dimanche 21 novembre 2021

Chương trình đọc và nghe đọc truyện hay: Huynh Đệ Tương Tàn; tác giả Nayan Chanda, sử liệu đáng tham khảo.

Kín gửi quý anh chị tài liệu về lịch sử rất hiếm và lời người dịch.

Tác phẩm được lưu lại dưới dạng pdf, quý anh chị có thể đọc trên cell, riêng phần audio, dài hơn mười giờ với nhiều diển biến lịch sử theo từng mốc thời gian.

Môn sử, có lẽ thời "làm học trò không sách cầm tay", ít được lưu ý, nhưng theo thời gian và người ghi lại, Sử Điạ, càng tìm hiểu thấu đáo là cả kho tàng kinh nghiệm giành và giữ nước.

Cám ơn người viết, người post bài, người đọc và chúc quý anh chị thêm một khung trời mới từ chuyện xưa.

Caroline thanh Hương


 

Anh Em Thù Địch (Huynh đệ tương tàn)

nhấn vào đường link để đọc truyện.

 

Lời chia sẻ:

Nhân dịp những sự kiện đang sắp sẽ xảy ra, tui xin chia sẻ với mọi người, những ai quan tâm, một tư liệu đáng quý về lịch sự thế giới mà trong đó Việt Nam-sau 1975 đã góp phần tham gia: Chiến Tranh Đông Dương lần 3 (China-Vietnam-Kambodia). Mọi sự kiện đều rất khách quan vì được tác giả Chanda người Ấn Độ, một nước luôn được coi là bạn của Việt Nam qua mọi thời kỳ, viết và tường thuật hết sức trung thực về những gì ông được chứng kiến trong thời gian này ở Việt Nam. Xin lưu ý, nhiều bạn ,chỉ đọc sách báo Cách Mạng nếu đọc, sẽ bị sốc nặng; điều này dễ hiểu, những gì chân thực khách quan thì cần cái đầu rộng mở và bao dung mới thấu hiểu, mà với "người CM" thì điều này quả là ngoài khả năng của họ.
***
Trích giới thiệu:
Lịch sử các nước Đông Dương sau khi Sài Gòn sụp đổ

Ngày 30 tháng Tư 1975, khi chiếc trực thăng cuối cùng bốc lên khỏi sân thượng Tòa Đại Sứ Mỹ là lúc Sài Gòn sụp đổ. Rồi một sự im lặng bao trùm cả Đông Dương. Quả thật người Tây Phương đã quên lãng xứ nầy. Mãi đến năm 1979, lúc ấy, quân đội Việt Nam (CS) tiến vào Cam Bốt, Trung Hoa xâm lăng Việt Nam và mười ngàn người tị nạn Việt Nam và Cam Bốt trốn chạy khỏi quê hương họ. Cả thế giới bất thần giật mình vì những nỗi kinh hoàng mới xảy ra ở Đông Dương.

Trong những năm Tây Phương hầu như lãng quên Đông Dương thì Nayan Chanda, phái viên Đông Dương của tạp chí Kinh Tế Viễn Đông (Fareast Economic Review) tiếp tục cung cấp những tin tức có giá trị nhất, những cảm nhận chưa rõ lắm về một cuộc chiến sắp xảy ra và xung đột trong vùng Cộng Sản kiểm soát ở Việt Nam, Lào và Cam Bốt. Không có một nhà báo nào theo dõi những biến chuyển ở vùng này một cách sít sao đến thế. Với những kiến thức có sẵn, ông tiếp cận ở mức độ cao và sâu để tìm hiểu sự thực. Giờ đây, trong tác phẩm “Anh Em, Thù Địch” (Brother Enemy), Chanda, với đầy đủ tư cách, vẽ nên một bức tranh về Đông Dương, kể từ khi chiến tranh tái phát. Câu chuyện lịch sử này bắt đầu khi quân đội Bắc Việt tràn vào dinh Độc Lập ở Sài Gòn và qua nhiều thập niên đẫm máu tiếp sau.




