samedi 7 septembre 2013

"Quy Khứ Lai Từ " ĐÀO TIỀM




ĐÀO TIỀM
Đào Tiềm làm rất ít thơ và chỉ có bài Quy Khứ Lai Từ được xếp vào hàng bất hủ. Nó xiêu việt đến độ ba chữ “quy khứ lai” (về đi thôi) thường xuất hiện trên bờ môi đầu lưỡi của những đại thi hào Trung quốc như Lý Bạch, Đỗ Phủ và trở thành châm ngôn của Tàu và Việt.
Đào Tiềm (365-427),tự Uyên Minh, thi hào đời Tấn (Lục Triều) nguyên quán nay thuộc tỉnh Giang Tây. So sánh thời đại: Lý Bạch (701-762), Đỗ Phủ (712-770), Thịnh Đường. Bạch Cư Dị (772-846)        Trung&Vãn Đường
QUI  KHỨ LAI TỪ         Bài ca VỀ ĐI THÔI
Đào Tiềm                           Con Cò
Qui khứ lai hề!                      Về đi thôi hề!
Điền viên tương vu hồ bất qui?    Ruộng vườn hoang phế sao chưa về?
 Ký tự dĩ tâm vi hình dịch      Lòng tự nhủ bản thân phục dịch
Hề trù trướng nhi độc bi?      Cớ sao còn buồn bã sầu bi?
Ngộ dĩ vãng chi bất gián       Quá khứ đã dở dang hề
Tri lai giả chi khả truy           Tương lai vẫn còn bắt kịp.
Thực mê đồ kỳ vị viễn           Lạc đường chưa quá xa hề
Giác kim thị nhi tạc phi           Xưa lỡ lầm nay còn dịp.

Châu dao dao dĩ khinh dương     Thuyền thênh thênh theo gió lướt
Phong phiêu phiêu nhi xuy y     Gió vi vu tà áo bay.
Vấn chinh phu dĩ tiền lộ             Hỏi chinh phu đường phía trước
Hận thần quang  chi hy vi           Tiếc bình minh ánh chưa đầy.
Nãi chiêm hành vũ                   Thấy mái nhà xưa   
Tải hân tải bôn                           Hân hoan rảo bước
Đồng bộc hoan nghênh            Đồng bộc đón chờ
Trĩ tử hầu môn                         Trẻ thơ cửa trước
Tam kính tựu hoang                Lối ngõ hoang sơ
Tùng cúc do tồn                        Cúc tùng xanh mướt.
Huề ấu nhập thất                     Ẵm trẻ vô nhà
Hữu tửu doanh tôn                    Rượu ngon canh ngọt
2

Dẫn hồ trường dĩ tự chước      Nâng hồ trường hề tự rót
Miến đình kha dĩ di nhan         Nhìn cây lá mỉm miệng cười.
Y nam song dĩ ký ngạo           Dựa cửa nam hề cao ngạo
Thầm dung tất chi dị an          Nhà chật chội lòng vui tươi
Viên nhật thiệp dĩ thành thú    Thú chơi vườn hề thành thạo
Môn tuy thiết nhi thường quan    Cửa sẵn có luôn then cài.
Sách phù lão dĩ lưu khế           Nương gậy tre hề bước dạo
Thời kiu thủ nhi hà quan       Ngẩng đầu lên nhìn xa xôi.
Vân vô tâm dĩ xuất tụ             Chim mỏi cánh hề về cội
Điểu quyện phi nhi tri hoàn    Mây lững lờ qua núi khe
Cảnh ế ế dĩ tương nhập         Trời âm u hề xập tối
Phủ cô tùng nhi bàn hoàn      Ôm cây tùng đứng mải mê.
 Qui khứ lai hề!                      Về đi thôi hề!
Thỉnh tức giao dĩ tuyệt du      Không mong giao du với ai
Thế dữ ngã nhi tương vi         Ta và đời nhiều tương phản
Phục giá ngôn hề an cầu?       Chẳng làm gì được nữa rồi.
Duyệt thân thích chi tình thoại   Họ hàng thân thương đàm thoại
Lạc cầm thư dĩ tiêu ưu           Tiêu sầu đàn sách vui chơi
Nông nhân cáo dư dĩ xuân cập    Nông dân thông báo xuân vừa tới
Tương hữu sự ư tây trù            Mùa cấy cày sắp đến nơi.
Hoặc mệnh cân xa                Hoặc vời xe lại
 Hoặc trạo cô châu                Hoặc thả thuyền bơi
Ký yểu điệu dĩ tầm hác         Tìm nơi thâm sâu khe đá
Diệc kỳ khu nhi kinh khâu       Hay chốn gập ghềnh núi đồi
Mộc hân hân dĩ hướng vinh      Trong veo suối nguồn nước chảy
Toàn quyên quyên nhi thủy lưu   Thanh thanh cây cỏ xinh tươi
Thiện vạn vật chi đắc thời          Muôn loài gặp thời thuận lợi
Cảm ngô sanh chi hành hưu       Sinh, làm, hưu hề cảm hoài.
Dĩ hĩ hồ!                                  Ôi vậy sao!
Ngụ hình vũ nội phục kỷ thì?        Hình hài này sống gởi bao lâu?
Hạt bất uỷ tâm nhậm khứ lưu      Sao không lui tới bất kỳ đâu?
Hồ vi hoàng hoàng dục hà chi?     Sao không nhàn hạ còn đi nữa?
3

Phú qúi  phi ngô nguyện           Phú quí không thèm lựa
Đế hương bất khả kỳ                   Thiên đường chẳng cầu mong.
Hoài lương thần dĩ cô vãng      Sáng đẹp một mình tản bộ
Hoặc thực trượng nhi  vân ti      Khuôn viên cây cỏ vun trồng
Đăng đông cao dĩ thư khiếu      Trèo lên đồi cao ca hát
Lâm thanh lưu dĩ phú thi          Vịnh thơ bên dòng nước trong
Liêu thừa  hóa dĩ qui tận             Thuận tử sinh về cõi diệt
Lạc phù thiên mệnh phục hề nghi?   Vui theo thiên mệnh há ngại ngùng?

Tác giả dùng 46 giới tự: dĩ, nhi, hà, chi, hề, ư.  Bài dịch dùng  11 chữ  hề. Khứ lai: đi và lại. Từ: lời văn, bài ca. Tương: sắp, sẽ. Vu: bỏ hoang. Hồ: sao? chẳng? Ký: đã xong. Tự: tự thân mình. Dĩ: lấy, dùng. Vi: làm. Hình: hình thể, cái hiện ra ngoài. Dịch: sai làm việc (phục dịch). Trù trướng: buồn rầu. Nhi: mà, lời nói chuyển sang ý khác. Ngộ: thấu hiểu. Gián: can gián. Giả: học giả. Truy: đuổi theo, kịp. Giác: biết, giác ngộ. Thị: phải,(trái với phi). Tạc: hôm qua. Dao: lay động. Khinh: nhẹ.(ngược với trọng). Dương: gió bay tốc lên. Phiêu phiêu: gió thổi nhẹ. Xuy: gió thổi. Hy: tang tảng sáng. Vi: nhỏ. Nãi: trợ từ. Chiêm: xem, ngẩng mặt lên mà nhìn.  Vũ: mái nhà. Tải: chở. Đồng bộc: gia nhân, đầy tớ. Trĩ tử: con trẻ. Hầu: chờ chực. Kính: lối tắt. Tựu: sự đã nên. Hoang: ruộng bỏ hoang. Do: giống như, còn. Tồn: còn (ngược với vong). Doanh: đầy đủ. Tôn: chén uống rượu. Dẫn: dương cung lên, dẫn đến. Hồ: bình đựng rượu. Miến: trông, liếc. Đình: sân trước. Kha: cành cây. Di: vui vẻ, dễ dàng. Y=Ỷ: dựa vào. Song: cửa sổ. Dung: tiếp nhận bao bọc. Tất: đầu gối. Dung tất: nhà chật hẹp. Viên: vườn hoa. Thiệp: lội qua nước, trải qua. Thiết: đặt bày ra. Quan: đóng cửa. Sách: kế sách. Phù: cây gậy. Lưu: nước chẩy, chuyển động. Khế: nghỉ ngơi. Thời: thường. Kiều thủ: ngẩng đầu lên nhìn. : xa, hà phương. Quan: quan sát. Tụ: hang, khe núi. Quyện: mỏi mệt. Ế ế: trời âm u. Phủ: vỗ về. Bàn hoàn: không dứt ra được. Thỉnh: cầu mong. Tức: thôi, nghỉ. Dữ: cùng với. Vi: lìa ra, trái ngược. Phục: đáp lại, lại lần nữa. Giá: tiến hành. Ngô: tôi. An: ở đó, há, sao, vậy…trợ từ dùng dứt câu. Duyệt: hài lòng. Thoại: nói chuyện. Dư: ta. Ư: ở, chưng, trợ từ. Trù :ruộng cấy lúa. Mệnh: sai bảo. Cân: khăn tay đội đầu. Cân xa: xe có mui. Trạo châu: chèo thuyền.Yểu điệu: sâu thẳm. Hác: khe nước ở chân núi. Diệc: cũng, cũng theo. Kỳ khu: đường khấp khểnh.  Kinh khâu: gò đất. Hân hân: vui vẻ. Vinh: cây cỏ tốt tươi. Toàn: suối, nguồn nước. Quyên quyên: dòng nước nhỏ trong sạch. Thủy: mới, bắt đầu. Cảm: cảm khái. Ngô=ngã: ta.  Sanh. Hành, hưu: lúc sinh ra, làm việc và nghỉ hưu. Ngụ: nhờ, ở đậu. Vũ nội: vũ trụ. Năng: tài năng. Kỷ: bao nhiêu. Hạt: sao? chẳng? Ủy: uỷ thác. Nhậm: gánh vác. Hoàng: nghỉ thư nhàn. Dục: muốn. Hà chi: đi đâu? Đế hương: quê nhà Trời, thiên đường. Kỳ: trông mong. Hoài: nhớ trong lòng. Lương: tốt lành. Thần: buổi sáng sớm. Vãng: đã qua. Thực: trồng cây, cắm. Trượng: cây gậy. Đăng: trèo lên cao. Thư: thư dãn, nhàn. Khiếu: kêu, hát to. Thanh lư: dòng nước trong. Liêu: hãy. Thừa: cỡi xe. Hóa: thay đổi tự nhiên. Thừa hóa dĩ quy tận: nhân cái chết đến do luật tạo hóa. Phù: giúp. Nghi: ngờ.
Lời bàn của ConCò:
Bài thơ này là một kiệt tác.
4
Tác gỉa dùng 46 giới từ (những từ vô nghĩa, chỉ̀ giúp cho âm hưởng của câu thơ): dĩ nhi, hà, chi, hề, ư; bài dịch dùng11 chữ hề (một giới từ rất thông dụng trong thơ Việt), giữ nguyên thể  cổ phong và số chữ trong câu để dễ mượn cái âm hưởng của bài thơ.Ý của từng câu được tôn trọng. Ngôn từ được lựa chọn tương ứng với ngôn từ của nguyên bản. Một vàì từ giữ nguyên không dịch̀ vì nó đã được Việt hóa ( thí dụ: thiên mệnh đáng lẽ nên dịch là mệnh trời) cũng vì âm hưởng của câu thơ.
Đọc thêm bài sưu tầm trên net
歸去來辭 - QUY KHỨ LAI TỪ - ĐÀO TIỀM
10/01/2008
歸去來兮,田園將蕪,胡不歸!
既自以心為形役,奚惆悵而獨悲?
悟已往之不諫,知來者可追。
實迷途其未遠,覺今是而昨非。
舟遙遙以輕颺,風飄飄而吹衣。
問征夫以前路,恨晨光之熹微。
乃瞻衡宇,載欣載奔。
僮僕歡迎,稚子候門。
三徑就荒,松菊猶存。
攜幼入室,有酒盈樽。
引壺觴以自酌,眄庭柯以怡顏。
倚南窗以寄傲,審容膝之易安。
園日涉以成趣,門雖設而常關。
策扶老以流憩,時矯首而遊觀。
雲無心以出岫,鳥倦飛而知還。
景翳翳以將入,撫孤松而盤桓。
歸去來兮,請息交以絕遊。
世與我而相違,復駕言兮焉求?
悅親戚之情話,樂琴書以消憂。
農人告余以春及,將有事於西疇。
或命巾車,或棹孤舟。
既窈窕以尋壑,亦崎嶇而經丘。
木欣欣以向榮,泉涓涓而始流。
羨萬物之得時,感吾生之行休。
已矣乎!
寓形宇內復幾時,曷不委心任去留?
胡為遑遑,欲何之?
富貴非吾願,帝鄉不可期。
懷良辰以孤往,或植杖而耘耔。
登東皋以舒嘯,臨清流而賦詩。
聊乘化以歸盡,樂夫天命復奚疑!
Phiên âm
Quy khứ lai hề, điền viên tương vu, hồ bất quy!
Ký tự dĩ tâm vi hình dịch, hề trù trướng nhi độc bi ?
Ngộ dĩ vãng chi bất gián, tri lai giả khả truy.
Thực mê đồ kỳ vị viễn, giác kim thị nhi tạc phi.
Chu dao dao dĩ khinh dương, phong phiêu phiêu nhi xuy y.
Vấn chinh phu dĩ tiền lộ, hận thần quang chi hy vi.
Nãi chiêm hành vũ, tái hân tái bôn.
Đồng bộc hoan nghinh, trĩ tử hậu môn.
Tam kính tựu hoang, tùng cúc do tồn.
Huề ấu nhập thất, hữu tửu doanh tôn.
Dẫn hồ trường dĩ tự chước, miện đình kha dĩ di nhan.
Ỷ nam song dĩ ký ngạo, thẩm dung tất chi dị an.
Viên nhật thiệp dĩ thành thú, môn tuy thiết nhi thường quan.
Sách phù lão dĩ lưu khế, thời kiểu thủ nhi du quan.
Vân vô tâm dĩ xuất tụ, điểu quyện phi nhi tri hoàn.
Cảnh ế ế dĩ tương nhập, phủ cô tùng nhi bàn hoàn.
Quy khứ lai hề, thỉnh tức giao dĩ tuyệt du.
Thế dữ ngã nhi tương vi, phục giá ngôn hề yên cầu ?
Duyệt thân thích chi tình thoại, lạc cầm thư dĩ tiêu ưu.
Nông nhân cáo dư dĩ xuân cập, tương hữu sự ư tây trù.
Hoặc mệnh cân xa, hoặc trạo cô chu.
Ký yểu điệu dĩ tầm hác, diệc khi khu nhi kinh khâu.
Mộc hân hân dĩ hướng vinh, tuyền quyên quyên nhi thuỷ lưu.
Tiện vạn vật chi đắc thời, cảm ngô sinh chi hành hưu.
Dĩ hĩ hồ!
Ngụ hình vũ nội phục kỷ thời, hạt bất uỷ tâm nhiệm khứ lưu ?
Hồ vi hoàng hoàng, dục hà chi ?
Phú quý phi ngô nguyện, đế hương bất khả kỳ.
Hoài lương thần dĩ cô vãng, hoặc thực trượng nhi vân tỷ.
Đăng đông cao dĩ thư khiếu, lâm thanh lưu nhi phú thi.
Liêu thừa hoá dĩ quy tận, lạc phù thiên mệnh phục hề nghi ?
Dịch thơ ( Trần Trọng San )
 Về đi thôi hề, ruộng vườn sắp hoang vu, sao không về ?
Đã tự đem lòng cho hình sai khiến, sao còn một mình buồn bã, đau thương ?
Hiểu dĩ vãng không can nổi, biết tương lai có thể theo.
Chưa thực đi xa trên đường mê, thấy hôm nay phải còn hôm qua trái.
Thuyền phơi phới nhẹ đưa, gió hiu hiu thổi áo.
Hỏi khách chinh phu về con đường phía trước, giận ánh sáng ban mai còn mờ nhạt.
Rồi trông thấy nhà, vui tươi rong ruổi.
Tiểu đồng ra chào mừng, trẻ nhỏ đợi ngoài cổng.
Ra lối nhỏ đến vườn hoang, tùng cúc vẫn còn đây.
Dắt con vào nhà, có rượu đầy ly.
Cầm nậm bối tự chuốc, ngắm cây sân, mặt vui.
Dựa cửa sổ nam, lòng phóng khoáng, thấy nơi chật hẹp dễ an nhàn.
Ngày ngày dạo qua vườn rồi thành thú, cửa tuy có đặt nhưng thường đóng.
Chống cây gậy thơ thẩn nghỉ ngơi, thường ngẩng đầu trông ra phía xa.
Mây vô tâm bay ra hang núi, chim bay mỏi biết quay trở về.
Cảnh mờ mờ sắp vào trong bóng đêm, vỗ cây tùng lẻ loi lòng bồi hồi.
Về đi thôi hề, hãy đoạn tuyệt giao du.
Đời đã cùng ta lìa bỏ nhau, còn dùng lời suông hề cầu chi nữa ?
Ưa lời nói chứa chan tình cảm của người thân thích, vui với cây đàn, cuốn sách để khuây lo.
Nhà nông bảo ta mùa xuân đến, sắp có việc làm tại cánh đồng tây.
Hoặc đi chiếc xe giăng màn, hoặc chèo con thuyền lẻ loi.
Đã len lỏi tìm khe suối, lại gập ghềnh đi qua gò.
Cây hớn hở hướng đến màu tươi, suối êm đềm bắt đầu trôi chảy.
Ngợi khen cho muôn vật đặc thời, cảm khái đời ta xưa làm nay nghỉ.
Thôi hết rồi!
Gửi hình trong vũ trụ được bao lâu, sao không thả lòng mặc ý ở đi ?
Tại sao còn thắc mắc, muốn đi đâu ?
Giàu sang chẳng phải điều ta nguyện, chốn đế hương không thể ước ao.
Nghĩ buổi sáng đẹp trời một mình dạo chơi, hay dùng gậy làm cỏ vun mạ.
Lên bãi đông, ngâm nga thư sướng, đến dòng suối trong làm bài thơ.
Hãy thuận theo sự biến hoá của âm dương mà về chốn tận cùng,
vui mệnh trời, còn nghi ngờ chi ?
http://www.tuhai.com.vn/news/index.php?option=com_content&task=view&id=470&Itemid=88





Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire