, cho nên thằng cháu họ học cũng giỏi. Chưa hết niên học, thì ban đêm Việt Minh lò mò về gần xóm Chợ, nên ba tôi lật đật dọn nhà về chợ Thủ.
Trường Tiểu học Phú Cường, Thủ Dầu Một
Tôi vào học lớp ba với cậu hai Hà Văn Hạnh (Mấy cậu họ ngoại làm thầy giáo hơi nhiều). Cậu nghiêm nghị, dạy giỏi, nhưng ít rầy, đánh. Chỉ khi nào mấy cậu công tử ở chợ lên bảng làm toán trầy trật thì cậu gọi thằng cháu lên dứt điểm, rồi nói kháy: Coi, học trò trường làng học như vậy đó. Năm đó, tôi đậu bằng Sơ học với Mention Francais chữ đỏ đàng hoàng.
Năm sau, tôi học lớp nhì với thầy Lê Văn Nghĩa. Không hiểu sao lúc nầy tôi học rất dở. Chẳng những bị xếp vào “xóm nhà lá” cuối lớp, lại còn bị đưa xuống lớp Nhì C của thầy Lê Văn Ngữ mới thuyên chuyển về. Tuy vậy, cuối năm vẫn thi đậu lên lớp nhất.
Học lớp nhất với thầy Nguyễn Văn Kia là bạn đánh tứ sắc với ba tôi, nên thầy chăm sóc hơi kỹ, nghĩa là ăn đòn cũng bộn. Đặc biệt, tới giờ viết “đít tê”, không phải là tê cái đít, mà là u cái đầu. Bắt đầu, thầy cởi cái đồng hồ mạ vàng để lên bàn. Tay cầm cây double décimeter dài hai tấc, bản to, dày cộm lên. Lập tức, âm thanh cốc, cốc, bịch vang lên. Càng về phía xóm nhà lá, âm thanh càng nhặt. Chẳng là khi thầy gỏ cốc, cốc lên đầu thì phản ứng tự nhiên, đưa tay ra đở. Thầy bèn nện xuống lưng cái bịch.
Còn mấy tháng tới kỳ thi Tiểu học thì chẳng may ba tôi bị Việt Minh bắt cóc. Tôi phải bỏ học, lăn lộn mãi tận miệt Tân Long, Hoá Nhựt để tìm kiếm, rồi lo tiếp tế, thăm nuôi.
Cho nên năm đó, thi rớt bằng Tiểu học.
Năm sau, ngồi lại lớp Tiếp Liên. Lúc nầy tôi sống lêu bêu. Nay ở với cậu Bảy đánh xe ngựa. Mai lên ở với cậu Tư thâu tiền chỗ ở chợ Thủ. Như vậy làm sao học hành cho được, nên cuối năm lại thi rớt Tiểu học lần nữa. Tưởng đã phải bỏ học, may đâu, người cô họ mới lấy chồng nhà binh, đóng ở Châu Đốc, mới đem tôi theo cho có bạn.
Trường Tiểu học Châu Phú, Châu Đốc
Dượng tôi làm quan một (Thiếu Úy) chỉ huy một Đại đội thuộc Tiểu đoàn 11 Khinh Binh. Doanh trại đặt ngay bên bờ Châu Giang, cạnh trường Tiểu học Châu Phú. Chính quan Quản Thường vụ Đại đội (Adjudant de compagnie) là người dắt tôi vào xin học lớp Nhất với thầy Lê Văn Phú.
Không hiểu vì sống lâu lên lão làng (lớp nhất 3 năm) hay nhờ sống giữa đoàn chiến binh hào hùng mà việc học đâm ra khởi sắc. Tôi giỏi toán nhất lớp. Pháp văn chỉ kém bạn Cảnh, giỏi nhất lớp, chút ít. Năm đó là năm đầu tiên Việt hoá chương trình bậc Tiểu học nên Pháp văn trở thành môn phụ kèm. Tôi là học sinh duy nhất của trường Tiểu học Châu Phú đậu bằng Tiểu học với Mention Francais.
Phước bất trùng lai, họa vô đơn chí. Bất ngờ Dượng tôi tử trận. Vậy là đành chào giả biệt Dòng An Giang sông sâu, nước biếc, qui hồi xứ Thủ,
Trường Trung học Tư thục Nguyễn Trãi, Bình Dương
Lúc nầy ba tôi đã trốn khỏi trại giáo hóa của Việt Minh, trở về làm việc trên Tòa Bố (Tòa Hành chánh Tỉnh). Nhà cửa không có. May được ông cậu họ, chỉ huy Partisan, Phú Cường, cấp cho căn trại nhỏ xíu, chỉ để vừa đủ cái giường. Đêm đêm, tôi phải vác ghế bố ra dãy nhà bếp của doanh trại nằm ngủ.
Lại thi rớt vào trường Pétrus Ký Saigon, đành phải theo cái nghiệp trường tử, trường tư, vào học lớp Đệ Thất, trường Tư thục Nguyễn Trãi mới lập. Thấy Chị Nô, anh Mười học Pháp văn rất giỏi, nên tức mình quyết học cho bằng. May đâu, thầy Phạm Duy Nhượng (bào đệ của Thạc sĩ Văn phạm nổi tiếng Phạm Duy Khiêm) mới từ ngoài Bắc vô, dạy Pháp văn, rèn luyện cho một chặp. Vậy là cuối năm, tôi đã vượt mặt chị Nô, anh Mười.
Cho nên kỳ nghỉ hè năm đó thật là hào hứng. Nào vượt sông Thủ, từ bến Trường Mỹ Nghệ qua tận cầu Bà Bếp bên phía Củ Chi. Nào đạp xe đạp đường trường lên tận Bến Cát, Dầu Tiếng. Có khi thăm thú núi Châu Thới, Bửu Long bên xứ bưởi Biên Hòa.
Năm sau, vào lớp Đệ Lục. Hồi đó, trường dạy theo chương trình Trung học Pháp nên tất cả các môn học đều được diễn giảng bằng tiếng Pháp. Cho nên. hể trò nào cứng Pháp văn là ăn trùm hết thảy. Tôi học giỏi hầu hết các môn học, kể cả môn Sử Địa do thầy Nhạc sĩ Lê Thương giảng dạy.
Qua năm Đệ Ngũ, quí thầy thấy học trò của mình học cứng cựa nên mới toan tính chọn ra một nhóm học giỏi để cho đi thi nhảy lớp bằng Brevet. Năm đó học hành như điên. Hết lớp ban ngày, tới lớp luyện thi ban đêm do thầy Phạm Duy Nhượng rèn cặp. Cả thầy lẫn trò đều ra sức. Thầy dạy tận tình, trò học hết sức. Chẳng may, cả nhóm 21 trò gởi đi thi năm đó đều rơi đài. Thật ra là duy nhất có một mình tôi đậu thi viết mà không hay, chỉ vì mặc cảm thi rớt nên làm biếng đạp xe đạp xuống Saigon xem kết quả, nên mới ra nông nỗi. Mãi đến cận ngày thi khóa 2, được giấy gọi đi thi vấn đáp mới tá hỏa tam tinh. Đã học mói lại thiếu chuẩn bị nên phải rớt kỳ thi vấn đáp là lẽ dĩ nhiên.
Năm Đệ Tứ, coi mòi không êm nên thầy Phạm Duy Nhượng mới đề ra chương trình song ngữ, để vừa thi Brevet, vừa thi Trung học Đệ Nhất cấp, mới đưa vào Nam để thay thế bằng Thành Chung thời Pháp thuộc. Năm đó, trường mở cuộc thi thử để trắc nghiệm khả năng học sinh. Trong bài thi viết chính tả tiếng Pháp, có một câu thuộc loại biệt lệ ngữ pháp tréo ngoe: Le participe passé s’accorde en genre et en nombre avec l’objet direct placé avant. Cả lớp chỉ có một mình tôi là viết trúng. Vừa về tới nhà đã thấy cô nhỏ “trán vồ, bướng bỉnh” bước vô. Mới thấy mặt, cậu Cả đã run rồi. Kịp khi cô nàng nghiêm nghị hỏi: Tại sao câu đó phải viết như vậy mới đúng? Anh chàng lính quýnh bèn đọc câu thiệu ngữ pháp kể trên. Cô nhỏ chận lại, gắt: Biết rồi! Nhưng tại sao lại như vậy? Bí quá, anh chàng bèn nói đại: Thì tại tiếng Pháp nó như vậy! Cô nàng trán vồ dễ thương bĩu môi, biểu: Nói vậy là trớt he.  Rồi ngoe nguẩy đi dìa.
Lúc nầy, anh chàng đã là thanh niên mười tám, mười chín tuổi, chớ đâu còn bé bỏng. Cho nên có lẽ nào để cho vụ “thắc mắc ngữ pháp” đó trớt he cho đặng. Cho nên kể từ đó mà đi, trong giấc ngủ cô miên, thường mơ màng, lãng đãng bóng hình mái tóc dài, tà áo trắng đó. Những khi rảnh rang, ngồi thơ thẩn, chợt nhớ tới vụ thắc mắc ngữ pháp, bèn rỉ rã ca câu Sơn Nữ:
Đừng làm thắc mắc cho lòng… trong một thời gian…rồi thương, rồi nhớ.
Sơn nữ ơi! Chiều sương xuống dần…Đợi chờ ai đây?
Thời gian lững lờ trôi… Rồi cũng tới kỳ thi Trung học. Mặc dầu học hành có khi mơ màng, lãng đãng như vậy, nhưng tôi vẫn oanh liệt đậu một lượt cả hai bằng Trung Học Pháp, Việt.
Nơi làng quê, tỉnh nhỏ, vụ nầy trở nên sôi nổi. Ở tỉnh, ông cậu họ nội trăm tiếng Tây: Tu es maintenant double diplomé (cháu nay là Trung học lưỡng khoa). Nơi làng quê Bưng Cầu, Ông ngoại tôi mua tờ báo Tiếng Chuông có đăng danh sách thí sinh thi đậu bằng Brevet, rồi lấy viết chì đỏ, gạch một gạch bự dưới tên thằng cháu ngoại, cầm đi khoe khắp làng, khắp xóm: Nè, coi nè, thằng Đực con của Hai Kim Anh đậu bằng “đít lôm Tây”, nè. Nơi làng quê, tỉnh lẻ, tình gia đình đơn sơ mà thắm thiết là như vậy đó. Sự thành tựu của con cháu nhỏ nhoi như vậy mà vẫn trầm trồ, khen lao không ngớt.
Trường Trung học Tư thục Văn Lang, Saigon
Thừa thắng xông lên. Nghe lời thầy Phạm Duy Nhượng, nhảy qua chương trình Việt để học cho nó lẹ. Bèn vọt xuống Saigon tìm đường nhảy lớp. Hè năm đó, tôi ghi danh vào trường Văn Lang, học lớp Đệ Tam theo chương trình rút ngắn để đầu niên khóa vào lớp Đệ Nhị, thi lấy bằng Tú Tài phần I.
Ngồi chưa ấm chỗ đã thấy cô nàng “thắc mắc ngữ pháp”, áo dài mới trắng tinh, ỏn ẻn bước vô, ngồi ngay bàn học trước mặt. Thế là, ngày ngày, mái tóc huyền che phủ bờ vai đó hiển hiện ngay trước mặt, chớ phải nào trong mơ. Nhưng đành phải cắn răng, ngoảnh mặt làm ngơ, vì chương trình lớp Đệ Nhị hồi đó nặng lắm. Tôi ở nhà người Dì trong xóm nhà lá Vạn Chài, phía sau rạp Văn Hoa, Tân Định. Hàng ngày, đạp xe đạp ra chợ Cầu Ông Lãnh, rồi xuôi xuống cuối đường Cô Giang tới trường. Lớp học là mấy căn phòng của dãy nhà phụ lợp tôn, thấp lè tè và nóng bức, phía sau ngôi nhà xưa, cũ kĩ. Nhưng mà có nhằm nhè gì, miễn thầy dạy giỏi thì thôi. Mà ban giảng huấn lớp Đệ Nhị năm đó cừ thiệt. Đích thân thầy Hiệu trưởng Ngô Duy Cầu dạy Toán. Việt văn do thi sĩ trứ danh Vũ Hoàng Chương đảm trách. Nghe thầy Vũ giảng Kiều thì thôi, hết biết! Vạn vật thì do thầy Nguyễn Văn Đỉnh là giáo sư số một về môn nầy giảng dạy.
Đêm đêm, dưới ngọn đèn ống thông tỏa khói tù mù, ngồi cặm cuội học hành cho đến quá nửa đêm mới nằm lăn ra ngủ. Người Dì cũng đâu có khá giả gì, cho nên việc ăn uống cũng có bề kham khổ. Cuối tuần, lại đạp xe đạp về Bình Dương xin tiếp tế. Nhọc nhằn, vất vả cả năm như vậy, nên công khó cũng được đền bù. Mặc dầu học nhảy lớp, lại thêm nghỉ bệnh cả tháng trời, tôi vẫn hiên ngang thi đậu Tú Tài phần I ngay từ khóa đầu. Cả hai ban A, B của trường gồm cả trăm nhân mạng đi thi, chỉ vẻn vẹn có 8 người thi đậu chớ đâu phải dễ. Vậy là đành phải tạm biệt mái tóc huyền che phủ bờ vai!
Trường Trung Học Pétrus Ký, Saigon
Thời vận hanh thông. Vừa đậu xong Tú Tài phần Một, ông già liền sắm cho chiếc Vespa để đi học. Lúc nầy, thằng Đực làng Bưng Cầu đích thực trở thành cậu Tú chợ Thủ. Cậu Tú muốn nhong nhong lái “ếch bà” chợ Thủ-Saigon đi học cũng được, mà làm biếng ở lại nhà cô Hai cũng xong. Lại còn khỏi phải lo vụ học phí trường tử, trường tư, bởi vì hồi đó, có cái bằng Tú Tài Một cầu chứng thì muốn vào Chu Văn An thì vào, còn muốn vô Pétrus Ký thì vô.
Tôi vào học lớp Đệ Nhất, Pétrus Ký. Đây là lớp Đệ Nhất đầu tiên dạy chương trình Việt của trường, nên quí thầy giảng bằng tiếng Việt xem chừng kém phần lưu loát. Môn Triết do Cha xứ Củ Chi Nguyễn Khiết giảng dạy. Mặc dầu Cha có tới 3 bằng Cử nhân mà giảng dạy có phần “kiệm ước”. Tôi phải chạy ra học lớp đêm với Giáo sư Trần Bích Lan (Nhà thơ Nguyên Sa) dạy Triết nổi tiếng, mới từ bên Pháp về. Vạn vật là môn chính yếu của Ban Khoa Học Thực Nghiệm do Giáo sư Lê Văn Tuyên giảng dạy. Tuy thầy rất quen thuộc chương trình Việt và dạy Vật Lý khá nổi tiếng, nhưng xoay qua dạy Vạn Vật lại thiếu sắt bén. Để cho chắc ý, tôi lại phải chạy đi học lớp đêm với thầy Nguyễn Văn Đỉnh. Lại thêm không biết tại sao đầu óc lúc nầy dường như trống rỗng, nghe giảng Thiên văn học, tai nọ xọ tai kia. Cho nên, đáng lẽ năm Đệ Nhất học hành thong thả mà lại thành ra luộm thuộm. Tuy vậy vẫn giựt được cái Tú Tài Toàn Phần êm ả
Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, Saigon
Đậu Tú Tài Toàn Phần xong, tôi ghi danh vào học chứng chỉ Lý-Hoá-Sinh, chuẩn bị vào Đại Học Y Khoa, lăm le ra làm Bác Sĩ. Học được nửa năm, coi mòi không kham, bèn dòm quanh, dòm quất tìm đường di tản. Đầu tiên, nạp hồ sơ dự thi vào Đại Học Sư Phạm. Nhưng, nhìn lại bộ ngực Oméga, lép kẹp, xem ra không khá, bèn nạp đơn thi vào Học Viện Quốc Gia Hành Chánh. Tôi chỉ biết tên Học Viện qua hình dáng hào hoa, phong nhã của vị Phó Đốc Sự trẻ, mới thuyên chuyển về làm việc trên Tòa Bố (Đại huynh trưởng Bùi Quang Hinh, khoá 1). Đề thi tuyển năm đó khá độc đáo. Đề thi nghị luận chỉ vẻn vẹn có một câu: Tổng Thống VNCH nói “Học tận nơi, hiểu tận gốc, hành chu đáo”. Trong suốt 3 giờ, tôi chỉ quanh quẩn theo yếu lược của thuyết tri hành hợp nhất của Vương Dương Minh, rồi tịt.
Đề thi Sử chỉ có 3 chữ: Cuộc Nam tiến. Tôi bỗng nhớ tới cuốn sách hình Vua Đế Minh tuần thú phương Nam…bèn múa bút một lèo, cho tới khi Mạc Cửu khai phá vùng Hà Tiên thì ngừng. Viết quảng, viết tiều như vậy xem ra không khá.
Đề thi dịch Văn cũng chỉ có 3 chữ: Tôi đi học, của Thanh Tịnh. Bài nầy dịch ra tiếng Pháp tương đối dễ vì cách hành văn gọn gàng, đơn giản. Nhưng muốn dịch cho hay để ăn điểm hơn các thí sinh khác là không phải dễ.
Cho nên, thi rồi, bỏ đó, mặc cho số phận đẩy đưa. Bất ngờ, giáp Tết Âm lịch, nhận được giấy gọi nhập học Khóa 6, niên khóa 1959-1961. Ôi thôi! Cả nhà mừng vui, hỉ hả. Ba tôi cao hứng, hô: Rồi, trong nhà sắp có một Ông Phó Đốc Sự con. Thật ra, ba tôi hồ hởi hơi sớm, bởi vì Ông đâu có biết cậu con trai trưởng của Ông còn nhiều phen lận đận mới đạt được “tước hiệu Phó Đốc Sự”.
Vào học năm thứ nhất thật là bở ngỡ, bởi vì các môn học chẳng có dính líu gì tới những kiến thức thu thập được thời Trung học. Ví dụ như môn Công Vụ do Giáo sư kiêm Tổng Giám Đốc Công Vụ Tôn Thất Trạch diễn giảng. Nó vốn chỉ là khóa giảng về Qui Chế Công chức mà Thầy lại đưa nó lên thành ý tưởng thượng thừa về “Công ích, Công thiện” để rồi xuống xề bằng câu chữ Nho: Tiên thiên hạ chi ưu, nhi ưu. Hậu thiên hạ chi lạc, nhi lạc. Rồi đến môn Hành Chánh Nhập Môn do Giảng sư kiêm Chi Vụ trưởng Chi Vụ Giảng Huấn Trương Ngọc Giàu phụ trách. Tên môn học rặt từ Hán Việt, nhưng khi diễn giảng, Thầy tương lên bảng hàng chữ: POSCoRB. Không ai biết nó là chữ Pháp hay chữ Anh và có nghĩa là gì. Té ra đó là chữ tắt của tiếng Anh để biểu thị các đề mục trong khoa quản trị. Tuy rằng “bảy chữ” nhưng lại biểu thị có “sáu đề mục”, bởi vì chữ Co là chữ viết tắt của chữ Coordinating, chỉ biểu thị có một động tác phối hợp. Tôi tức mình bèn nhại lại câu Kiều: Bề ngoài bảy chữ, bề trong “sáu” nghề. Rồi đến cái vụ Đại Nghị chế hay Tổng Thống chế, Thủ Tướng mạnh hay Tổng Thống mạnh, trong môn học Chánh Trị do Giáo sư trẻ Vương Văn Bắc diễn giảng. Thầy tuy trẻ, nhưng giảng bài gọn gàng, mạch lạc mà lại sắc bén như chém đinh, chặt sắt. Khốn nỗi, vì bài giảng gọn gàng, súc tích, nên khi làm bài thi, muốn triển khai thành bài nghị luận trình độ Đại học, mới thật là mướt mồ hôi. Lại còn môn Kinh Tế, do Giáo sư trẻ, Tiến Sĩ Kinh Toán Học Phan Tấn Chức giảng dạy, với học thuyết Kinh Tế Biên Tế, chi li, bí hiểm. Rồi, nào là Phương pháp Tổ Chức, Phương pháp Thống Kê, Phương pháp Sưu Tầm Tài Liệu, kể cả Khoa Học Giao Tế Nhân Sự, hằm bà lằng, xắng cấu, thập bát ban võ nghệ, đều tập trung vào Năm Thứ Nhất.
Mặc dầu niên học ở đây kéo dài đủ 12 tháng, chớ không phải 9 tháng như các khóa khác, trong khi thiên hạ nghỉ hè, thì các chàng trai Hành Chánh trần thân “ắc ê” Cao Đẳng Quân Sự.
Để đối phó tình hình, bộ tứ Thêm, Quân, Quí, Nhơn bèn kết hợp để trao đổi sổ ghi chép, bổ túc lẫn nhau để thành bài học đầy đủ để học thi. Thế rồi, ngày đêm miệt mài đèn sách, không dám dễ duôi. Vậy mà tới cuối năm, trong số 51 hiệp sĩ thượng đài, có tới 11 chàng rơi rụng. Đến nỗi, Thầy Trương Ngọc Giàu thốt lên câu an ủi, thật cảm động: Tôi biết công khó học tập của các bạn. Gỉa như tôi có đầy đủ thẩm quyền, sẽ không đánh rớt bạn nào hết.
Lên Năm Thứ Hai, việc học có phần dễ thở hơn vì đã quen thuộc với các môn học và có kiến thức cơ bản về khoa quản trị khá vững. Đã vậy, Ông Già còn sắm cho Cậu Cả chiếc xe hơi, tuy đời cũ nhưng còn chạy ngon lành lắm. Vì vậy, đã thong dong lại thêm lả lướt. Có khi cao hứng, bộ tứ thượng xế hộp, ra Vũng Tàu tắm biển. Có lần, đang đêm, Cậu Qúi, Công tử Củ Chi, bốc đồng xúi: Tối nay, ở nhà người quen dưới Mỹ Tho, có tổ chức bal de famille (khiêu vũ tư gia). Xuống đó, nhảy cho đả một bửa, trước khi “luật cấm nhảy” ban hành. Vậy là, xứ Định Tường tiến phát. Nhưng, thường khi ngồi kề một bên, là “Người Đẹp Bình Dương”, tức là cô nhỏ tóc dài “thắc mắc ngữ pháp” năm nào. Khi thì bãi biển Vũng Tàu náo nhiệt, lúc lại bãi Tân Thành vắng vẻ, xứ Gò Công.Học hành lả lướt như vậy mà cuối năm vẫn đậu lên Năm Thứ Ba đàng hoàng. Lên Năm Thứ Ba, tôi cặp kè Nguyễn Minh Quân, dựa hơi Thủ Khoa Triệu Triệu Huỳnh Võ, về thực tập ở xứ Cần Thơ, Tây Đô.
Nói rằng thực tập chứ tự tay không có làm công việc gì. Chỉ là đi nghe quí vị Trưởng Ty, Sở thuyết trình, rồi cung cấp Qui chế Điều hành Cơ quan cho quí Ông “Phó” (cách gọi tắt Phó Đốc Sự để gọi tưng các sinh viên đi thực tập) để ghi chú làm tài liệu viết Luận văn Tốt Nghiệp. Thường khi chỉ ngồi xem Huynh Trưởng Nguyễn Khắc Kính, “hàm” Phụ Tá Phó Tỉnh Trưởng (chức vụ không có phụ cấp) duyệt xem công văn để phân phối cho các Ty, Sở.
Thời kỳ nầy, nhàn nhã, lả lướt. Có câu ca dao rằng:
Thương nhau mấy núi cũng trèo,
Mấy sông cũng lội, vạn đèo cũng qua.
Mấy sông thì không có đâu, chớ Bac Cái Vồn xa tắp trên dòng sông Hậu, trong buổi chiều tà lộng gió, cô nàng áo trắng đã từng vượt qua, để rồi ca câu:
Em đến thăm anh chiều lộng gió…
Em đến thăm anh chiều tắt nắng…
Và quên…đường về…
Còn vạn đèo thì đâu có nhiều như vậy. Chỉ có cái đèo Blao trên đường lên Đà Lạt hoặc Đèo Ngoạn Mục xuôi xuống Nha Trang thôi, mà vượt qua đà ná thở nói chi đến vạn đèo.
Cho nên chưa đến giữa năm Thứ Ba, bà xã đã mang bầu. Khổ hơn nữa là cô nàng tên Ngoan mà ngang bướng đó, đã sớm hứa hẹn với người bạn học thời Đệ Thất, Đệ Lục. Càng khổ hơn vì vài năm trước đây, cô nàng đã chánh thức hứa hôn. Cho nên, sự thể đã bế tắc, càng thêm bế tắc.
Hai đứa đành khăn gói, gió đưa, trở lại Xóm nhà lá Vạn Chài, tá túc nhà Cậu Út. Đêm đêm, dưới ngọn đèn dầu tù mù, chàng cặm cuội viết Luận văn Tốt Nghiệp. Còn nàng thì còn tâm trí đâu để ngâm nga: Bên chàng đọc sách, bên nàng quay tơ. Có chăng, chỉ là: Bề ngoài cười “gượng”, bề trong khóc thầm.
Đâu có đủ tiền để in ấn Luận Văn, lại phải nhờ Cậu Út ăn cắp giờ công sở, gò lưng đánh máy dùm cho. Mà nào đâu đã được yên thân. Vị hôn phu của cô nàng truy lùng tìm tới.
Vậy là, bắt đầu cuộc sống lang thang, rày đây, mai đó. Bửa trưa, xẹt vô nhà Cô Hai ăn cơm. Buổi tối, dọt vô nhà Dì Sáu ngủ. Lắm khi lăn lóc nơi nhà kho của vườn ương Bộ Canh Nông, ở gần ngã ba Cây Quéo.
Cho nên, kỳ thi Tồt nghiệp năm đó, thi đậu mà không biết vì sao thi đậu! Buổi tối, sau khi nghe kết qủa, mừng mừng, tủi tủi, rủ “bà bầu trẻ” ra rạp Văn Hoa xem phim Les Canons de Navarrone. Ngồi xem phim mà ngơ ngẩn, ngẩn ngơ như lạc vào giấc mơ huyền thoại.
Vậy đó, cuộc đời đi học dày dạn phong trần, kéo dài suốt mười tám năm đoạn trường là như vậy đó. Cho nên mới ca cẩm rằng:
Thời gian nước chảy qua cầu
Cuộc đời đi học dãi dầu gian truân.
Lời Kết
Nói rằng “Qua cầu mới hay”, vậy chớ hay là hay cái gì vậy? Phải chăng nỗi vất vả của những ngày đầu đi học, lay quay mầy mò con chữ, con toán? Ba cái vụn vặt, lẻ tẻ làm sao sánh được với niềm vui hồn nhiên của tuổi thơ. Hay là nỗi nhọc nhằn của những năm dài miệt mài đèn sách để thi Tú Tài? Sự cực nhọc đó làm sao sánh được với niềm vui lãng đãng, mơ màng về thứ tình yêu mỹ miều mà không hiện thực của tuổi vừa biết yêu đương? Còn như nổi băn khoăn, trăn trở, nhọc nhằn xây dựng tương lai của thời Quốc Gia Hành Chánh làm sao sánh được với vị ngọt của nụ hôn thắm thiết đầu đời?! Nói tắt một lời, cho dẫu việc học hành dầu có cực nhọc đến đâu, tình yêu dù có ngọt ngào hay cay đắng đến thế nào đi nữa, tất thảy đều là những nét đẹp duy nhất đầu đời, một đi không bao giờ trở lại. Có ai bắt lại được “cái phút ban đầu lưu luyến ấy”, thử nói nghe coi?
Cho nên, trong buổi hoàng hôn của cuộc đời, vẫn thanh thản ngâm nga:
Tình yêu, mơ ước đầu đời
Cuộc đời đi học, một trời Thanh Xuân


Nguyễn Thành Nhơn


Ngày nay, thời xã nghĩa cu đ... đi học:
TÔI ĐI HỌC
Từ Thức
Buổi sáng mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tự nhiên thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay dổi, vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn : hôm nay tôi đi học.
Tôi nói : Đéo muốn đi học.
Mẹ mắng : sư cha mày, nhà nghèo tiền đâu mua bằng giáo sư, tiến sĩ. Khôn không muốn, muốn ngu. Đi học lớn lên làm dư luận viên, cảnh sát lưu thông không muốn, muốn đi ăn mày hả ?
Tôi nghe mẹ, dậy sớm theo mẹ tới trường. Từ nhỏ, vẫn mơ ước sau này lớn lên làm dư luận viên, được trả tiền chửi cha thiên hạ, hay làm cảnh sát giao thông, cần tiền nhậu hay rút bài, chỉ việc ra góc đường, tóm đầu mấy thằng lớ ngớ chạy xe, về tội vượt đèn đỏ, hay vượt đèn xanh, đội nón hay không đội nón an toàn, vừa chạy xe vừa gọi điện thoại, hay chạy xe mà không trả lời iPhone.
Trước mặt tôi, trường Mỹ Lý vừa xinh xắn, vừa uy nghiêm như đình làng Hòa Ấp. Sân nó rộng, mình nó cao hơn những buổi trưa hè đầy vắng lặng. Mái trường không còn, tường trống trơn : cán bộ đã gỡ ngói, gạch về cất nhà riêng. Cũng như tượng trong chùa đã bị các cán bộ sư đem bán, mua rượu thịt nhậu nhẹt với bồ nhí sau những giờ tụng niệm. Lòng tôi đâm ra lo sợ vẩn vơ.
Ông hiệu trưởng gọi mấy cậu học trò mới đứng lên trưóc lớp ba. Trường làng không có văn phòng hiệu trưởng. Bàn ghế, bảng đen ông đã khênh về tặng vợ lẽ. Ông nhìn chúng tôi, nói nhỏ nhẹ :
-Thế là các em đã vào lớp năm. Các em phải cố gắng học để thầy mẹ vui lòng, thầy dạy các em sung sướng. Năm đầu, và những năm sau, các em chỉ học tư tưởng Bác. Đứa nào không thuộc bài, lần đầu phải đóng cho tao 100 ngàn , lần thứ hai 200 ngàn. Các em đã nghe chưa ? ( Các em đều nghe, nhưng không em nào dám trả lời. Cũng may mà có tiếng dạ ran của phụ huynh đáp lại ) .
Ông hiệu trưởng ra dấu cho chúng tôi vào lớp. Một cô giáo nạ dòng, mặt mũi sơn phết son phấn, quần áo xỉn, ân cần đón chúng tôi vào lớp. Khi cả đám đã ngồi xuống đất ẩm, vì nền nhà đã bị cô giáo .., cô ôn tồn nói :
-Năm nay, các em sẽ được học tư tưởng Bác. Phải chăm chỉ học hành cho xứng đáng là cháu ngoan của Bác. Nhưng trước khi học tư tưởng Bác, phải học thuộc lòng nội quy: không thuộc bài, nộp cô giáo 200 ngàn, nói chuyện trong lớp 300 ngàn, đi trễ 400, đái ra quần 500 ngàn
Một thằng dơ tay hỏi :
-Thầy hiệu trưởng nói không thuộc bài chỉ đóng 100 ngàn
-Thằng nào, con nào muốn lấy bao nhiêu tao đéo cần biết. Đây là giang sơn của tao, nội quy do tao đặt ra. Đứa nào không thích thì cút. Mặt mũi chúng mày ngu như lợn, ngoài tao ra, không có đứa nào dạy chúng mày thành người được đâu.
Thằng nhỏ hỏi lại :
-Nếu nhà nghèo quá, không có tiền nộp thì sao ?
-Đéo cãi cọ lôi thôi nữa, không có tiền nộp thì cút. Tiên sư cha nhà mày, nghèo mà bày đặt đi học. Tao đéo nói nhiều nữa, chỉ lộn ruột. Con nhà mất dạy, chưa học đã phá đạo đức nhà trường. Nhắc lại cho cả lớp : đứa nào không có tiền nộp thì cút ngay cho khuất mắt
Thằng nhỏ đứng dậy, vùng vằng ra khỏ lớp :
-Ông đéo muốn học. Ông đi chăn trâu sướng hơn.
Lớp học yên tĩnh trở lại. Một con chim liệng đến đứng trên bờ cửa sổ trống ( cánh cửa đã bị cô giáo…), hót mấy tiếng rụt rè rồi vỗ cánh bay cao.
Tôi đưa mắt thèm thuồng nhìn theo cánh chim. Một kỷ niệm cũ đi bẫy chim giữa cánh đồng lúa bay trên bờ sông Viêm sống lại đầy dẫy trong trí tôi. Nhưng đó chỉ là những kỷ niệm. Ngày nay, cánh đồng không còn một tiếng chim hót, bờ sông trở thành đất của hãng Tàu, nước sông đen, cá chết nổi lềnh bềnh vì hóa chất.
Tiếng phấn của cô giáo gạch mạnh trên bảng đen đã đưa tôi về cảnh thật. Tôi vòng tay lên bàn chăm chỉ nhìn cô viết và lẩm bẩm đọc : Bài tập viết :
‘’ không có gì quý hơn độc lập, tự do ‘’( 1 )
( 1 ) Bài này, nếu có những câu giống văn Thanh Tịnh, chỉ là một sự tình cờ, ngoài ý muốn của tác giả.

Sau đây là lời chú thích của tác giả bài viết này.
Cám ơn anh Nguyễn Văn Nhơn đã có công viết lại hồi ký truyện xưa , những truỵên có thật mà anh đã từng làm việc hay gặp gỡ những nhân vật quan trọng then chốt của một thời Việt Nam Cộng Hoà.
Có lẽ đó cũng là những mẩu truỵên còn sót lại mà không có sử sách nào ghi lại nữa.

 
Chào Chị Thanh Hương,
Tôi mới vào Trang Nhà xem.
Cám ơn vê những lời giới thiệu trang trọng và trình bày trang nhã.
Tôi gốc xứ Thủ, Bình Dương, lập nghiệp ở Biên Hòa.
Tôi phục vụ Quê Nhà xứ Bưởi 11 năm, từ Phó Quận Trưởng Dỉ An tới Phó Tỉnh Biên Hòa cho tới ngày sập tiệm.
Ở tù vc về vẫn sống ở Ba Huyền cho tới khi quy mã năm 1990, trừ 4 năm Kinh Tế Mới Bảo Lộc.
Các con tôi. 4 đứa đều là dân chánh gốc Biên Hòa.
Lâu lâu, con gái tôi vẫn: Ba nè, hình dinh thự nầy là cái gì?
Gởi chị Thanh Hương bài Đôi Nét Về Dinh Thự và Nhân Vật Tỉnh Biên Hòa đọc cho vui.
Thân kính,
Nguyễn Thành Nhơn

Đôi Nét Về Dinh Thự và Nhân Vật Tỉnh Biên Hòa

13 Mar 1973, Quang Tri, Vietnam --- Communist POWs are set free in Quang Tri, on the Beh Hai river along the 17th parallel. --- Image by © Geneviève Chauvel/Sygma/Corbis
Một bửa, con gái Chi Mỹ hỏi: Ở Biên Hòa, Dinh Chánh Tham Biện là ở chỗ nào vậy, ba?
Tôi bật cười nhớ lại chuyện xưa và thuật cho con gái nghe.
Dinh Chánh Tham Biện
Tôi gốc dân xứ Thủ. Ba làm công chức ở ” Tòa Bố ” Thủ Dầu Một nên thường nghe kể giai thoại về hai tỉnh TDM và Biên Hòa thi đua xây cất Tòa Hành Chánh và Dinh Tỉnh Trưởng.
Bên xứ Thủ, Tòa HC thời đó kêu là Tòa Bố ( Tòa Bố Chánh?) nằm trên dỉnh gò cao giữa những cây cổ thụ, địa thế thật đắc cách. Dinh Tỉnh Trưởng kêu là Dinh Chánh Chủ Tỉnh nằm kề bên, mặt tiền ngó ra bờ sông Thủ, giữa lùm cây cổ thụ xanh tươi ra vẻ bề thế mà thơ mộng.
Bên Biên Hòa, Tòa Hành Chánh và Dinh Tỉnh Trưởng đều xây cất cạnh bờ sông Đồng, khoảng giữa Ty Bưu Điện và Chợ xứ Bưởi.
Thiết kế 2 dinh thự của 2 tỉnh giống nhau, nhưng vị trí Tòa Hành chánh và Dinh Tỉnh trưởng Thủ Dầu Một đắc thế hơn.
Cà kê vậy để xuống xề: Dinh Chánh Tham Biện Biên Hòa tức là Dinh Tỉnh Trưởng như tên gọi sau nầy.
Sở dĩ  người dân xứ Bưởi trạc tuổi con gái tôi sanh năm 1966 mờ ớ về tên gọi dinh Tỉnh trưởng là do có sự thay họ, đổi tên về sau nầy.
Khoảng năm 1965, Trung tướng Nguyễn Bảo Trị về làm Tư lịnh QĐ3/VIII, ông dùng Dinh Tỉnh trưỡng Biên Hòa làm dinh Tư lịnh Quân Đoản 3. Trung tá Tỉnh trưởng Trần Văn Hai dời về dinh thự ở góc đường Nguyễn Trải cạnh bờ sông. Dinh thự nầy trước đây là dinh Tư lịnh Sư đoàn 5 thời Thiếu tướng Đặng Thanh Liêm làm Tư lịnh sư đoàn.
Có mấy câu chuyện về dinh thự nầy khi trở thành Dinh Tư lịnh Quân Đoàn:
 Tượng Quan Trung cởi ngựa
Khoảng năm 1967, TLQĐ yêu cầu tỉnh cho tạc một pho tượng Quan Trung cởi ngựa để  đặt trong sân cỏ trước dinh. Đây là tác phẩm điêu khắc trứ danh của Trường Mỹ nghệ Biên Hòa. Không hiểu vì sao vị tư lịnh lại đem pho tượng lớn gần bằng người thật vào đặt trong phòng khách lớn trong dinh.
Khi Trung tướng Lê Nguyên Khang về làm tư lịnh QĐ, xãy ra câu chuyện loan truyền: Đêm khuya, nghe tiếng vó ngựa rì rầm nơi đặt tương Quan Trung cởi ngựa. Vì vậy, Trung tướng Khang ra lịnh cho dời tượng ra sân cỏ như củ. Một bửa vui chuyện, tôi hỏi Thiếu tá Vinh, tùy viên TL, có phòng ngủ bên cạnh phòng khách về câu chuyện nầy thì Thiếu tá Vinh xác nhận là có thật.
 Cây Da cổ thụ gãy ngang
Phía sau Dinh có một cây da cổ thụ.Thời Trung tướng Đỗ Cao Trí làm tư lịnh Quân đoàn, một bửa sáng, thấy một số thầy, cô công chức đứng lấp ló nơi cửa sổ trên lầu tòa hành chánh ngó qua bên dinh tư lịnh, xầm xì. Hỏi ra mới biết đêm qua, tuy không có mưa gió lớn mà không hiểu sao cây da cổ thụ, gốc bằng vòng tay mấy người ôm mà bỗng nhiên gãy ngang như búa chặt gần nơi gốc?!
Về sau, tôi có việc đi ngang qua, thấy phần gốc đã nẫy chồi xinh tốt.
– Con nai của tướng Trí té sông chết đuối
Tướng Trí có nuôi con nai làm cảnh nơi sân cỏ trước dinh. Nơi cổng dinh thường trực một toán bảo vệ an ninh. Vậy mà không hiểu sao để cho con nai ra bờ sông, té sông chết đuối!?
Gom hai sự kiện kể trên, dư luận xì xầm là ” điềm không may. ” Quả nhiên, sau đó ít lâu, Tướng Đỗ Cao Trí bị nỗ trực thăng, tử nạn!
Danh sách Tỉnh trưởng Biên Hòa
? – 1961: Ông Nguyễn Văn Sĩ
1962 – 1963: Thiếu tá Hoàng Mạnh Thường
1963 – 1964: Trung tá Phạm Đăng Tấn
Tháng 11/ 1964 – Tháng 2/1965: Trung tá Mã Sanh Nhơn
1965 – 1969: Thiếu tá Trần Văn Hai
1969 – 1974: Trung tá Lâm Quang Chính
1974 – 30 tháng tư 1975: Đại tá Lưu Yểm
Vài giai thoại về các vị Tỉnh trưởng
– Như vậy, cụ Nguyễn Văn Sĩ là Tỉnh trưởng dân sự cuối cùng thời Đệ Nhất VNCH.
– Về Thiếu tá Hoàng Mạnh Thường, có dư luận rằng: Ông tự ý khai sắc Thần Đình Tân Lân thờ Thượng Công Trần Thượng Xuyên mà bị mờ mắt,
Năm 1964, tôi đang làm Chánh Văn Phòng Tỉnh trưởng, Thiếu tá Thường có ghé THC chơi. Tôi vui miệng hỏi, ông xác nhận, sau đảo chánh 1/11/1963, có một dạo tự nhiên ông bị mờ mắt.
– Đêm 1/11/1964, lần đầu tiên vc pháo kích vào phi trường Biên Hòa trong lúc dạ tiệc mừng Quốc khánh ở câu lạc bộ Không quân trong phi trường. Lập tức, hôm sau Trung tá Phạm Đăng Tấn bị mất chức, bàn giao chức tỉnh trưởng cho Trung tá Mã Sanh Nhơn.
– Đêm 18 rạng 19/2/1965, xãy ra  ” cuộc Biểu dương Lực lượng ngày 19/2/1965 “, tôi đang là Trưởng ty Nội An Biên Hòa, nghe tin có đảo chánh nên sáng sớm qua văn phòng
nghe ngóng, được biết Trung tá Mã Sanh Nhơn bị An ninh Quân đội bắt giữ trong đêm qua vì có tham dự vào cuộc biểu dương. Thật ra, Trung tá Mã Sanh Nhơn là cựu chánh văn phòng của Tướng Khánh, không có can dự vào vụ nầy. An ninh quân đội bắt nhằm vì ngộ nhận giữa Mã Sanh Nhơn và Phạm Đăng Tấn.
Rốt cuộc, Thiếu tá Trần Văn Hai đã thay thế Trung tá Mã Sanh Nhơn mất rồi!
Danh sách Phó Tỉnh trưởng
1963 – 1965: Đỗ Thành Nhơn
1965 – 1966: Nguyễn Đình Lang
1966 –  1968: Phạm Công Đời
1969 – 1970: Trương Văn Nam
1971 – 1972: Đặng Văn Thạnh
1973 – 30 thanh 4, 1975: Nguyễn Thành Nhơn
Dinh Phó Tỉnh trưởng
Thời Pháp thuộc, dinh phó tỉnh trưởng là một biệt thự một tầng lầu, bên cạnh khám đường.
Thời VNCH, khi đặt ra chức vụ Phó Tỉnh trưởng Nội An, biệt thự được phân đội. Phó tỉnh trưởng hành chánh ở một nửa và Phó Nội An ở một nửa.
Tôi được bổ nhiệm Phó tỉnh trưởng vào đầu tháng 4, 1973. Tôi vẫn ờ bên căn cư xá công chức, số 8 Đoàn Văn Cự.
Tôi về làm việc ở Biên Hòa từ tháng 4, 1964 vẫn ở căn cư xá ấy. Tính tới tháng 4, 1973 được tròn 9 năm. Vì vậy, tôi không có ý dời về dinh phó tỉnh, số 3 Nguyễn Trãi, cạnh bờ sông Đồng. Nhưng ông Tỉnh trưởng bảo ở như vậy xem ra bất tiện nên tôi phải dời nhà về dinh.
Cái dinh Phó Tỉnh nầy kể ra cũng lắm chiện!
Tương truyền, phần dinh Phó Nội An, hồi thời Pháp dùng làm trụ sở Phòng 2, có ma vì có người chết khi bị bắt, điều tra. Cho nên ít ai muốn ở đó vì sợ không may.
Và đây là chuyện có thật:
– Khi làm Phó Tỉnh trưởng Nội An, Đại úy Đỗ Cao Thanh không trú ngụ ở đây vì sợ xui. Vậy mà rốt cuộc cũng mất chức và đổi về vùng II và bị thương vì lựu đạn ở đấy.
– Trước khi dời về dinh Quận trưởng Long Thành, Thiếu tá Đằng TQLC có đề cho gia đình ở nhờ dinh Phó Nội An, lúc ấy để trống, chừng một tháng. Thiếu tá Đằng chỉ làm Quận trưởng Long Thành một thời gian ngắn, rồi bị trả về TQLC, một lúc sau thì tử trận.
– Hồi làm Tư lịnh phó QĐ3, Chuẩn tướng Lê Văn Hưng cũng cư ngụ ở nơi ấy. Chừng một năm sau khi rời về làm Tư lịnh phó QĐ4 thì mất nước, tuẩn quốc như đã thấy!
Khi gia đình tôi dọn về dinh Phó Tỉnh trưởng, bà Lê Văn Hưng vẫn còn cư ngụ phía bên kia.
Bây giờ trở lại chuyện ma bên phía dinh phó tỉnh: Về ngự nơi ” dinh ” chừng mươi bửa, một bửa ” cô giáo ” má bầy trẻ khều tui biểu, ” cái nhà nầy có ma!”. Thấy tui lõ mắt nhìn, bả phân giải: Ban đêm, nhìn ra trước sân, thường thấy một phụ nữ mặc đồ trắng, xỏa tóc dài, đứng dưới gốc cây.
Cậu thượng sỉ quản gia nghe vậy mới đi mời thượng sỉ Đặng ANQĐ, giỏi bùa chú lại xem dùm.
” Ông thầy Đặng ” lại, đi một vòng quanh phòng khách, rồi nói: Cái dinh nầy, khi xây cất bị yếm bùa thật nặng, không giải được. Để tôi cố gắng làm cho tai nạn đở bớt, hoặc may! Và ông thầy đi vòng quanh, tới mỗi góc phòng, ông vẽ bùa bắt ấn giữa thinh không.
Hôm sau thầy Đặng trở lại, tặng tôi một bao thơ nhỏ xíu, giấy hồng điều và dặn: Trong nầy có mấy chữ bùa. Ông Phó khỏi cần làm gì hết, chỉ bỏ trong bóp vậy thôi. Nhưng khi nào muốn làm việc gì mà cảm thấy lạnh lưng, ớn xương sống thì ngưng lại.
Chỉ có vậy mà từ đó về sau, nhà tôi hết thấy ma. Và về phần tôi thì thiệt là may mắn:
– Một bửa rủ bà xã đi cúng đình Tân Hạnh vào chập tối. Tới ngả ba cầu Biên Hòa lên Tân Hạnh, bỗng nhiên thấy dạ bần dùng, bèn bảo tài xế quay về. Vừa tới nhà, nghe điện thoại reo inh ỏi. Vội bước vào cầm nghe: Phòng truyền tin báo cáo; Ông xã trưởng Tân Hạnh dẫn nghĩa quân mở đường đón ông phó bị phục kích, may chỉ bị thương xước nhẹ.
– Hồi ở trại khổ sai nhà đỏ, nhiều lần hoặc dẫy cỏ, hoặc phát lùm mà thấy ớn xương sống, dừng tay lại là thấy mìn ba chia hoặc bom bi!
Còn nhiều chiện nói về ” cái bùa ” mà e lạc đề và nhất là ngại các quý ông duy vật trên diễn đàn quở là ” dốt nát, tin dị đoan, mù quáng ” nên xin dừng lại ở đây.
Nguyễn Nhơn
                               ( Viết theo yêu cầu cũa con gái Chi Mỹ )
Tu chỉnh Danh sách Tỉnh trưởng Biên Hòa – Đôi Nét Về Dinh Thự và Nhân Vật Tỉnh Biên Hòa
Bạn đồng khóa ĐS. 6  Nguyễn Đắc Điều đi thực tập ở Biên Hòa năm 1961 vừa cho hay: Cụ Sĩ họ Hồ  không phải họ Nguyễn và Phó tỉnh trưởng là cụ Lý Hương Huy.
Vậy xin sửa lại:
? – 1961: Hồ Văn Sĩ
? –        ?: Thiếu tá Hoàng Mạnh Thường
? -11/1963: Thiếu tá Trần Văn Dĩnh
11/1963 – 11/1964: Trung tá Phạm Đăng Tấn
11/1964 – 2/1965: Trung tá Mã Sanh Nhơn
1965 – 1969: Thiếu tá Trần Văn Hai
1969 – 1974: Trung tá Lâm Quang Chính
1974 – 30/4/1975: Đại tá Lưu Yểm
Trân trọng,
Nguyễn Nhơn
 
Thể theo lời Ông Hoàng Sinh Tài, nguyên Trưởng ty Hành chánh tỉnh Biên Hòa liền trước ngày đảo chánh 1/11/1963 thì tỉnh trưởng lúc đó là Thiếu tá Trần Văn Dĩnh chớ không phải Thiếu tá Hoàng Mạnh Thường.
Vậy, xin tu chỉnh danh sách Tỉnh trưởng Biên Hòa như sau:
? – 1961: Nguyễn Văn Sĩ
? –        ?: Thiếu tá Hoàng Mạnh Thường
? -11/1963: Thiếu tá Trần Văn Dĩnh
11/1963 – 11/1964: Trung tá Phạm Đăng Tấn
11/1964 – 2/1965: Trung tá Mã Sanh Nhơn
1965 – 1969: Thiếu tá Trần Văn Hai
1969 – 1974: Trung tá Lâm Quang Chính
1974 – 30/4/1975: Đại tá Lưu Yểm
Xin thành thật cáo lỗi
Nguyễn Nhơn