Tác phẩm của Chanda là một sự hiểu biết thực sự. Từ hàng trăm cuộc phỏng vấn với những nhân vật hàng đầu ở Hà Nội, Bắc Kinh, và Phnom Pênh, cũng như nhiều nhân vật khác ở Washington, Moscow, Paris, Tokyo, và Canberra, và từ những quan sát của chính ông qua hơn một thập niên, Chanda sắp xếp một cách hết sức khéo léo trong việc trình bày những bí mật, không những giữa các cựu đồng chí mà cả những mưu mô tranh giành quyền lực tại Washington. Ông ta đưa ra một nhãn quan hấp dẫn đầu tiên về những mối sợ hãi, tham vọng dẫn dắt Khmer Đỏ đi tới tai họa diệt chủng, cũng như lần đầu tiên thái tử Norodom Sihanouk bị giữ tại Cam Bốt và cuộc đào thoát không thành của ông ở Hoa Kỳ. Chanda cho chúng ta biết những sự kiện bên trong kế hoạch bí mật của Việt Nam (CS) xâm lược Cam Bốt Ông ta kể lại, lần đầu tiên, hồi mùa Thu 1978, Hoa Kỳ gần như sắp treo cờ Mỹ lên ở Hà Nội rồi làm thế nào mà Cố Vấn An Ninh Quốc gia của Tổng Thống Jimmy Carter, Zbigniew Brzezinski cố gắng dùng lá bài Trung Hoa để Hoa Kỳ trở thành một thành viên bất như ý của Trung Hoa trong cuộc xung đột cay đắng có tính cách lịch sử với Việt Nam (CS). Chanda giải thích làm thế nào chính sách này đã mở cửa cho Liên Sô bành trướng quân sự ở Đông Nam Á.

Đây là một tác phẩm lịch sử sáng chói nhất trong thập niên qua. “Anh Em, Thù Địch” (Brother Enemy) được xem như là một tác phẩm hay nhất.
***
Giải bày của người dịch


Dù ít nhiều, trước 30 tháng 4 năm 1975, các quí vị phục vụ trong Quân Đội VNCH, công chức hoặc cán bộ, có dịp nghe phát thanh hay đọc báo chí, v.v... nên biết ít nhiều tình hình thời sự, chính trị trong cũng như ngoài nước. Dù chế độ chính trị miền Nam lúc đó có kiểm duyệt báo chí (được gọi một cách văn hoa bóng bảy là “Sở Phối hợp Nghệ thuật”) nhưng cũng không đến nỗi quá khắt khe để ai nấy cũng phải mang một cái dàm vào mắt như con ngựa kéo xe sau năm 1975.



Sau năm 1975 thì vô phương. Ngoài các đài phát thanh và báo chí của nhà nước Cộng Sản hay làm cái đuôi đập ruồi cho con bò kéo xe như báo Tin Sáng của ông Ngô Công Đức thì ngoại dã cấm ngặt. Không thiếu gì người lén nghe đài BBC hay đài VOA nên phải trình diện công an, hoặc chỉ phải làm kiểm điểm hoặc không ít người lên đường vào trại “tù cải tạo” học năm bảy năm cho chín bài học cách mạng.



Vào trại tù cải tạo rồi thì cũng vô phương, như ếch ngồi đáy giếng. Thỉnh thoảng, thân nhân có lên thăm báo cho vài tin tức thì tin đó cũng tam sao thất bản, thiên hạ xào đi nấu lại, thêm bớt quá nhiều tiêu, hành, tỏi, ớt thành ra chẳng rõ nguyên thủy nó là món ăn gì.



Mùa hè năm 1981, một hôm, khoảng chạng vạng, tôi đi gánh nước đêm tưới rau cho trại cải tạo, ngang qua nhà thăm nuôi, chợt nghe thoáng đài BBC phát ra nho nhỏ - gia đình ai đó lên thăm được ở lại, thân nhân mở đài cho người cải tạo nghe vì lúc nầy cán bộ vào trại hết cả rồi. Khi tôi đứng ngoài nghe lén là lúc Phạm Duy đang giới thiệu “Nửa thế kỷ âm nhạc Việt Nam”. Một nữ ca sĩ, giọng quen lắm nhưng vì âm thanh vặn nhỏ nên tôi không nhận ra được là ai, đang hát: “Xuân về rồi, muôn đóa hoa đào tươi, cười trong nắng...” Trong đời tôi, mê nhạc cũng dữ lắm, đã từng nhiều lần đi nghe hát ở Queenbee hay Đêm Màu Hồng, v.v... nhưng chưa bao giờ tôi thấy xúc động đến nỗi muốn chảy nước mắt như hôm đó. Hai cái: Đài BBC và “nhạc vàng” thấm sâu vào tim máu tôi tư thuở nào tôi không chắc, nhưng nó là món ăn tinh thần của tôi hằng ngày, cũng như cơm cháo vậy. Vậy mà từ tháng 5/1975 cho đến giờ tôi không được ăn. Thèm biết chừng nào!



Tôi nghe đài BBC từ năm 1951. Hồi ấy chưa có máy thu thanh transitor nên khi thành phố Quảng Trị có điện trở lại thì bà mẹ anh Phan văn Cẩn, bạn tôi, mua một cái radio hiệu Phillips để gia đình nghe chơi. Thỉnh thoảng, tôi qua nhà người bạn nghe ké đài BBC.



Từ năm 1954, tôi làm “gia sư” để kiếm cơm ăn học tại nhà một người bà con ở Huế. Người nầy làm ở Nha Thông Tin Trung Việt nên được cơ quan giao cho một cái radio để mỗi ngày lấy tin tức. Tôi được nghe và dần dần lấy tin giùm ông thành ra từ đó cho đến ngày 30 tháng 4/ 1975, nghe đài VOA mỗi ngày 2 lần, nghe đài BBC mỗi ngày 3 lần là thói quen không những cần mà còn thiết, cũng giống như ăn cơm vậy, buổi nào không nghe thì coi như buổi đó thiếu ăn. Món ăn thường ngày do Xuân Kỳ, Hữu Đại, hai người làm đài BBC chương trình tiếng Việt từ “thời thượng cổ”, sau nầy có thêm Ngọc Phách, Trần Minh, dọn ra cho tôi. Đỗ Văn, Xuân Hồng, Vĩnh Phúc, Lê Thảo, Lan Đài là “hậu duệ”. Thỉnh thoảng, nhân dịp tết ta, giáo sư Honey chúc tết, dọn thêm món ăn nửa Tây nửa ta, giống như mấy ông cha Tây giảng đạo trong nhà thờ. “Hôm nai la mua chai, cac con phai an cưc khô”. Judy Stow thỉnh thoảng cũng cho ăn vài món, nhưng vốn dĩ là đàn bà khéo tay nấu nướng nên món ăn tây mà có thêm mắm ruốc, dễ nuốt hơn.



Không riêng gì tôi, vô trại cải tạo rồi, dù muốn dù không, ai ai cũng coi trời bằng vung. Thế mà trong trại cải tạo thì lạm phát nhiều nhà bình luận chính trị, “trăm hoa đua nở”, chẳng có hoa nào chịu thua hoa nào. Các nhà bình luận nầy, không bút chiến được nhưng vẫn khẩu chiến liên miên, có khi trực tiếp, khi gián tiếp, ông nào cũng coi như “30 tháng Tư của Cộng” tới bên lưng rồi, mỗi người sắp lên một “lon” tới nơi rồi. Người được thăm nuôi có gì gia đình bới xách cho, hứng chí mời các nhà bình luận đến dự, chẳng mấy chốc trận chiến bát dĩa sạch bách, y như Cọng Sản rút lui về Bắc, chẳng còn mống nào dám ở lại miền Nam. Có điều đáng buồn, tất cả ý kiến của các nhà bình luận nầy đưa ra, chẳng dựa vào nguồn thông tin nào để có cơ sở hết.



Ngày 2 tháng 7/ 1982, tôi được “tha ra khỏi trại cải tạo” như lệnh tha ghi, nhưng thật ra thì cũng tù trong ra tù ngoài như chính vài công an, trong “phút nói thật” xác nhận. Về, có nghĩa là tiếp tục một cuộc sống đọa đày khác, suốt ngày lo gạo, rau, y như cảnh nhà thơ Trần Tế Xương “chạy ăn từng bữa toát mồ hôi”. “Món ăn vật chất” còn chưa có đủ để đút vào mồm, nói chi tới “món ăn tinh thần”. Chế độ Cộng Sản là một chế độ gồm có cây súng của công an cọng với sợi giây thắt bao tử là cái hộ khẩu, người dân còn ngo ngoe đằng nào được mà nói là chống chế độ.



28 tháng 5/1989, tôi vượt biên và thoát tới Bidong. Tới trại tỵ nạn rồi, bấy giờ “vui chơi tắm giặt nghe đài” thoải mái. Tôi như con cóc bò lên được trên miệng giếng. Sao mà trời cao đất rộng thế!



“Giòng lịch sử” đứt đoạn từ 30 tháng Tư nay được tiếp nối một cách phong phú, tràn đày, vui thú. Món ăn tinh thần bây giờ, tưởng như làm người ta bội thực.

Nói chung như trên là tình cảnh những người ở lại sau Tháng tư đen.
Còn ai kịp nhanh chân?

Tới Hoa Kỳ năm 1993, gặp một người bạn qua đây từ 1975, hỏi anh ta theo dõi tình hình như thế nào? Anh ta cười trừ. Mặc dù anh tốt nghiệp Luật khoa thời chế độ cũ, từng làm hiệu trưởng một trường Trung học, từng tranh cử dân biểu hạ viện, qua tới Mỹ thì học lại, lấy bằng Master, nhưng chuyện nhà, chuyện nước, chuyện bốn bể năm châu, chủ yếu là nhờ cái TV. Anh ta nói đâu còn nghe được những bài bình luận, những ký sự của những phóng viên lừng danh như Alexender Thompson, Bernard Fall (đã chết), Nayan Chanda, v.v... Anh bạn thú thiệt: “Về mặt nầy, tôi chẳng may mắn gì hơn anh bao nhiêu!”

Trần Văn Lương với Mông Lung Cõi Nhớ đối với Dậy Thì của Huy Văn và tiếng hát về Huế, thơ, nhạc đưa người về cõi thiên thai.

Kính gửi quý anh chị những bài thơ tình mông lung theo đàn anh thi sĩ Trần Văn Lương và Huy Văn.

Có phải ai cũng thích ngắm và ước mơ một người đẹp trong mơ khi hoa chỉ là nụ và khi vào tuổi trưởng thành thì mộng đã thành mơ chân trời mới.

   "Là kỷ niệm hay là ước vọng,

    Giờ chỉ còn ảo mộng tàn phai.

        Vật vờ chẳng biết nhớ ai,

Vẳng trong gió tiếng thở dài xót xa."

thơ Trần Văn Lương

Khi đặt bút làm thành thơ, thì bài đó cũng như mảnh giấy cho vào cái chai thả ra biển và chờ ai đó nhặt được và có cùng tâm niệm như mình hay đợi nghìn năm sau vẫn chờ, vẫn đợi.

" Làm bộ thất tình ngồi thả khói
Cà phê đen, đậm, uống không đường
Cây trồng bằng mắt ( không cần nói! )
Mái tóc sau quầy: thương quá thương!"

thơ Huy Văn

Mời quý anh chị cùng thưởng thức những thổn thức của thi sĩ thích thơ thẩn và nghe một giọng ca mong manh về Huế của Lyly.

Hy vọng trang Blog này mang đến những niềm vui nhỏ đến quý anh chị.

Caroline Thanh Hương

tt 

"Vào Thu" (năm 2021)

 

Kính gửi đến quý anh chị con cóc cuối tuần.

 

Dạo:

  Thấy thiên hạ nhớ ào ào,

Cũng bày đặt nhớ, nhưng nào có ai.

 

Cóc cuối tuần:

 

        Mông Lung Cõi Nhớ

     

    Chiều thoi thóp trên bờ cát lở,

    Người nhìn trời chợt nhớ bâng quơ.

        Con sông dĩ vãng đục lờ,

Đường xưa trắc trở, gót mơ rã rời.

     

    Manh ký ức cuối đời dúm dó,

    Chuyện năm nào quả có thật không,

        Hay toàn tưởng tượng bông lông,

Thấy thiên hạ nhớ, cũng gồng gánh theo.

 

    Nhúm hoài niệm lèo tèo rời rạc,

    Đang nhọc nhằn lác đác hiện ra.

        Trải bao ngày tháng phôi pha,

Bóng người xưa tựa bóng ma chập chờn.

                          x

                      x      x

    Kìa đôi má hồng hơn nắng sớm,

    Hớp hồn trai mới chớm mười hai,

        Ra chơi trót lén nhìn ai,

Để rồi vô lớp cứ hoài vẩn vơ.

     

    Nọ ánh mắt tình cờ gặp phải,

    Ngờ đâu là lưỡi hái tình yêu,

        Vết thương rỉ máu sớm chiều,

Tuổi mười bốn đã lêu bêu trốn trường.

     

    Nhè nhẹ thoảng mùi hương hơi thở

    Từ môi người thiếu nữ mười lăm.

        Vô tình một tiếng hỏi thăm,

Con tim mười sáu trọn năm mơ màng.    

     

    Dáng e ấp dịu dàng khép kín,

    Khiến lòng trai mười chín vấn vương,

        Để rồi cách trở mười phương,

Người đây kẻ đó đoạn trường riêng hay.

     

    Làn tóc xoã vờn bay trong nắng,

    Tình hai mươi trĩu nặng bờ vai.

        Sáng chiều se sắt nhớ ai,

Đêm về chống mắt mệt nhoài ươm mơ.

     

    Bàn tay lướt hững hờ trên phím,

    Khúc tình buồn chết lịm hồn nhau.

        Kiếp này chẳng bén trầu cau,

Đành xin hẹn đến kiếp sau chực chờ.

                          x

                      x      x

    Những hình ảnh lờ mờ vặt vãnh,

    Được mày mò nhặt nhạnh khắp nơi,

        Phải chăng là chuyện vẽ vời,

Thoa son đánh phấn cho thời đã qua?

     

    Là kỷ niệm hay là ước vọng,

    Giờ chỉ còn ảo mộng tàn phai.

        Vật vờ chẳng biết nhớ ai,

Vẳng trong gió tiếng thở dài xót xa.

 

    Cây níu vạt nắng tà quyến luyến,

    Người cau mày xao xuyến ngẩn ngơ.

        Mơ hồ một thoáng trời thơ,

Mông lung cõi nhớ, bơ vơ giấc buồn.

                 Trần Văn Lương

                   Cali, 11/2021 



Nọ ánh mắt tình cờ gặp phải,

    Ngờ đâu là lưỡi hái tình yêu,

        Vết thương rỉ máu sớm chiều,

Tuổi mười bốn đã lêu bêu trốn trường.

     

    Nhè nhẹ thoảng mùi hương hơi thở

    Từ môi người thiếu nữ mười lăm.

        Vô tình một tiếng hỏi thăm,

Con tim mười sáu trọn năm mơ màng.


Đọc mấy câu trên đây của Sư huynh làm đàn em nhớ thời ...mới lớn!
Cũng tại cái tội theo mấy đàn anh Tân Định vào Thu Hương, hoặc cùng với bạn vào tận Đa La ( cạnh sân Cộng Hòa )  những năm 67, 68, 69... để vừa thả khói bên ly cà phê vừa ngắm mấy giò lan rừng ) cho nên đã phải ở lại lớp, rồi sau đó bị tướng Bùi Đình Đạm rượt vào Đồng Đế! Tuy vậy, vẫn nhớ vô cùng cái thuở tập tành làm người lớn đó! Nhân đây, kính gởi đến quý Anh Chị những vần điệu cũ để đọc...cho vui!
HUỲNH VĂN CỦA

"Chớm Nở "



DẬY THÌ
Làm bộ thất tình ngồi thả khói
Cà phê đen, đậm, uống không đường
Cây trồng bằng mắt ( không cần nói! )
Mái tóc sau quầy: thương quá thương!

Tập vở ghi đầy lời kim, cổ
Học hoài không thuộc những danh ngôn
Diễn tới diễn lui màn... đau khổ!
Thuốc đốt liền tay, mắt lạc hồn.

Cứ thế học đòi làm người lớn
Lê la quán xá để …ngồi đồng
Nghe nhạc, ngắm người, rồi… mơ mộng
Sáng, trưa, chiều, tối, cứ lông bông!

Hoa niên dù chỉ ôm mộng ảo
Vẫn rất hồn nhiên lứa dậy thì
Buồn, vui, lãng đãng, tim khờ khạo
Chưa yêu mà đã biết tình si.

Dù sao cũng một trời kỷ niệm
Gom vũ trụ trong giấc mộng đầy
Thời gian hằn nét trên màu tóc
Mỉm cười khi nhớ lúc thơ ngây.
HUY VĂN