vendredi 12 octobre 2012

thơ Đường Luật xướng họa về mùa Thu


 
 
Bài Xướng :
THU SẦU NHỚ NƯỚC

1.
Bên cầu nước chảy, ngắm mây bay
Lá úa lìa cành, vẫy biệt cây
Thương nhớ ngậm ngùi, lòng ủ rũ
Buồn đau thơ thẩn, dáng ngà say
Gió ùa lạnh lẽo tràn phương bắc
Trăng chiếu âm thầm ngả bóng ai
Sóng gợn lăn tăn, sầu vợi vợi
Tha hương hiu hắt nỗi u hoài
2.
Hiu hắt trời thu gợi nhớ hoài
Bâng khuâng tóc biếc đã dần phai
Quê nhà vất vả đời đang rủi
Đất khách thong dong số vẫn may
Thơ chuốt ngâm nhiều lòng sảng khoái
Rượu ngon uống lắm trí si ngây
Mắt mờ, lưng mỏi, hồn tê tái
Tâm sự nhờ mây chuyển xứ đoài




3.
Tâm sự  xứ đoài tỏ với ai
Nắng mưa thui thủi tháng năm dài
Tấc lòng cố quốc nghe còn đậm
Chút nghĩa ân tình nghĩ chẳng phai
Phố dạo xôn xao niềm lạc thú
Sở làm bươn bả cuộc sinh nhai
Đi về sớm tối dầm sương gió
Quạnh quẽ nhìn trăng chạnh cảm hoài
4.
Cảm hoài trôi dạt cõi tây phương
Nước mất nhà tan luống đoạn trường
Lũ quỷ tiếp thu mừng vạn nỗi
Con dân lưu lạc khổ muôn đường
Thất cơ  xuống hố đời nô lệ
Đắc thế lên ngai mộng bá vương
Tin bạn đồng minh, khi rút chạy
Kẻ thân tù ngục, kẻ tha hương
5.
Tha hương thao thức suốt canh trường
Mây trắng giăng mờ khắp bốn phương
Kẻ cố hòa đồng cùng bản xứ
Ai màng thương tưởng đến quê hương ?
Đổi thay thời đại đầy bi kịch
Vò xé tâm tư  loạn hí trường
Con trẻ nào đau niềm quốc hận
Làm sao chia sẻ được sầu thương ?
6.
Sầu thương bao mạng thác sa trường
Xác nát hồn tan, chẳng nén hương
Nào được vinh thăng công bảo quốc
Đâu còn truy điệu lễ tuyên dương
Dật dờ chín suối về theo gió
Phất phưởng trăm miền khóc với sương
Oan uất triền miên không giải tỏa
Làm ma ẩn hiện ở ven đường
7.
Ven đường nhìn khỉ cứ lau nhau
Nón cối dập dìu rắc khổ đau
Quang cảnh giang sơn nay đổi sắc
Nhân sinh đạo đức đã thay màu
Từ người xuống vượn vui chi đó
Từ vượn lên người sướng đến đâu ?
Ngơ ngác nhìn quanh, ai dám nói ?
Quê hương tang tóc ngổn ngang sầu
8.
Tang tóc bi thương ngập biển sầu
Lệ hờn ràn rụa héo ngàn dâu
Om sòm loa thét truyền oai giặc
Lếch thếch người chui ngủ gậm cầu
Điềm chỉ rình mò phường hám lợi
Thi đua giành giật cá ăn câu
Đê hèn, đểu giả : gương thời mới
Đất nước Tiên Rồng sẽ đến đâu ?
9.
Đến đâu dưới ách lũ gian tà ?
Chia chác quyền hành, dạ nở hoa
Hút máu hại dân, đày cả nước
Nhai xương hiếp chúng, đọa nguyên nhà
Hãi hùng kiếp nạn tràn Nam quốc
Đầy dẫy tai ương khắp Việt gia
Lớn bé trẻ già đều xửng vửng
Hận Trời nghiệt ngã nước non ta
10.
Nước non sóng đỏ cuốn phăng nhà
Kẻ sĩ , anh hùng luống xót xa
Thủy lợi, nông trường : thân chó ngựa
Kiểm kê, cải tạo : phận heo gà
Dép râu dẫm nát : im giun dế
Nón cối che trùm : vắng bướm hoa
Tổ quốc điêu tàn, dân nuốt hận
Oán hờn bàng bạc khắp giang hà
11.
Giang hà khắp chốn lánh quê hương
Tị nạn muôn trùng cảnh thảm thương
Dìm đắm thuyền nhân mùa bão Thái
Chôn vùi xuân sắc bến sông Tương
Thây chìm biển cả mơ màng đọng
Xương gởi rừng sâu mộng mị vương
Kẻ mất, người còn trôi tứ xứ
Cũng vì độc thủ lũ vô lương
12.
Vô lương bọn ấy phá tan nhà
Bách hại sinh linh đến xót xa
Dâng Chệt, Nam quan cùng Bản Giốc
Cúng Tàu, Hải phận lẫn Hoàng Sa
Tham ô gian ác luôn vươn đỉnh
Bóc lột hoang dâm mãi vượt đà
Vô pháp, vô thiên, vô tổ quốc
Còn thêm vô sỉ để phì gia
13.
Gia phong quốc vận phận làm trai
Đã thả trôi dòng, mặc gió bay
Sĩ chúng  vật vờ hồn lẩn thẩn
Ma đầu chờ chực kế sâu cay
Hùng tâm tuổi trẻ lòng khô cạn
Tráng chí ngày xanh tóc bạc đầy
Thở vắn than dài càng chán ngán
Tha hương hiu hắt nỗi u hoài
14.
Tha hương hiu hắt nỗi u hoài
Buồn giận tâm tình biết gởi ai ?
Thức ngủ lẻ loi khi nắng sớm
Vào ra lặng lẽ lúc mưa mai
Lá vàng lả tả rơi xào xạc
Thơ vụng lơ ngơ viết miệt mài
Nam quốc sơn hà... lòng nhói buốt
Bên cầu nước chảy, ngắm mây bay...

Thiên  Tâm


Bài Hoạ 1:
VIỄN XỨ THU VỀ
1.
Thu về viễn xứ trắng mây bay
Thơ thẩn đường chiều ngắm cỏ cây
Chạnh nhớ thôn xưa lòng khắc khoải
Ngùi thương nhà cũ dạ mơ say
Nhìn trời ngao ngán chòm mây đỏ
Ngoảnh mặt sầu tư bóng dáng ai
Lối vắng cô thôn lòng quạnh ải
Xa quê cách biệt vẫn thương hoài
2.
Xa quê cách biệt vẫn thương hoài
Muôn thuở tình quê mãi chẳng phai
Viễn xứ hằng mong làn gió  mới
Cố hương mãi ước vận cơ may
Non sông khốn khổ trong cùng cực
Xích quỷ tham tàn đến dại ngây
Dân Việt bần hàn trong tủi nhục
Oán than vang dội khắp non Ðoài
3.
Non Ðoài cô quạnh nhớ thương ai
Mài kiếm đêm trăng năm tháng dài
Cố quốc thương hoài lòng chẳng đổi
Bản thôn nhớ mãi dạ nào phai
Quê hương réo gọi hồn non nước
Tổ quốc trông chờ khách viễn nhai
Quyết chí kiên trì  chờ trống lệnh
Thù  nhà chưa trả vẫn mang hoài
4.
Mang hoài quốc hận chốn tha phương
Nhớ mãi ngày nao biệt chiến trường
Nữ kiệt trai hùng đi vạn nẻo
Hiền tài thức giả chạy muôn đường
Người đi cam chịu đời ly xứ
Kẻ ở  phải tùng lũ quỷ vương
Ác đảng cậy thời đày Việt tộc
Chính nhân bôn tẩu biệt quê hương
5.
Quê hương, Trời hỡi, cảnh bi trường
Nhiễu loạn tham ô khắp thập phương
Cộng đảng  cầu vinh đành bán nước
Ðàn bà mưu sống phải buôn hương
Non sông điên đảo , đời tù ngục
Xã hội lố lăng, cảnh loạn trường
Cháu Lạc con Hồng cam nuốt hận
Cơ trời oan nghiệt lắm tang thương!
6.
Tang thương bèo giạt bấy năm trường
Thệ hứa không về chốn cố hương
Bởi đất quê cha đầy xích quỷ
Vì trời nước mẹ khuất tà dương
Ngày đêm chẳng ngại đời dâu bể
Năm tháng không nề cảnh gió sương
Ðợi lúc đảng gian kia giải thể
Làng xưa ta quyết thẳng lên đường.
7.
Lên đường cứu quốc mến thương nhau
Giúp đở dân lành bớt khổ đau
Quét sạch tàn dư loài quỷ đỏ
Xoá tan dấu vết ngọn cờ màu
Phục hồi trật tự trên đây đó
Thiết lập tự do tận chốn đâu
Khắp nước tưng bừng ngày hội ngộ
Âu ca vang dội phá thành sầu
8.
Sầu thương từ độ nước non sầu
Ðất Việt từ xưa lắm bể dâu
Giặc Hán vẻ bày bao độc kế
Rợ Hồ thêu dệt lắm cơ cầu
Người dân phận bạc khai hoang địa
Kẻ sĩ dặm trường  ruổi vó câu
Quân dữ mai đây đền tội ác
Tham tàn rồi cũng chẳng ra đâu!
9.
Ðâu đó còn đây lũ giặc tà
Rợ Hồ vẫn mãi tính ba hoa
Miệng lằng lưởi mối lừa dân chúng
Mặt ngựa đầu trâu hại nước nhà
“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia” (*)
Hận nầy lưu mãi trong tâm khảm
Nghìn năm còn buốt trái tim ta
10.
Tim ta yêu mãi nước non nhà
Thương giống Lạc Hồng phải xót xa
Thiếu nữ họ buôn như thú vật
Thanh niên chúng bán tựa heo gà
Công an nhũng lạm, đời nhung lụa
Cán bộ tham tàn, kiếp gấm hoa
Cộng sản bao giờ chưa giải thể
Ðau thương trùm phủ cả sơn hà
11.
Hà cớ làm sao giữa bản hương
Người về cố lý phải đau thương?
Ra đường chúng đánh mềm như cháo
Vào quán họ dần nát tợ tương
“Bảo vệ” hung hăng như qủy sứ
“Công an” ác độc tợ ma vương
Dân lành bất mãn nào đâu nói
Vì sợ đảng đoàn, lũ bất lương
12.
Bất lương đến độ phản quê nhà
Sai lũ nằm vùng đến xứ xa
Ðánh phá cộng đồng nhiều kẻ quậy
Rẽ chia tôn giáo lắm người sa
Cò mồi chống cộng mọc như nấm
Ca sĩ trở cờ vượt quá đà
Ôi lũ háo danh quên tổ quốc
Theo đuôi phù thịnh hổ tông gia
13.
Gia vong quốc biến, hỡi người trai
Cuộc sống phù du tựa lá bay
Ðừng để dòng đời  qua uổng phí
Không nhìn đất mẹ trải chua cay
Vung gươm giết giặc, tâm lòng thẳng
Tuốt kiếm trừ gian, ý chí đầy
Sinh tử một đời vì chính nghĩa
Nghìn năm thanh sử vẫn lưu hoài
14.
Nghìn năm thanh sử vẫn lưu hoài
Thương nước đau lòng lại nhớ ai
Cố quận xa xăm muôn dặm liễu
Bản thôn cách trở vạn ngàn mai
Trường thi ngày cũ còn chờ viết
Ðoản kiếm năm xưa vẫn cố mài
Dõi mắt trông vời trời đất mẹ
Thu về viễn xứ trắng mây bay
Huong Saigon
26 September 2010
(*) Thơ Bà Huyện Thanh Quan
THU SẦU NHỚ NƯỚC
 Bài Họa 2 :

1-
Thấp-thoáng ngang tầm lá lá bay.
Thì ra giỡn cợt gió rung cây.
Thập-thò thu đến gom mây lạc.
Vội-vã hè đi rủ nắng say.
Đếm tuổi lưu-vong nao dạ khách,
Thương đời tị-nạn nhói lòng ai.
Gánh buồn xa xứ quen vào mộng,
Mơ-ước hồi hương luống ái hoài.

2-
Mơ-ước hồi hương luống ái hoài.
Giăng giăng tiềm-thức khó mờ phai.
Tung-tăng cút bắt sân trường học.
Nôn-nóng hẹn chờ lối cỏ may.
Chan-chứa dễ yêu thời ấu-trĩ,
Đậm-đà đáng mến tuổi thơ-ngây.
Ngờ đâu lũ giặc về chia rẽ,
Kẻ cấn từ-ly biệt kẻ đoài.

3-
Kẻ cấn kẻ đoài ai trách ai ?
Đạn bom khói lửa chiến-chinh dài.
Dầm sương tiền-tuyến nằm gai nếm.
Khép cửa hậu-phương tủi sắc phai.
Đàng vẫy-vùng tài thân mệnh giữ.
Phía dầu-dãi nắng miệng hàm nhai.
Tin thư thưa-thớt càng thưa-thớt,
Không hẹn thiên-thu nuối-tiếc hoài.

4-
Tiếc hoài sầu thảm cũng đơn-phương.
Dấn bước thân trai giữa chiến-trường.
Thiết-vận truy thù băng vạn hố.
Xe-tăng đuổi địch vượt muôn đường.
Thừa-Thiên, Pháo-Trạch pha đồi cản,
Quảng-Trị, Đông-Hà chấp bụi vương.
Chiến-dịch Lam-Sơn quen gió cát,
Bao phen đổ máu giữ quê-hương.

5-
Quê-hương loạn-lạc nhói can-trường.
Huynh-đệ tương-tàn coi đối-phương.
Xuống phố bao người dìm thắt ruột,
Lên thành lắm kẻ khóc ly hương.
Tự-Do mối nhợ gây oan-nghiệt,
Cộng-Sản đầu dây tạo đoạn-trường.
Máu đổ thây phơi trên khắp nẻo.
Mờ trời mịt đất cảnh đau-thương.

6-
Đau-thương từng thấy giữa đương trường,
Vị-quốc vong thân chẳng khói hương.
Nghe lắm anh-hùng cam chức ẹm,
Thấy bao tà-lọt được danh dương.
Đổi đời Thiết-Giáp vào sinh tử.
Cặp bến Hải-Quân dạn gió sương.
Rồi bạn đồng-minh co cẳng chạy,
Lưu-vong duy nhất chọn con đường.

7-
Con đường di-tản lấn chen nhau.
Kẻ ở người đi chung nỗi đau.
Vất bỏ than thầm lầu gác ngọc,
Mang theo tiếc rẻ ruộng hoa màu.
Thuyền ra cửa biển thây phương nớ.
Tàu vớt lên boong mặc bến đâu.
Miễn chẳng chung trời cùng Việt-Cộng,
Hầu không căm hận đấp thành sầu.

8-
Hầu không căm hận đấp thành sầu.
Xót tủi sơn-hà sau bể dâu.
Nón cối xâu dân toàn lãnh-thổ.
Dép râu bán gái khắp hoán-cầu.
Thân-hào, nhân-sĩ đem danh dụ.
Quân-đội, sinh-viên bỏ bạc câu.
Lũ đảng phây phây ôm bụng phệ,
Chả màng đất nước sẽ về đâu.

9-
Về đâu chủng-tộc trước quân tà,
Trung-Cộng muôn đời lũ giặc Hoa.
Kèm-kẹp Hồ, Đồng .... làm bị thịt.
Dưỡng-nuôi Duẫn, Gíáp ... gọi gà nhà.
Lương, Phiêu ... ký-kết dưng nòi giống.
Mạnh, Triết ... thi-hành hiến quốc-gia.
Biển, đảo, núi, sông, hầm, quặng mất,
Cẩu Tàu trắng-trợn hiếp dân ta.

10-
Dân ta 86 triệu con nhà,
Trước cảnh quốc vong nỡ lánh xa.
Chính-khách xu thời chui ổ chuột,
Lương-nhân quý mệnh nấp chuồng gà.
Vô-Thần bỏ ngải làm tâm quáng.
Cộng-Sản tung tiền khiến mắt hoa.
 Đảng cuội cò mồi như nấm mọc,
Tội đồ cả đám bán sơn-hà.

11-
Sơn-hà nào thấu khách ly hương,
Muôn kẻ thét gào chung vết thương.
Tháng lụn tinh-thần nhừ giống bã,
Năm tàn tâm-khảm nát như tương.
Bởi dân ôm chặt ươn-hèn vác,
Vì nước dìm sâu ý-chí vương.
Hải-ngoại bẽ-bàng cam thất thủ,
Đoái nhìn đất mẹ nuốt thê-lương.

12-
Thê-lương gánh nhục thế quê nhà,
Vong quốc cận kề đâu mấy xa.
Đã mất Nam-Quan, Thác Bản-Giốc,
Không còn Đông-Hải, Hoàng Trường-Sa.
Thăng-Long lãnh-tụ vin vào dịp,
Hà-Nội cán-binh mượn lấy đà.
"Bắc thuộc" mở màn Tàu thống-trị,
Mống-mầm đồng-hóa vẻ tăng-gia.

13-
Tăng-gia kêu gọi gái cùng trai,
Từ khắp trong ngoài đây đó hay.
Đến lúc con Trưng quăng hãi sợ.
Vào thời cháu Triệu gạc chua cay.
Nòi ngài Hưng-Đạo mưu dư-giả.
Giống đức Quang-Trung dũng đủ đầy.
Khởi-nghĩa ! Đứng lên ! Trừ Việt-Cộng.
Lẽ đâu nhu-nhược ấp ôm hoài ?

14-
Hoài-bão ngày đêm ấp-ủ hoài,
Nỗi buồn nào biết tỏ cùng ai.
Nhân-Quyền Dân-Chủ còn chờ mốt.
Tín-Ngưỡng, Tự-Do cố đợi mai.
Lắm hạ, thu về ngòi vẫn viết,
Bao đông, xuân úa mực còn mài.
Nỗi-niềm cô động hốn thờ-thẩn,
Thấp-thoáng ngang tầm lá lá bay.

TDT, OCT-02-10
Ngô-Phủ

Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire