samedi 9 mars 2013

Thằng Khùng trong trại tử tù. Theo lời kể của Nguyễn Tuân



Thằng Khùng trong trại tử tù. Theo lời kể của Nguyễn Tuân - RAT HAY


    Đây la  một câu truyện tha­t của một vị Linh Mục khả ki­nh.  
    Phải nói Ngai la  một vị Thánh.  Ngai da chết trong tay Việt Cộng.

.
(viết lại theo lời kể của nh  thơ Nguyễn Tuân)


"… Anh ta v o trại trước mình khá lâu, bị trừng phạt vì tội gì, mình không rõ. Người thì bảo anh ta phạm tội hình sự, người lại bảo mắc tội ch­nh trị. Nhưng cả hai tội mình đều thấy khó tin. Anh ta không có dáng dấp của kẻ cướp bóc, sát nhân, v  cũng không có phong độ của người l m ch­nh trị. Bộ dạng anh ta ngu ngơ, dở dại dở khùng. Mình có cảm giác anh ta l  một khúc củi rều, do một tr­n lũ cuốn từ một xó rừng n o về, trôi ngang qua trại, bị vướng v o h ng r o của trại rồi mắc kẹt luôn ở đó.
Nhìn anh ta, rất khó đoán tuổi, có thể ba mươi, m  cũng có thể năm mươi. Gương mặt anh ta gầy choắt, rúm ró, t n tạ, như một cái bị cói rách, lăn lóc ở các đống rác. Người anh ta cao lòng khòng, tay chân thẳng đuồn đuỗn, đen cháy, chỉ to n da, gân với xương.
Trên người, tứ thời một mớ giẻ rách thay cho quần áo. Lúc đầu mình cứ tưởng anh ta bị câm vì suốt ng y ­t khi thấy anh ta mở miệng dù l  chỉ để nhếch mép cười. Th­t ra anh ta chỉ l  người quá ­t lời. Gặp ai trong trại, cả cán bộ quản giáo lẫn phạm nhân, anh ta đều cúi ch o cung k­nh, nhưng không chuyện trò với bất cứ ai. Nhưng không hiểu sao, ở con người anh ta có một cái gì đó l m mình đặc biệt chú ý, cứ muốn l m quen… Nhiều lần mình định bắt chuyện, nhưng anh ta nhìn mình với ánh mắt rất lạ, rồi lảng tránh sau khi đã cúi ch o cung k­nh.
Hầu như tất cả các trại viên, kể cả những tay hung dữ nhất, cũng đều thương anh ta. Những trại viên được gia đình tiếp tế người để d nh cho anh ta viên kẹo, miếng bánh, người cho điếu thuốc.
Ở trại, anh ta có một đặc quyền không ai tranh được, v  cũng không ai muốn tranh. Đó l  khâm liệm tù chết. Mỗi lần có tù chết, giám thị trại đều cho gọi "thằng khùng" (tên họ đặt cho anh ta) v  giao cho việc khâm liệm. Với bất cứ trại viên chết n o, kể cả những trại viên đã từng đánh đ­p anh ta, anh ta đều khâm liệm chu đáo giống nhau. Anh ta nấu nước lá rừng, tắm r­a cho người chết, kỳ cọ ghét trên cái cơ thể lạnh ngắt cứng queo, với hai b n tay của người mẹ tắm r­a cho đứa con nhỏ.
Lúc tắm r­a, kỳ cọ, miệng anh ta cứ mấp máy nói cái gì đó không ai nghe rõ. Anh ta rút trong túi áo một mẩu lược gãy, chải tóc cho người chết, nếu người chết có tóc. Anh ta chọn bộ áo quần l nh lặn nhất của người tù, mặc v o rồi nhẹ nh ng nâng xác đặt v o áo quan được đóng bằng gỗ tạp sơ s i.
Anh ta cuộn những bộ áo quần khác th nh cái gói vuông vắn, đặt l m gối cho người chết. Nếu người tù không có áo xống gì, anh ta đẽo gọt một khúc cây l m gối. Khi đã ho n tất những việc trên, anh ta quỳ xuống bên áo quan, cúi hôn lên trán người tù chết, v  b­t khóc.
Anh ta khóc đau đớn v  thống thiết đến nỗi mọi người đều có cảm giác người nằm trong áo quan l  anh em máu mủ ruột thịt của anh ta. Với bất cứ người tù n o anh ta cũng khóc như v­y. Một lần giám thị trại gọi anh ta lên:
- Thằng tù chết ấy l  cái gì với m y m  m y khóc như cha chết v­y?
Anh ta chấp tay khúm núm thưa:
- Thưa cán bộ, tôi khóc vờ ấy m . Người chết m  không có tiếng khóc tống tiễn thì vong hồn cứ lẩn quẩn trong trại. Có thể nó tìm cách l m hại cán bộ. Lúc hắn còn sống, cán bộ có thể trừng trị hắn, nhưng đây l  vong hồn hắn, cán bộ muốn x­ch cổ, cũng không x­ch được.
Thằng khùng nói có lý. Giám thị trại mặc, cho nó muốn khóc bao nhiêu thì khóc. Nhưng mình không tin l  anh ta khóc vờ. Lúc khóc, cả gương mặt v ng úa, nhăn nhúm của anh ta chan hòa nước mắt. Cả thân hình gầy guộc của anh ta run rẩy. Mình có cảm giác cả cái mớ giẻ rách khoác trên người anh ta cũng khóc… Trong tiếng khóc v  nước mắt của anh ta chan chứa một niềm thương xót khôn tả. Nghe anh ta khóc, cả những trại viên khét tiếng lỳ lợm, chai sạn, "đầu ch y, đ­t thớt, mặt bù loong" cũng phải rơm rớm nước mắt. Chỉ có nỗi đau đớn chân th­t mới có khả năng xuyên thẳng v o trái tim người. Mình thường nghĩ ngợi rất nhiều về anh ta. Con người n y l  ai v­y? Một thằng khùng hay người có mối từ tâm lớn lao của b­c đại hiền?…
Thế rồi, một lần, mình v  anh ta cùng đi lùa trâu xuống con sông gần trại cho dầm nước. Trời nóng như dội l­a. Bãi sông đầy cát v  sỏi bị nóng rang bỏng như than đỏ. Trên bãi sông mọc độc một cây mủng gi  gốc sần sùi tán lá xác xơ trải một mảng bóng râm bằng chiếc chiếu cá nhân xuống cát v  sỏi. Người l­nh gác ngồi trên bờ sông dốc đứng, ôm súng trú nắng dưới một lùm cây. Anh ta v  mình phải ngồi trú nắng dưới gốc cây mủng, canh đ n trâu ngụp lặn dưới sông. Vì mảng bóng râm quá hẹp nên hai người gần sát lưng nhau. Anh ta bỗng lên tiếng trước, hỏi m  đầu không quay lại:
- Anh Tuân n y - không rõ anh ta biết tên mình lúc n o - sống ở đây anh thèm cái gì nhất?
- Thèm được đọc sách - mình buột miệng trả lời, v  chợt nghĩ, có lẽ anh ta chưa thấy một cuốn sách bao giờ, có thể anh ta cũng không biết đọc biết viết cũng nên.
- Nếu bây giờ có sách thì anh th­ch đọc ai? - anh ta hỏi.
- Voltaire! - một lần nữa mình lại buột miệng. V  lại nghĩ: Nói với anh ta về Voltaire thì cũng chẳng khác gì nói với gốc cây mủng m  mình đang ngồi dựa lưng. Nhưng nhu cầu được chuyện trò bộc bạch với con người nó cũng lớn như nhu cầu được ăn, được uống… Nhiều lúc chẳng cần biết có ai nghe mình, hiểu mình hay không. Đó ch­nh l  tâm trạng của anh công chức nát rượu Marmeladov bất chợt nói to lên những điều tủi hổ nung nấu trong lòng với những người vớ vẩn trong một quán rượu tồi t n, m  Dostoievsky miêu tả trong “Tội ác v  Trừng phạt”.
Anh ta ngồi bó gối, mắt không rời mặt sông loá nắng, hỏi lại:
- Trong các tác phẩm của Voltaire, anh th­ch nhất tác phẩm n o?
Mình s­ng sốt nhìn anh ta, v  tự nhiên trong đầu nảy ra một ý nghĩ kỳ lạ: một người n o khác đã ngồi thay v o chỗ anh ta… Mình lại liên tưởng đến một c­u l m việc cùng phòng hồi còn ở Đ i phát thanh, tốt nghiệp đại học hẳn hoi, đọc tên nhạc sĩ Chopin (Sôpanh) l  Cho Pin.
Mình trả lời anh ta:
- Tôi th­ch nhất l  Candide.
- Anh có th­ch đọc Candide ngay bây giờ không?
Không đợi mình trả lời, anh ta nói tiếp:
- Không phải đọc m  nghe… Tôi sẽ đọc cho anh nghe ngay bây giờ.
Rồi anh ta cất giọng đều đều đọc nguyên bản Candide. Anh đọc ch­m rãi, phát âm chuẩn v  hay như mấy cha cố người Pháp, thầy dạy mình ở trường Providence. Mình trân trân nhìn cái miệng rúm ró, răng v ng khè đầy bựa của anh ta như nhìn phép lạ. Còn anh ta, mắt vẫn không rời dòng sông loá nắng, tưởng chừng như anh ta đang đọc thiên truyện Candide nguyên bản được chép lên mặt sông…
Anh đọc đến câu cuối cùng thì kẻng ở trại cũng vang lên từng hồi, báo đến giờ lùa trâu về trại. Người l­nh gác trên bờ cao nói vọng xuống: "Hai đứa xuống lùa trâu, nhanh lên!".
- Chúng mình lùa trâu lên bờ đi! - anh nói.
Lội ra đến giữa sông, mình hỏi anh ta:
- Anh l  ai v­y?
Anh ta cỡi lên lưng một con trâu, vừa vung roi xua những con trâu khác, trả lời:
- Tôi l  cái thanh ngang trên cây th­p tự đóng đinh Chúa.
Rồi anh ta tiếp:
- Đừng nói với bất cứ ai chuyện vừa rồi…
Giáp mặt người l­nh canh, bộ mặt anh ta thay đổi hẳn - ngu ngơ, đần độn như thường ng y.
Cuối mùa đông năm đó, anh ta ngã bệnh. Nghe các trại viên kháo nhau mình mới biết.
Thằng chuyên gia khâm liệm e đi đong. Thế l  nếu bọn mình ngoẻo, sẽ không còn được khâm liệm t­ tế v  chẳng có ai khóc tống tiễn vong hồn… - những người tù nói, giọng buồn.
Mình gặp giám thị trại, xin được thăm anh ta.
Giám thị hỏi:
- Trước kia anh có quen biết gì thằng n y không?
Mình nói:
- Thưa cán bộ, không. Chúng tôi hay đi lùa trâu với nhau nên quen nhau thôi.
Giám thị đồng ý cho mình đến thăm, có l­nh đi kèm. Anh ta nằm cách ly trong gian lán
d nh cho người ốm nặng. Anh ta nằm như dán người xuống sạp nằm, hai hốc mắt sâu trũng, nhắm nghiền, chốc chốc lại lên cơn co gi­t…
Mình cúi xuống sát người anh ta, gọi hai ba lần, anh ta mới mở mắt, chăm chăm nhìn mình. Trên khoé môi rúm ró như thoáng một nét cười. Nước mắt mình tự nhiên tr o ra rơi lã chã xuống mặt anh ta. Anh ta thè luỡi liếm mấy giọt nước mắt rớt trúng v nh môi. Anh ta thều th o nói:
- Tuân ở lại, mình đi đây… Đưa b n tay đây cho mình…
Anh ta nắm chặt b n tay mình hồi lâu. Một tay anh ta rờ rẫm mớ giẻ rách khoác trên người, lấy ra một viên than củi, được m i tròn nhẵn như viên phấn viết. Với một sức cố gắng phi thường, anh ta dùng viên than viết v o lòng b n tay mình một chữ nho. Chữ NHẪN.
Viết xong, anh ta ho n to n kiệt sức, đánh rớt viên than, v  lên cơn co gi­t.
Người l­nh canh dẫn mình lên giám thị trại với b n tay có viết chữ Nhẫn ng­a ra. Người l­nh canh ngờ rằng đó l  một ám hiệu.
Giám thị hỏi:
- Cái hình nguệch ngoạc n y có ý nghĩa gì? Anh m  không th nh khẩn khai báo, tôi tống cổ anh ngay l­p tức v o biệt giam.
Mình nói:
- Thưa cán bộ, th­t tình tôi không rõ. Anh ta chỉ nói: tôi vẽ tặng c­u một đạo bùa để xua đuổi bệnh t­t v  t  kh­.
Nghe ra cũng có lý, giám thị trại tha cho mình về lán…
Phùng Quán
________
Ghi Chú:
(*) THẰNG KHÙNG trong tù n y l  Cha Ch­nh Vinh, tức l  Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH (1912-1971), của Nh  thờ lớn H  Nội. B i viết của Phùng Quán đã kể lại chuyện th­t những năm, những ng y cuối trong ngục tù của Ng i.
Xin mời đọc thêm (b i kèm theo dưới đây) tiểu s­ của Cha Vinh để chúng ta biết thêm nhiều chi tiết về cuộc đời Ng i; v  cũng để hiểu thêm gương phụng sự Chúa của Ng i….
Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH,
Cha ch­nh H  Nội, (1912 – 1971).
Tấm gương can trường.
Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH*
Cha Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh ch o đời ng y 2 tháng 10 năm 1912 tại l ng Ngọc Lũ, huyện Bình Lục, tỉnh H  Nam.
C­u Vinh, một thiếu niên vui vẻ, thông minh, có năng khiếu nghệ thu­t bẩm sinh về âm nhạc, ca hát. C­u biết k­nh trên, nhường dưới, trong xứ đạo, ai cũng quý yêu. Cha xứ Ngọc Lũ thời đó l  Cố Hương, một cha người Pháp tên l  Dépaulis giới thiệu c­u lên học tại trường Puginier H  Nội. Năm 1928, c­u học Tiểu Chủng viện Ho ng Nguyên, Phú Xuyên, H  Tây.
Năm 1930, thầy Vinh được cố Hương dẫn sang Pháp du học. Năm 1935, thầy v o Đại Chủng viện St Sulpice, Paris. Ng y 20-6-1940, thầy được thụ phong linh mục ở Limoges .
Chiến tranh thế giới xảy ra, cha Vinh phải ở lại Pháp v  tiếp tục học t­p.
Ng i học Văn Khoa - Triết tại Đại Học Sorbone, học sáng tác v  hòa âm tại Nhạc viện Quốc Gia. Ng i phải vừa học vừa l m. Vóc dáng nhỏ nhắn dễ thương của ng i đã l m cho nhiều người Pháp tưởng lầm ng i l  phụ nữ nên cứ ch o: “Bonjour Madame!”
Nhưng ẩn trong cái dáng vóc nhỏ bé đó l  một tâm hồn rộng lớn, sau đôi mắt sáng l  t­nh cương trực, dưới nụ cười l  ý ch­ sắt son.
Sau khi tốt nghiệp c­ nhân Văn Triết ở Sorbone, ng i gia nh­p dòng khổ tu Biển Đức tại Đan Viện Ste Marie.
Sau 17 năm du học, năm 1947 cha Vinh về nước, nhằm góp sức xây dựng Giáo Hội Công Giáo Việt Nam vững mạnh về mọi mặt. Khi ấy, Đức cha François Chaize - Thịnh, Bề trên Giáo ph­n đã bổ nhiệm ng i l m cha xứ Nh  Thờ Lớn H  Nội. Ng i xin Bề trên l­p dòng Biển Đức ở Việt Nam, nhưng không th nh.
Cha Vinh, dù tu học ở Pháp nhưng luôn có tinh thần yêu nước, độc l­p, không nệ Pháp. Năm 1951, Nh  Thờ Lớn H  Nội tổ chức lễ an táng cho Bernard, con trai tướng De Lattre de Tassigni. Trong thánh lễ, tướng De Lattre kiêu căng đòi đặt ghế của ông trên cung thánh v  bắt chuyển ghế của Trần Văn Hữu, Thủ tướng Việt Nam xuống dưới lòng nh  thờ. Vì lòng tự trọng dân tộc, danh dự quốc gia, cha Vinh cương quyết không chịu.
Tướng De Lattre rất tức gi­n, gọi cha Vinh tới, đ­p b n quát tháo, đe dọa. Cha Vinh cũng đ­p b n, lớn tiếng đáp lại, quyết không nhượng bộ, nhưng Thủ Tướng ngại khó nên tự nguyện rút lui. Sau vụ đó, để tránh căng thẳng, Đức Cha Khuê đã chuyển cha Vinh l m giáo sư của Tiểu Chủng Viện Piô XII, phụ trách Anh văn, Pháp văn, âm nhạc, triết học; ng i khiêm tốn vâng lời. Ng i cũng giảng dạy Văn Triết ở trường Chu Văn An.
Năm 1954, Đức cha Trịnh Như Khuê cho phép cha Vinh v  cha Nhân đưa chủng sinh đi Nam, nhưng cả hai đều xin ở lại sống chết với giáo ph­n H  Nội, dù biết ho n cảnh đầy khó khăn, nguy hiểm. Đức Cha Khuê bổ nhiệm ng i l m Cha Ch­nh, kiêm Hiệu Trưởng trường Dũng Lạc.
Ng i tổ chức lớp học giáo lý cho các giới, có những linh mục trẻ thông minh, đạo đức cộng tác, như cha Nguyễn Ngọc Oánh, cha Nguyễn Minh Thông, cha Phạm Hân Quynh. Lúc đầu, lớp học được tổ chức th nh nhóm nhỏ tại phòng khách Tòa Giám Mục, về sau, con số người tham dự tăng dần, lớp học được chuyển tới nh  préau, v  ngồi ra cả ngo i sân. Lớp học hiệu quả rất lớn, những t­n hữu khô khan trở th nh đạo đức nhiệt th nh, ảnh hưởng lan tới cả giới sinh viên v  giáo sư đại học, nhiều người gia nh­p đạo. Sau ch­nh quyền ra lệnh ngừng hoạt động vì lý do an ninh.
Khi cha Vinh đang l m Hiệu Trưởng Dũng Lạc, Ch­nh phủ ra chỉ thị phải treo ảnh lãnh tụ thay v o ảnh Thánh Giá ở các lớp học. Ng i không tuyên đọc chỉ thị cũng không tháo bỏ Thánh giá, nên năm 1957, trường bị đóng c­a.
Thời bấy giờ, Đại học Y khoa H  Nội thiếu giáo sư, nên đã đề nghị Đức Cha Khuê c­ cha Vinh đến trường dạy La tinh. Nhiều sinh viên cảm phục ng i. Một hôm, Chu Ân Lai, thủ tướng Trung Quốc đến thăm trường, thấy bóng dáng chiếc áo chùng thâm linh mục, ông nói với đo n tháp tùng: “Đến giờ n y m  còn có linh mục dạy ở Đại Học quốc gia ư?” Ít lâu sau trường Đại học Y khoa không mời cha dạy nữa.
Biết t i năng v  kiến thức âm nhạc của ng i, nhiều nhạc sĩ ở H  Nội tìm cha Vinh tham khảo ý kiến v  nhờ xem lại những bản nhạc, b i ca họ mới viết.
Cha Vinh, một trong những nhạc sĩ tiên phong của Thánh nhạc Việt Nam, v  l  một nhạc sĩ to n t i. Ng i chơi vĩ cầm v  dương cầm th­t tuyệt, ch­nh ng i l  người Việt Nam đầu tiên chơi vĩ cầm ở H  Nội.
Ng i có năng khiếu đặc biệt về âm nhạc, lại được học t­p chu đáo nên đã sáng tác v  để lại nhiều nhạc phẩm thánh ca tuyệt vời. Cha Vinh trình b y bản hợp tấu “Ở Dưới Vực Sâu” nhân cuộc đón tiếp phái đo n Việt Nam do ông Hồ Ch­ Minh dẫn đầu sang dự Hội Nghị Fontainebleau năm 1946.
Ng i cộng tác với Hùng Lân sáng tác “Tôn Giáo Nhạc Kịch Đa-V­t.” Sáng tác nhiều nhạc phẩm lớn: “Mở Đường Phúc Th­t,” “Tôn Vinh Thiên Chúa Ba Ngôi,” “Ôi GiaVi,” “Lạy Mừng Thánh T­ Đạo.” Ng i phổ nhạc cho các Ca Vịnh 8 , Ca vịnh 16, Ca vịnh 23, Ca vịnh 41, Ca vịnh 115 v  nhiều b i hát khác như Đức Mẹ Vô Nhiễm, Thánh Tâm Giêsu. Ng i còn viết những b i ca sinh hoạt: Sao Mai, Đời Người, phổ nhạc b i “Bước Tới Đèo Ngang” của B  Huyện Thanh Quan.
Hằng tuần ng i đến dạy nhạc, xướng âm v  t­p hát bên chủng viện Gioan. Cha Vinh có giọng nam cao, âm hưởng thanh thoát, lôi cuốn. Ng i tổ chức v  chỉ huy d n đồng ca trong nhiều cuộc lễ v  rước kiệu lớn như cuộc Cung Nghinh Thánh Thể từ H m Long về Nh  Thờ Lớn H  Nội.
Năm 1957, Nh  nước muốn tỏ cho dân chúng trong nước v  thế giới thấy l  ở Việt Nam đạo Công giáo vẫn được tự do h nh đạo v  tổ chức được những lễ nghi long trọng, tưng bừng. Dịp Lễ Noel, ch­nh quyền tự động cho người đến chăng dây, kết đèn quanh Nh  Thờ Lớn, sau lễ họ v o đòi nh  xứ H  Nội phải thanh toán một số tiền chi ph­ lớn về v­t liệu v  tiền công.
Năm 1958 cũng thế, gần đến lễ Noel, không hề hỏi han, xin phép, một số người của Nh  nước ngang nhiên đưa xe ô tô chuyển v­t liệu, tự động bắc thang, chăng dây treo bóng điện m u trang tr­ ở mặt tiền v  trên hai tháp Nh  Thờ Lớn. Cha xứ thời đó l  cha Trịnh Văn Căn bảo vệ chủ quyền Giáo Hội trong khuôn viên cơ sở tôn giáo, không đồng ý, nhưng họ cứ l m. Để phản đối, cha Căn liền cho kéo chuông nh  thờ cấp báo, giáo dân kéo đến quảng trường nh  thờ rất đông ủng hộ cha xứ, hai bên to tiếng.
Cha Căn gọi Cha Vinh ra can thiệp, sau một hồi tranh lu­n không kết quả, cha Vinh kéo những người của Nh  nước đang leo thang chăng đèn xuống, rồi ch­nh ng i leo lên thang, hai tay đưa cao trước mặt, hai b n tay nắm lại, hai cườm tay đặt lên nhau, l m dấu hiệu còng tay số 8, v  nói lớn:
“Tự do thế n y  !”
Vụ giằng co lộn xộn kéo d i suốt buổi sáng, công cuộc trang tr­ không th nh. Cha Căn, cha Vinh cùng một số giáo dân bị cơ quan an ninh thẩm vấn, đem ra xét x­. Tòa án H  Nội tuyên án: Cha Trịnh Văn Căn, Ch­nh xứ Nh  Thờ Lớn, người chịu trách nhiệm tổ chức lễ Noel năm 1958 chịu án 12 tháng tù treo.
Cha Ch­nh Nguyễn Văn Vinh chịu án 18 tháng tù giam, với tội danh: “Vô cớ t­p hợp quần chúng trái phép, phá rối trị an, cố tình vu khống, xuyên tạc chế độ, gây chia rẽ trong nhân dân” (!).
Sau phiên tòa, cha Vinh bị đưa đi giam ở Hỏa Lò, sau bị chuyển đi nhiều trại giam khác như Chợ Ngọc, Yên Bái, cuối cùng l  trại “Cổng Trời”, nơi d nh riêng cho các tù nhân t­ tội.
Khi cha Vinh mới đến trại Yên Bái, ng i còn được ở chung với các tù nhân khác, nhiều giáo dân, chủng sinh, tu sĩ đến xin cha giải tội, vì thế ng i bị kỷ lu­t, phải biệt giam, bị cùm chân trong x  lim tối. Mấy tháng sau được ra, ng i lại ban phép giải tội. Cán bộ hỏi:
“Tại sao bị cùm, bị kỷ lu­t, được ra, anh tiếp tục phạm quy?”
Ng i đáp:
“Cấm l  việc của các ông, giải tội l  việc của tôi, còn sống ng y n o, tôi phải l m bổn ph­n mình!”
Ở tù đói rét l  đương nhiên, lúc n o cũng đói, hằng ng y mỗi bữa một bát sắn độn cơm, ăn với lá bắp cải gi  nấu muối, khi chia cơm phải cân đong từng chút một... Một lần cha Vinh nh­n được gói bưu kiện do cha Cương, quản lý Nh  Chung H  Nội, g­i lên, trong đó có ­t thức ăn, lương khô v  v i đồ dùng cá nhân, ng i đem chia sẻ cho anh em trong nhóm, cả Công giáo lẫn lương dân, ăn chung, dùng chung. Anh em tù hình sự thân thương gọi ng i l  “Bố.”
Ngay trong nh  tù, cha Vinh vẫn can đảm bảo vệ người bị áp bức, có lần một tổ trưởng đánh đ­p tù nhân, ng i lên tiếng bênh vực, liền bị người tổ trưởng n y xông đến giang tay đánh, ng i đưa tay gạt, anh ta ngã khụy. Từ đó trong trại có tiếng đồn cha Vinh giỏi võ, mọi người phải nể vì.
Một cán bộ cao cấp ở H  Nội lên Cổng Trời gặp cha Vinh, nói: “Đảng v  Ch­nh phủ muốn anh được tha về, nhưng với điều kiện phải cộng tác với linh mục Nguyễn Thế Vịnh (Chủ tịch Ủy Ban Liên Lạc Công Giáo). Nếu anh đồng ý, anh có thể về H  Nội ngay bây giờ với tôi”. Ng i khẳng khái đáp: “Ông Vịnh có đường lối của ông Vịnh. Tôi có đường lối của tôi”.
Vì không khuất phục được ng i, nên bản án từ 18 tháng tù giam, không qua một thủ tục pháp lý án lệnh n o, đã biến th nh 12 năm tù kiên giam, x  lim, biệt giam v  án t­.
Năm 1971, khi ng i từ trần không ai được biết, một năm sau, ch­nh quyền mới báo cho Đức Cha Khuê v  cha Cương quản lý Nh  Chung: “Ông Vinh đã chết. Không được l m lễ áo đỏ cho ông Vinh!”
Suốt đời mình, trong mọi tình huống cha Ch­nh Vinh l m tròn trách vụ của mình. Ng i đã mạnh mẽ rao giảng Tin Mừng v  l m chứng cho đức tin, khi thu­n tiện cũng như khó khăn. Vượt mọi th­ thách gian khó, không chịu khuất phục trước cường quyền, luôn trung kiên với Thiên Chúa v  Giáo Hội.
Cha Ch­nh Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh l  một chứng nhân của thời đại, một linh mục Công Giáo Việt Nam can trường, h­u thế k­nh tôn v  ghi ân ng i.

TGP H  Nội - 2013
BBT (Theo HĐGMVN)

Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire