Gửi bạn ta ,Chị Quản mỹ Lan và bạn Nguyễ kinh Bắc (TP.NĐS)
cùng quý bạn ta .
Cám ơn Kinh Bắc, nguyễn đình Sơn
Thân phận lưu vong trí chẳng sờn
Ngẫu hứng mười dòng xin đáp hoạ :
Cô đơn chia sẻ mọi nguồn cơn
VỌNG QUỐC HÀNH
Quê cha ,đất tổ cách muôn trùng !
Ta đành ly biệt đã bao đông
Bao đông tính sắp đầy hoa giáp
Thương nhớ đầy vơi chẳng tận cùng
Ta nhớ thời còn trong đại học
Mơ đem bút mực thế gươm cung .
Gập phải cai thầu làng báo chí
Tố ta như một kẻ nằm vùng .
Cũng may không vướng vòng lao lý .
"Tam Quý" (*) cùng bàn góp sức chung
Tính đem nhiệt huyết lo cho nước
Hùng khí thanh niên đã nổ bùng :
Quý Biên sốt sắng lo tài chánh .
Quý Nghiêm thề diệt sạch quân hung
Tuyển "Chấn Bốn Cho" làm sát thủ,
Hắn khoe tài sức rất kiêu hùng !
Nhận lãnh tiền nong sau mất dấu
Tình hình chính trị chuyển rồi rung .
Quảng Đức cháy tiêu trong khói lửa
Cấm trại quân nhân cực tận cùng !
Sư Sãi ,Cha Thầy đua thúc đẩy
Phật tử, con chiên đã nổi sung
Bùi Phát ,Ấn Quang lo xách động
Loa vang ,trống giục cứ thùng thung .
Sinh viên học xá buồn thân phận
Tán chuyện tầm phào lấy đấu đong (?)
Ngao ngán nhìn đời không lối thoát ,
Hận mình không thể hoá Chim Hồng
Ôi những Chim Hồng nay biệt tích !
Chỉ là thần thoại có hay không ?
Cố công đèn sách chi cho uổng ?
Đèn sách ngổn ngang chất cả chồng !
Mong ngóng chờ ngày đi Thủ Đức
Tập đeo băng đạn thắt ngang lưng .
Lên đường chiến đấu ngoài rừng rú
Ngủ trên sỏi đá chẳng chăn mùng !
Trai sinh tời loạn thương bè bạn ...
Giữ gìn đất tổ một lòng trung .
Bến Hải ,Cà Mau lo đuổi giặc
Gian lao nguy hiểm trí không chùng !
Giận thay cái lũ ham danh lợi
Ích kỉ lăm le miếng đỉnh chung
Cho ngáp phải ruồi vào Quốc Hội
Đồng sàng dị mộng chẳng sao " đồng"
Nhạc Trinh công Sơn vang khắp nẻo
Khơi nguồn cho quốc phả gia vong .
Mươi bà mệnh phụ mê bài bạc
Thúc chồng tham nhũng mới vùa lòng
Cứ tưởng ăn trên ngồi trước mãi
Đến nay mất sạch có đau lung ?
Cả bọn nằm vùng giờ lộ mặt
Nhặng sị ta đây chẳng ngượng ngùng !
Tướng tá ngu hèn không biết nhục
Còn dùng hồi ký đặng khoe công
Còn đòi lúc chết cờ vàng phủ
Ta xưa chống địch vững hơn đồng !
Bao tên quân dịch thường tìm trốn
Nay khoe diệt giặc rất là xung
Lũ Chệt năm nao là lính kiểng
giờ khoe bắt địch giỏi truy lùng
Làng lưới vài tên "thi sĩ dỏm"
đòi gìn văn hoá giữ thuần phong !
Chỉ biết gang mồn ra chửi đổng
tự tôn tự đại mới vui lòng ...
Tị Nạn trở cờ đói cứu quốc ,
Cãi nhau khản cổ tới xù lông
Anh nào cũng nghĩ mình tay tổ
Mở miệng phà hơi thúi nực nồng
Chẳng xót dân đen đang khổ ải
Quanh năm ỳ ạch với cùm gông
Thương Nữ ,MC mê Nhí nhảnh
Rên "Hậu Đình Hoa" chẳng ngại ngùng !
Quặn thắt ruột gan đau thế sự
Hận chẳng giữ gìn được núi sông
Nên phải nổi trôi theo vận nước
Cùng bao rác rến chảy chung giòng
Cho lũ lòng tong theo rúc rỉa
Nhìn chúng loay hoay khóc khó xong !
Nhớ giải Lĩnh Nam hình chữ S,
Quê cha đất tổ cách muôn trùng
(*)"Tam Quy" g
ồm ba anh em Lê quý Biên ,Lã quý Nghiêm và Đỗ quý Bái
(*) Hồi đó anh em sinh viên thường cười cợt gọi Viện Hóa Đạo và trại
Bùi Phát là Viện Háo Dại và Trại Cùi Phát .Nồi da nấu thịt thực là đau lòng !
LTĐQB
LƯU VONG HÀNHNguyễn Kinh Bắc
|
Đất mẹ còn xa cách vạn trùng Ta còn phiêu bạt – đã mười đông Mười đông – vật vã vì cơm áo Lòng vẫn chưa nguôi, nhớ chẳng cùng! Ta nhớ một thời chinh chiến cũ Học làm tráng sĩ luyện đao cung Bút nghiên xếp lại, yêu đời lính Theo gót người xưa sống vẫy vùng Quân đội trưởng thành trong khói lửa Dựng cờ đại nghĩa, diệt thù chung Tình dân đã quyện theo tình nước Thề quyết xông pha, vượt bão bùng Bao địa danh ngời trang chiến sử Đã làm khiếp vía giặc tàn hung Kontum, Quảng Trị, ...cùng An Lộc Phất phới cờ bay rợp khí hùng Rồi đến một ngày kia, súng gãy Ôi, trời nghiêng ngửa, đất đang rung Tướng quân tuẫn tiết ngoài biên ải Sĩ tốt điêu linh giữa khốn cùng Một lũ bất tài lo tháo chạy Những vì sao bạc rụng như sung Bao năm chễm chệ ngồi vơ vét Bỏ nước ra đi chẳng thẹn thùng Ta cũng như trăm nghìn chiến hữu Nổi trôi cùng vận nước long đong Sa cơ mắc bẫy vòng lao cải Rừng thẳm rào ngăn vó ngựa hồng Ôi những ngựa hồng nay chiến bại Cơ trời chuyển hóa, có thành không! Đòn thù giáng xuống đâu thương tiếc Oán hận triền miên mãi chất chồng Lao động khổ sai, thêm đói rét Mỗi ngày hai bữa bát ngô lưng Thân phơi gió lộng đồi heo hút Xác bỏ đìu hiu giữa mịt mùng Nhớ lại những ngày đi chiến đấu Lòng hằng giữ vững chữ kiên trung Dù cho đã ở trong tay giặc Đầu ngẩng lên cao, gối chẳng chùng Đất nước tuy còn, như đã mất Người người mang một nỗi đau chung Hỡi ơi, hăm tám năm rồi nhỉ ? Mà vẫn không chung một chữ “đồng” Tự buổi lên đường, xa tổ quốc Làm người tị nạn, sống lưu vong Những ai nếu vẫn còn tâm huyết Thấy cảnh nhiều khi cũng nản lòng Chiến hữu một thời, nay cấu xé Bạn tù quên hết thuở lao lung Cai thầu chống Cộng nhân danh hão Chụp mũ cho nhau chẳng ngại ngùng Một lũ túi cơm, phường giá áo Như bầy ngan ngỗng khoác lông công Học làm con rối lăng xăng múa Đã nát càng thêm nát cộng đồng Báo bổ dăm ba tờ lá cải Tập tành chữ nghĩa viết bung xung Bôi tro trát trấu người thiên hạ Vẫn sống dằng dai mới lạ lùng Văn sĩ nửa mùa khoe múa bút Phơi bày dâm dật, cũng văn phong ! Xênh xang áo gấm về quê mẹ Đú đởn ăn chơi cốt thỏa lòng Chính khứa trở cờ khoe ái quốc Ngồi chờ đón gió giữa sa lông Nhìn quanh cũng một phường xôi thịt Miệng lưỡi còn đang bốc rượu nồng Đâu xót dân lành đang thống khổ Đêm ngày rên xiết dưới xiềng gông Những cô ca sĩ về ăn Tết Hát “Hậu Đình Hoa” chẳng ngượng ngùng Ôi, biết bao điều, sao nói hết Nói càng thẹn mặt với non sông Gươm cùn, súng gãy từ bao thuở Bút mực này đây trải mấy giòng Mái tóc xanh xưa giờ đã bạc Thù nhà, nợ nước trả nào xong Chiều nay lặng lẽ nhìn mây phủ Đất mẹ còn xa cách vạn trùng Nguyễn Kinh Bắc Philadelphia 12/2003 |
Diệu Tần
Quê cha vạn lý sóng điệp trùng
Ngồi đây mà hận chuyện Biển Đông
Được hưởng tự do nơi đất khách
Quá khứ tràn về nhớ khôn cùng
Trải mười năm loạn lạc kiếm cung
Dao định mệnh chia hai Bến Hải
Miền Nam đất nước đẹp một vùng
Thanh bình no ấm nỗi vui chung
Núi rừng đồng ruộng vang tiếng hát
Nào ngờ chiến trận lại nổ bùng
Vì tham vọng chúng gây máu lửa
Du kích nằm vùng thật ác hung
Nga Tàu tiếp vận tăng, hỏa tiễn
Rồi cuộc đổi đời đất chuyển rung
Tháng Tư năm ấy bao uất hận
Quân dân bị đẩy bước đường cùng
"Thủ" Đồng khúm núm dâng biển đảo
Trường Sa Việt Cộng rụng như sung
Hoàng Sa chúng lập thành tỉnh nhỏ
Cộng sản như nhau rúc một thùng
Trả nợ chiến tranh bằng lãnh thổ
Dân nghèo sơ sác chạy long đong
'"Mười sáu chữ vàng" đành nuốt nhục
Lạy lục năm sao máu cờ hồng
Dân Hán tràn qua xây phố thị
Chủ quyền mất trắng, có như không
Phải lập
nghĩa trang thờ lính "Tẫu"
Gái Việt phải lấy "chệt" làm chồng
Học sinh nghèo lội sông đi học
Đòi đất, dân oan bị gãy lưng
Công an đạp mặt người chống Hán
Cô giáo
vùng cao ngủ không mùng
Cô đói, chia cơm cho trò đói
Trung ương dạy lính phải kiên trung
Trung với đảng quên trung với nước
Lòng dân phản kháng vẫn không chùng
"Sông liền
sông", xây đập phá rối
Bô -xít đào lên phá nương đồng
Ngoài khơi tung mười ngàn tàu cá
Ngư dân ta mắc lưới tiêu vong
Ngang nhiên cướp bóc đòi tiền chuộc
Giam tàu, hốt
cá thật đau lòng
Sân bay vắt ngang trên các đảo
Lưỡi bò thò xuống chẳng ngại ngùng
Đài truyền tin, ra-đa, cờ quạt
Chúng ngoác miệng khoe mẽ, kể công
Chiến hạm giả danh
tàu ngư chính
Dựng ẩu lên bia đá bảng đồng
Cắm cờ đáy biển đòi làm chủ
Coi quốc tế như lũ bung xung
Thật ra chúng lo ăn, thiếu gạo
Nuôi tỷ ba dân, phải kiếm lùng
Vét dầu, vét cá, thu nguyên liệu
Lại thêm kích động lính xung phong
Đề cao bá quyền dân đại quốc
Đứng đầu thế giới mới thỏa lòng
Lãnh thổ gồm thâu Giao Chỉ quận
Chúng rung đùi, dê béo rượu nồng
Đâu chịu hiểu chiến tranh kinh tế
Không đánh bằng súng đạn, xiềng gông
Bất công, đói khổ dân vùng dậy
Biến loạn diễn ra máu ngập sông
Chừng đó triệt năm sao cờ đỏ
Liềm buá tan, thả cuốn theo dòng
Thời cộng sản đã lui, đã lỗi
Hận thù thanh thoả coi như xong
Ngày đó ta lại về làng cũ
Hớn hở quê cha sóng điệp trùng.
DIỆU TẦN
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire