vendredi 13 septembre 2013

TẢN MẠN VỀ CUNG TRẦM TƯỞNG Ky`4/4 cho't của tác giả Văn Nguyên Dưỡng.

Kính gửi quý anh chị bài viết về Cung Trầm Tưởng kỳ 4/4 của tác giả Văn Nguyên Dưỡng.
Gửi lại đây bài đã post trước đây.
Caroline Thanh Hương
  photo DSC_24781.jpg
Clic vào đường dẫn bên dưới để đọc bài.


TẢN MẠN VỀ CUNG TRẦM TƯỞNG (KỲ 1) của tác giả Văn Nguyên Dưỡng.

 TẢN MẠN VỀ CUNG TRẦM TƯỞNG (KỲ 1) của tác giả Văn Nguyên Dưỡng, pdf
 photo 131.jpg


  "TẢN MẠN VỀ CUNG TRẦM TƯỞNG của tác giả "VĂN NGUYÊN DƯỠNG  (KỲ 2/4).

 TẢN MẠN VỀ CUNG TRẦM TƯỞNG   VĂN NGUYÊN DƯỠNG   (KỲ 3/4)
 photo 130.jpg

TẢN MẠN VỀ CUNG TRẦM TƯỞNG Ky`4/4 cho't của tác giả Văn Nguyên Dưỡng.

TẢN MẠN VỀ CUNG TRẦM TƯỞNG Ky`4/4 cho't của tác giả Văn Nguyên Dưỡng pdf

 photo 129.jpg


với những vần thơ Cung Trầm Tưởng phổ nhạc
( Mùa Thu Paris /Mùa Thu Không Trở Lại /Tiễn Em /Kiếp Sau )

                                                                            
                                                                            
RedRose
 

LTS: Cuối năm, Toà soạn xin gởi đến quý độc giả một bài viết về Văn Học, Học Thuật, tác giả là Huynh Trưởng của chúng tôi, năm nay đã trên 80 tuổi, nhưng Ông vẫn còn tráng kiện và muốn đóng góp một chút gì“ cho nền Văn Học tại Hải Ngoại
Bài viết được chia làm bốn (4) kỳ. Xin mời quý độc giả thưởng lãm và theo dõi.

                     
TẢN MẠN VỀ CUNG TRẦM TƯỞNG
NHÀ THƠ LỚN CỦA NHÂN LOẠI
QUA “MỘT HÀNH TRÌNH THƠ” VÀ VĂN HỌC VIỆTNAM
                                                                                                                                              
VĂN NGUYÊN DƯỠNG

(KỲ 4/4)

... Sau cùng chúng tôi đã dạn dày hơn và đã chiến thắng tử thần. Nhưng Cung Trầm Tưởng đã vượt lên cao ngoài vòng cương toả của cảnh giới và thân phận một người tù chính trị. Trên những triền dốc vầu đó chúng tôi vật vã trong những ngày tháng đầu nhưng thời gian sau đó đã có thể lợi dụng buổi lao động chiều mà “du lãm” xa vùng chặt vầu đôi chút, rồi dần dần đi xa xa thêm, kể cả việc đi tìm thêm thứ thực phẩm tươi “cải thiện” –nói trắng ra là tự tìm thứ gì đó ăn thêm cho đỡ đói. Cơm tù chỉ là khoai sắn lát mốc meo”. Đói lắm. Ngược lại, CTT chắc đã làm khác hơn chúng tôi. Có thể ở những buổi chiều ông trở lên núi để nhìn lại phong quang đọng lại của con đường cõi chết và những dấu chân ngang của mình mà định lại thế đứng của mình trong cõi đất trời. Ông đã vượt qua tất cả mọi gian khồ, tủi nhục, nguy hiểm, thương tật, chết chóc trên những triền dốc vầu đó. Vượt xa, nên mới có thề viết nổi bài thơ “Biểu Tượng” ở trên --một tâm trạng mặt nổi ấp ủ những nỗi ngậm ngùi và những niềm uất hận không nguôi. Mặt trái của bài thơ trên có thề nhìn thấy trong bài thơ dưới đây.

NHƯ CÂY LAU CÚI BẠC ĐẦU

Mấy năm đày xứ chon von,
Sương lam khí chướng xói mòn ruột gan.
Đá tênh hênh lắm mưa ngàn,
Đã lao đao lắm suối tràn khe sâu.
Sắt se lau cúi bạc đầu,
Lom khom núi cáng đáng vầu trên lưng.
Nai kêu đau nức nở rừng,
Lá lao xao rụng, mây lừng khừng trôi.
Năm chung tháng tận đây rồi!
Tết chi Tết vẫn chưa hồi sinh xuân.
Thương con tim xót trăm lần,
Nhớ em lòng đứt muôn phần lẻ loi.
Tết về tìm mảnh gương soi,
Nhà tan nước mất, thiệt thòi là ta.
Chút cơm khê nguội ngắt và,
Nuốt cho tận nghĩa đậm đà xót thương.
Và đi cho tới cùng đường
Của heo hút xứ khôn lường khổ đau.
Thoắt đi tóc đã phai màu
Như nghìn tang trắng quấn đầu vi lô.
Chiều tê sương sập nấm mồ
Vùi chôn chú bé mơ hồ năm xưa.
   
            Bài thơ này (MHTT, trang 156) CTT làm ở Hoàng Liên Sơn, miền Bắc, năm 1978, hơn hai năm sau khi bị chuyển từ Long Giao miền Nam ra thụ đày ở đó và đã  trải mấy độ mùa điêu đứng sống chết trên các triền dốc vầu. Ông viết bài này chỉ vài tháng trước bài “Biểu Tượng”. Thời gian cách nhau ngắn ngủi nhưng CTT đã vượt  qua định mệnh, từ một giác đấu bất đắc dĩ –buồn thảm và tủi nhục-- trở thành một trượng phu kiên cường. Hơn thế nữa, ông đã nung nấu tư tưởng và uyên hoá thi ngôn đến độ hung vàng trên các triền dốc vầu đó, biến các triền này thành những thứ “triền” khác trong thơ để trở thành một đại thi hào với nghĩa chín chắn của từ này, mặc dù trước đó ông đã là một nhà thơ lãng mạn nổi tiếng. Nhưng lúc đó chúng tôi chưa nhìn thấy CTT là một đại thi hào. Bài thơ trên đây mang đúng tâm trạng của nhà thơ “còn chưa lớn” mà chính CTT tự gọi là “chú bé mơ hồ”. Sự thực thì “chú bé mơ hồ” đã thành một Phù Đổng Thiên Vương sau khi giặc Hồ tràn vào miền Nam và đưa cả một lớp người trí thức miền Nam vào cảnh lao lý tử sinh như vậy. Nếu ông không là một phù đổng của trận mạc khói lửa thì ông cũng là một phù đổng --của nền thi ca  Việt Nam hiện đại-- đánh một trận giặc lớn lao của một trăm năm vừa qua khi người ta dùng quốc ngữ mà viết văn chương: đó là trận giặc “mặc cảm tự thị” của những ai đó chưa thực sự muốn cho chúng ta lớn trên phương diện tư tưởng và ngôn ngữ thơ, nói riêng, và nền văn học Việt Nam nói chung. Đó cũng là trận đánh lớn lao chống thứ “lương tri thế tận” của các tay trùm chính trị, quân sự và văn học nô dịch CSVN.

             Xin đọc kỹ MHTT của CTT, chỉ riêng một câu thơ “quỷ hận rống ven đô” cũng là một nhóm từ vô cùng dữ dội gấp nhiều lần so với nhóm từ “những tên khổng lồ không tim” --đã từng được một nhà văn Nhân Văn & Gia Phẩm dùng-- để chỉ những người CSVN. Khi viết về “bộ đội hung hãn của CSVN tấn công dữ dội ven đô Sài-Gòn, Tết Mậu Thân, 1968” không câu thơ nào đẹp hơn câu thơ của CTT. Xin đọc kỹ sẽ thấy nhóm chữ “quỷ hận rống” là nhóm chữ của thơ, rất thơ, dù thanh âm mạnh bạo nhưng không phải loại chữ nào đó kêu gọi sư giết chóc của những văn nô miền Bắc như Tố Hữu, Chế Lan Viên, kể cả Xuân Diệu hay một nhóm từ nào đó của tâm lý chiến miền Nam, mà là một ngữ sự riêng của CTT --làm thơ với thứ chữ của thơ, chọn lọc, chính xác-- để chỉ một “loại vật” khủng khiếp với tiếng rống dã man hơn loàì thú rừng dữ tợn hung hãn nhất --những người CSVN-- đến mức đó là tinh luyện, là tuyệt vời.

             Nhờ CTT mà chúng tôi chợt hiểu ra rằng những triền núi với con đường mòn “dốc vầu” vô hình chung đã trở thành đại lộ biến chúng tôi --những tù nhân chính trị tầm thường-- bước đi và để trở thành những con người bất trị, vững vàng hơn về tinh thần và lớn mạnh hơn về tri thức. Đó cũng là con đường đưa chúng tôi đi tìm chân giá trị của cuộc sống và biết sống hữu ích hơn cho bản thân, gia đình và đất nước..          

             Riêng CTT, các triền dốc vầu đó còn có thể là con đường ngắn nhất đưa ông vào lịch sử bất diệt của riêng ông. Trong mùa đông rét buốt, trên các triền dốc vầu này, trời gần, mây lộng, gió chuyển, rừng chao, hay cả trong cái hoang vắng tịch mịch của đồi cao, lũng thấp chúng tôi chỉ nhìn thấy hay nghe được sự hiển nhiên hữu hình, hữu sắc, hữu thanh của núi rừng và nhiều khi cảm thấy cả sự sợ sệt trước cảnh thiên nhiên huyền hoặc ảm đạm đó và nỗi cô đơn của mình, nhưng nhà thơ của chúng ta khác hơn. Ông ta đã chẳng những nắm bắt được cái quán tính vật lý của khoa học, mà còn nắm bắt được cái quán tính của thời gian và không gian vô lượng của triết học Đông, Tây. Ông đem những thứ đó vào văn học làm rực rỡ thi ca hơn bất cứ một thi hào hiện đại nào. CTT đã lắm lần, từ các triền núi từ miền Bắc đến miền Nam, chỉ trong một sát-na của thiên thu vô tận, bắt được cái tinh thể --hay cái hồn không thấy được-- của núi rừng, trời đất, rồi viết thành tấu khúc thơ với một ngữ sự lộng lẫy:
                                   Hãy nhìn Núi lung linh bất diệt
                                   Tóc nửa đời ngời chói sương mai.
                                    Rễ bắt sâu đáy tầng địa chất,
                                    Nên nắng mưa Núi cũng chẳng sờn.

                                    Hãy lắng nghe bằng lăng dìu dặt,
                                    Suối vỗ về tình tự ngân trong,
                                    Sáo trên tre hót nhảy vào lòng
                                    Bài mi thứ mang mang trừu tượng.
       
                                    Mỗi sớm trong nhà chung tâm tưởng,
                                    Anh quỳ làm lễ hỏi lòng em.
                                    Ánh sao xanh, nước thánh rẩy môi mềm,
                                    Tàn vũ trụ bay trong trời mắt thẫm.

 Các khổ thơ trên trích trong bài thơ “Núi và Suối, Một Huyền Sử” (trang 444, MHTT) là một tầm nhìn xoáy sâu vào cái hữu thức ẩn chìm như “rễ của núi” bắt sâu trong lòng đất mà chúng ta thường không nhìn thấy hay nghĩ tới. Thử hỏi làm sao CTT thấy và nghĩ tới? Đồng thời cả khổ thơ bốn câu này lại ấp ủ một thứ tình cảm thiêng liêng siêu thức là tình yêu núi sông mà cũng chỉ riêng những ai nhìn được chiều sâu tư tưởng thơ của CTT mới nhìn thấy chiều sâu của thi ngôn thể hiện một biến tự độc đáo và siêu thực của ông. Rễ của núi Mây Tào, rễ của dãy Trường Sơn, rễ của ngọn Hồng Lĩnh hay rễ của rặng Hoàng Liên Sơn đều bắt sâu vào các tầng địa chất của Đất Mẹ; sư gợi ý về tấm tình cao vọi ấy được thể hiện ngay trong tựa của bài thơ. Còn câu trích dẫn cuối trên đây “tàn vũ trụ bay trong trời mắt thẫm” thật đẹp. “Trời mắt thẫm”, theo tôi hiểu, là vòm trời rộng bao la, là không gian đầy màu sắc, nhưng “tàn vũ trụ” luân lưu trong vòm trời đó thì chỉ riêng CTT mới nhìn thấy. Lạ thực. Tầm nhìn của một đại thi hào là xuyên suốt, siêu việt như vậy sao? Nhóm từ “tàn vũ trụ” là những thứ gì đây? Nhóm từ này không định nghĩa được. Ngược lại có thể định nghĩa là những vụn vỡ của một hình thành tuyệt đại vĩ mô mà theo khoa học đó là những vụn vỡ của một “Big Bang” tạo nên vũ trụ và nói theo tín ngưỡng đó là “Sự Sáng Thế” của Đấng Tạo Hoá --Đức Chúa Trời. Với thuyết nào đi nữa “tàn vũ trụ” có thể là thứ hữu mục quan chiêm cũng có thể là thứ hữu thể vô mục như các hành tinh chết, mảnh vụn của một hành tinh đã tan vỡ hay hạt nguyên tử luân lưu trong vũ trụ. Nó có thể là tinh thể tồn tại hay tro bụi của không gian vô lượng, vô thời gian. Nói rõ hơn là một chuyển động của những vật thể hữu quan hay vô mục luân lưu trong vũ trụ miên viễn –a motion of a visible or invisible natural object has permanently circulated in space. Bài thơ này dài 30 khổ thơ bảy chữ và hai câu thừa gồm tất cả 92 câu như một tấu khúc đột biến tuyệt vời của âm giai từ một gam tuyệt thấp đến một gam tuyệt cao như kết hợp của một hình nhi hạ [rễ của núi, tầng địa chất] cực thấp với một hình nhi thượng cực cao [Núi; vũ trụ”, trời mắt thẫm] như ở khổ thơ thứ ba khi hai người yêu đang ở trong “nhà chung tâm tưởng” thi nhân bỗng đổi gam cho tình yêu vút vào không gian với tàn vũ trụ bay trong trời mắt thẫm làm cho người đọc nghĩ đến và hiểu rằng “tàn vũ trụ” cũng là một sót lại của một hình thành đẹp đẽ của một tấm tình –một tình yêu với vô vàn định nghĩa-- trong dĩ vãng từ trước đến nay không thi nhân nào nói, cũng không có người đã nhìn thấy hay nghĩ đến cái cực nhỏ ở trong một vũ trụ thơ cực lớn như vậy. Một motion của vật thể khoa học hay sự rung động tâm thức triết học trong tầm mắt CTT nhìn thấy đã trở thành những dòng thơ tuyệt mỹ. Bài thơ này còn rất nhiều khổ thơ đẹp nữa, như:

                        Hiện hữu thai sinh từ ký ức:
                        Môi dường hư cấu ở trong tranh,
                        Mi như đã vẽ trước sinh thành,
                        Mẫu nữ qua em thành hiện thể.
                       
                        Một khổ thơ nữa:

                        Rồi sớm đến thơm nguyên, siêu thực,
                        Đội nâng trời, bất chấp thời gian,
Cao, xanh hơn, chất ngất nồng nàn,
Núi mẫn đạt hồn người ngát trẻ.

                                    Và:

                                    Sự tích truyền lan qua thế hệ:
                                    “Nàng là Thần Suối, bạn bầy chim;
                                    Suối reo con cắt cũng gù mềm;
Trời mới lại như bảy ngày Sáng Thế.

 Một khổ thơ khác chứng tỏ được sự giải trình về một thương đau sót lại của một hình thành thương yêu trong dĩ vãng như những “tàn vũ trụ” trong sự hình thành vĩ mô của khoa học hay huyền thoại:

                        Rồi tất yếu chia ly tan tác,
                        Suối buồn mi ướt lệ mùa thu,
                        Mang thai bên gối chiếc lao tù,
                        Tình Núi nuôi trong bầu khắc khoải.

Từ tâm trạng thương nhớ một người yêu với những nét diễm kiều của một giai nhân nào đó trong quá khứ, CTT đã nâng nàng lên thành một “Nữ Thần”, ít nhất là cho riêng mình, mặc dù Núi Mây Tào cũng có huyền thoại “Thần Suối”. Tấu khúc tuyệt vời này được CTT viết  sau khi bị đưa từ các trại tù vùng thượng du tây bắc Bắc Việt về các trại Z-30 (A, B, C, D) gần vùng Núi Mây Tào thuộc tỉnh Bình Tuy, miền Nam. Tuy nhiên, ngữ sự siêu hình của ông đã được hoài thai trên các triền dốc vầu Hoàng Liên Sơn mà tôi nói ở trên. Các bài thơ làm trong thời gian những năm còn ở trong trại tù vùng núi cao nầy được CTT đưa vào một tập riêng --Tập Bốn: “Những Dấu Chân Ngang Trên Một Triền Phiếm Định”.Tập thơ nầy mang tên là “Một Triền Phiếm Định” nhưng độc giả còn đọc thấy những triền khác nữa trong tập thơ đó, như Triền Tư Lự”, “Triền Ái Dấu”, “Triền Ngữ Sự”, “Triền Mộng Thức” và v.v... Nơi nào cũng mang dấu chân ngang của ông. Trên các triền này, CTT viết những bài thơ đẹp mang chứng tích của những hiện thể vô hình luân lưu trong vũ trụ hay cái rung động thương đau sót lại của một quá vãng đã hình thành với những khối tình bất diệt thoáng chốc đã tan biến. Cái thự̣c thể vô hình, cái chuyển thái siêu vi của cảnh vật, và cái rung chuyển thầm lặng của lòng người –cũng là invisible motion-- hoà thành những tấu khúc với âm thanh lạ, nhưng đẹp. Xin đọc:

NHỮNG DẤU CHÂN NGANG TRÊN MỘT
 TRIỀN TĨNH LỰ

                        Gửi lại bờ dấu chân ngang,
Mắt chong âm bản ngỡ ngàng hoàng hôn.
Gửi heo may phấn màu hồn
Rắc trong u tịch thoáng bồn chồn đen.
Gửi sông hồ không thân quen
Lăn tăn luyến nhớ đan xen hãi hùng.
Gửi sương giăng tang mông lung
Một sao hôm khóc thẹn thùng mù khơi.
Gửi lao đao rớt một lời
Con chim cô thốt bão trời cuồng phong.
Gửi thu vần vần long đong,
Nhấp nhô bằng trắc trên dòng thơ xanh.
Gửi môi săn cổ tự lành
Nhắn lên cho bớt tròng trành cô phiêu.
Gửi lai do có một điều
Đớn đau rồi cũng hoá trừu tượng bay.
Gửi phong thanh nốt điệu này
Gói trong dấu lặng đủ đầy duyên cơ.
                       
Bài nầy (MHTT, trang 369) là một trong các bài thơ đầu của tập thơ “Những Dấu Chân Ngang Trên Một Triền Phiếm Định”. Riêng, trên “triền tĩnh lự” này CTT đã nhìn thấy huyền cơ của cõi trời và kiếp người cũng như đã tìm thấy được mặt sau của sự rung chuyển trong vũ trụ “gửi sương giăng tang mông lung” tuy rằng “trong dấu lặng” mà huyền cơ của đất trời đã được gói trọn trong tầm nhìn của CTT: một motion vô hình và mầu nhiệm hiện hữu trong trời đất và trong tâm thức của ông. Ông cũng thấy được cái nghịch lý của tạo vật:

                                    NGHỊCH

                        Đổ trọn sức xuân xanh
                        Cho thu vàng chín mọng.

                        Kết ngọt tặng vô ơn
                        Mật đáy lòng đau thắt
                        Chua dào dạt.

                        Bàng vùng lên đỏ ngát
                        Chết trước lúc tàn đông.
                        Đêm hắt đen diệu ảo
                        Cho long lanh những diện mạo.

                        Dồn ấm ran sót chót
                        Làm nắng hạnh khuyên quanh.
                        Nỗi niềm tây giá lạnh
                        Kiệt kiệt vàng hôn ảnh.

                        Ngậm hoà tan đối lập
                        Vào uyên áo huyền vi.
                        Kề màu thiêng liêng rêu cố xanh rì...

Bài thơ trên đây (MHHT, trang 370) mang diện mạo của chúng tôi --những tù nhân chính trị-- chân cứng đá cũng mềm. Chúng tôi mò mẫm trên con đường mòn dốc vầu tối tăm như đi qua vùng đêm đen mới có thể trở thành những con người lớn hơn, long lanh, như giải trình thơ của CTT: “đêm hắt đen diệu ảo cho long lanh những diện mạo.” Chiếc áo tù có sự huyền vi của nó. Ngậm câm, chịu đựng, kể cả sự nhận chịu cái chết mà lòng không thay đổi. Diện mạo của tác giả dĩ nhiên có cung cách riêng, thật lớn mà tôi từng nói ở trên và sẽ nói thêm.  Xin đọc các dòng thơ này:

                                    Đi vào đường ngắn nhất,
                                    Băng băng ánh bôn tinh.
                                    Một lát điên thần tình:
                                    Ô kìa! phản vật chất.

                                    Rơi nơi không là đất,
                                    Nhẹ tếch và vô can,
                                    Buông quán tính trần gian,
                                    Tháo đồ dằn lịch sử.

                                    Bằng thuần khiết tạo sinh
                                    Như Đức Mẹ Đồng Trinh.

            Các đoạn thơ trên trích trong bài thơ “Đường Vào Trong Veo” (MHTT, trang 382). Hai câu thơ cuối của đoạn trích dẫn trên, tô đậm (những chữ tô đậm trong các đoạn thơ trích hay các chỗ khác cũng do người viết bài này tô để trình bày rõ hơn một quan điểm hay ý nghĩ nào đó về CTT-MHTT hoặc một vấn đề đáng lưu ý khác), ai đọc cũng thấy rõ CTT viết về một thuần khiết tạo sinh mà Đức Mẹ ĐồngTrinh Maria “thụ nhiệm” như một sứ mệnh huyền vi được giao phó bởi Đấng Tạo Hoá tạo một huyền cơ --thuần khiết hoài thai-- đưa đến sự “Giáng Sinh” của Đấng Cứu Thế Jésus Christ. Đây là huyền vi thứ hai sau huyền vi thứ nhất là bảy ngày “Sáng Thế” của Đấng Tạo Hoá, hay Đức Chúa Trời, theo niềm tin Cơ Đốc Giáo --Catholicism.  [Một huyền vi khác của Đấng Cứu Thế là sự “Phục sinh”.]

              Nhưng hình như CTT nhìn thấy, ngoài huyền cơ thụ nhiệm trên, một cõi thiên đường nào đó có một sự “Thuần Khiết Tạo Sinh” không theo nguyên lý vật chất mà “phản vật chất”: một cõi “rơi nơi không là đất, nhẹ tếch và vô can, buông quán tính trần gian, tháo đồ dằn lịch sử”. Phải chăng cõi đó là cõi không bị gắn chặt vào quán tính thời gian và không gian, vô can, vô nhiễm, hữu thể mà vô thể hay ngược lại, hữu tạo sinh mà bất huỷ, bất diệt, chỉ có hoá thân; phiêu diêu, phiêu hốt. Sự thực ông  đã nhìn thấy hay ông đang mơ ước và đang đi tìm nguồn tạo sinh thuần khiết đó?

 Trước khi nói tiếp về sự lớn lao diệu kỳ của thơ CTT, thử nghĩ nên nói qua về sự “sinh và diệt”, sự “tái sinh” và sự “hoá sinh” của vạn vật trong vũ trụ không phản vật chất theo quan niệm tạo thành và huỷ diệt của triết học phương Đông, Phật và Lão: “hữu sinh, hữu diệt”. Trong vũ trụ là âm dương luân lưu và trong mọi vật thể là sự tàng trữ các “hạt nhân” trái nghịch va chạm, xung khắc nhau, tạo thành sự sinh tồn và huỷ diệt: đó là nguyên lực khai sáng lẫn đối lực tàn phá –force of creation and its opposite, force of destruction. Phật cho rằng mọi vật, mọi loài hiện hữu được sinh ra từ bốn cửa, gọi là “tứ sinh” gồm: thai sinh, noãn sinh, thấp sinh và hoá sinh. Trời đất gồm sáu cõi, gọi là “lục đạo”: thiên, thần, nhân, địa ngục, ngạc quỷ và súc sinh. Trong sáu cõi này chỉ có hai cõi nhìn thấy được là nhân [con người] và súc sinh [muông thú]. Nghiệp căn “luân hồi” --hay sự “tái sinh” trong sáu cõi chi phối bởi luật “nhân quả”.Trong khi đó thì Lão cho rằng “vạn vật đồng nhất thể”, chết ở kiếp này thì sẽ “hoá sinh” thành một thứ vật chất khác, bùn đất, cỏ cây, côn trùng và v.v... Theo Lão “cõi sống hữu thường” như vậy trở thành cõi tạm hữu hình trong hoá thân vô vi, vô lượng, vô thường, từ một nhất thể sinh ra âm dương quyện nhau luân chuyển tạo thành cội nguồn của vũ trụ [nhất thể, lưỡng nghi, tứ tượng, bát quái và v.v... [Kinh Dịch --về sự sáng lập và luân lưu vũ trụ].

              Có lẽ CTT hợp với Lão Trang hơn nên chúng ta thấy ông đang đi tìm siêu thực trong cõi hữu hình như ngày xưa LãoTử đã lang bạt tìm cõi Tiên nơi rừng sâu, núi thẳm. Tuy nhiên CTT còn tiến lên một mức cao hơn. Tuy chấp nhận thai sinh --nhưng không hi vọng tái sinh theo Phật hay “đường” hoá sinh theo Lão-- CTT nói đến một sự kiến tạo hay sáng tạo siêu hình khác ở một bậc khác hơn là:“Thuần Khiết Tạo Sinh” dựa trên sự sáng tạo huyền vi Cơ Đốc Giáo. Không thể khẳng định nhưng có thể hiểu đó là niềm tin của một “tạo sinh mầu nhiệm”. Và đó là phạm trù duy linh thuần khiết, một “thụ nhiệm”mới tạo sinh một thiên đường mới trong sáng hơn, thanh khiết hơn, hoà lương hơn, khác hơn cõi tạo hiện hữu hiện nay đầy dẫy giông tố bão bùng, chiến tranh chết chóc, tàn phá và đau khổ triền miên...

               Không rõ cõi tạo sinh này của CTT có khác gì hơn cõi vô hình chuyển động miên viễn mà “nhẹ tếch” như một “permanent motion” luân lưu trong vũ trụ là nguyên uỷ tạo sinh của vạn vật hay không? Hình như CTT nắm bắt được cái huyền lý nào khác ngoài tri thức của khoa học và triết học, nên trước đây trong một bức thơ viết cho tôi, Cung Trầm Tưởng nói: “Tầm hiểu biết của khoa học và triết học đã tỏ ra bất cập trước sự thách thức ghê gớm của những vấn nạn siêu hình, nên cần sự tiếp tay của những cơn giật mình siêu hình phi thường và hữu ích của trí tưởng thi nhân dám phá chấp, giũ bỏ những giá trị truyền thống đóng cặn, nằm ì trong thời gian để phiêu hốt đến những vùng tân biên unground, nơi không là đất, không có bất cứ điểm tựa hay hệ quy chiếu nào khác hơn cái linh tri, linh thị, linh cảm của lãng thi nhân. Nơi của sự cô đơn tuyệt đối. Ngọn nguồn của sáng tạo.”

               Có lẽ Cung Trầm Tưởng thấy cõi đó, muốn du nhập vào, trước tiên bằng ngữ sự thi ca “đỉnh nguồn tinh tuyền” --source éthérée, ethereal fountain.” Nghệ thuật sáng tạo “nghệ thuật” của ông có triết lý riêng và nhân sinh quan riêng, cũng như “thuần khiết tạo sinh” là thứ quan điểm duy linh riêng của ông. Cái nghệ thuật đó là nắm bắt và định hình ngôn ngữ cho một cái lý siêu nhiên, siêu hình, siêu thực --là mặt ẩn chìm của tạo vật-- chỉ có những đầu óc phi thường và sự tưởng tượng vô cùng phong phú của một thi triết nhân mới bóc trần cái tạo thể để thay bằng tinh thể thuần khiết của mọi vật trong vũ trụ. CTT làm được điều này như chính ông viết: “Làm được hiểu ở đây theo nghĩa tích cực là thay đổi một nguyên trạng hay tạo ra cái gì mới” (trong “Lời Tựa” của MHTT, trang 33).Từ đó ông phiêu hốt vào cõi luân lưu “nhẹ tếch và vô can” không còn hệ luỵ mà vào cõi siêu hình trong thi ca.
  
  Không biết tôi đã chứng minh được tầm thi ca vượt thời gian không gian của CTT hay chưa? Chưa đâu, vì thơ CTT còn quá nhiều điều để nói vượt ngoài tầm hiểu biết của tôi. Trên các triền của con đường dốc vầu này CTT đã làm rất nhiều bài thơ lớn đẹp vô cùng như những tấu khúc mới, lạ, phá vỡ cái du dương của âm giai như Derrida nói, như những bức tranh lập thể của Picasso... không thể trong thoáng chốc  đọc mà hiểu, nghe mà cảm, hay nhìn mà thấy ngay cái diệu ảo tuyệt vời ẩn chìm của những tác phẩm nghệ thuật của các bộ môn nghệ thuật này. Dĩ nhiên trong toàn tập MHTT có những bài thơ khó hiểu, khó thưởng thức. Thiển nghĩ, một cá nhân dù lỗi lạc thế nào đi nữa cũng không thể đọc thấy hết, hay nghiên cứu xuyên suốt và phân tích thấu đáo toàn bộ ngữ sự, tư tưởng và triết lý trong thơ của CTT. Cần một nhóm học giả hàn lâm mới làm nổi các công việc này. Cũng xin lưu ý, ở đây tôi viết về CTT chỉ là một bài tản mạn, không phải là một bài phê bình hội tụ một hình thức cần và đủ với một nội dung lý luận được trình bày khoa học, tuần tự, lớp lang của một khuôn mẫu trong một nghiệm xét chặt chẽ và nghiêm cẩn của sự phê bình văn học mang tính hàn lâm bác học. Nếu tôi viết về thi ca CTT mà nói lan đến nền thi ca trong văn học Việt Nam tất sẽ không tránh được vì cái tính tản mạn vòng vo của nó. Nghĩ đến đâu thì viết đến đó miễn sao thấu lý đạt tình là đủ rồi. Lý do cũng bởi tư tưởng thơ của CTT lớn quá; cái triết lý sáng tạo, sinh tạo và siêu tạo vũ trụ và con người của CTT độc đáo và lạ lẫm quá; và, ngữ sự rất đặc thù dù rất thơ, rất đẹp, mới mẻ nhưng cũng rất nhiêu khê.

               Nhân tiện, nói đến đây, chúng tôi xin góp ý về một biệt ngữ --a phoneme-- của CTT trên các “triền” này, ít nhất có thể giúp các bạn yêu thơ trẻ hiểu nhiều bài thơ khác của Cung. Đó là tĩnh từ “phiếm định”. Biệt ngữ nầy mới đọc rất khó hiểu. Hãy diễn giải như thế nầy. Từ trước trong ngôn ngữ viết hay nói của Việt ngữ có một tĩnh từ, hay hình dung từ, dễ hiểu và thông dụng là “khẳng định”. Tĩnh từ này đôi khi cũng được dùng như một động từ như trong câu sau đây: “Chúng tôi khẳng định ngôn ngữ thi ca CTT khác hẳn những nhà thơ đồng thời”. Ở một câu khác, chữ nầy là tĩnh từ như trong câu: “Cho rằng ‘ngữ sự’ thi ca  CTT khác hẳn mọi thi nhân đồng thời là điều khẳng định.” Tĩnh từ ngược lại của khẳng định là “bất định”, và cao hơn một bậc là “vô định”. Hai chữ nầy không thấy ai dùng làm động từ. Do đó phải coi “khẳng định” phản nghĩa của hai tĩnh từ trên là một tĩnh từ. Cung Trầm Tưởng không thích dùng các tĩnh từ “bất định” hay “vô định” mà dùng chữ “phiếm định” để chỉ sự ngược lại tĩnh từ khẳng định. Vô định và bất định là thứ triết lý buông xuôi cho định mệnh, khẳng định là triết lý của sự hiện hữu tuyệt đối bất di dịch, đáng lẽ không thể có trong ngôn ngữ vì thực ra khẳng định không hề có bất cứ ở đâu trong vũ trụ ngoài tiếng nói và hành động của những tên độc tài khát máu: một Hitler, một Lenin, một Staline, một  MaoTrạch Đông, hay một Hồ Chí Minh.  

              CTT dùng chữ “phiếm định” để chỉ “thứ-không-hẳn-là-nó”-- của bất cứ vật thể hữu hình hay một vi mô vô mục nào –[nhỏ nhất như một nguyên tử và các phản hạt của nó --neutron and its antimatter: antineutron, chưa kể những hạt và phản hạt khác của electron là antielectron, của proton là antiproton; tất cả các hạt và phản hạt vi mô này một ngày nào biến thái, chuyển thể, khi luân lưu có thể kết hợp hay xung khắc nhau có thể làm nổ tung vũ trụ hiện hữu gây nên một Big-Bang mới để hình thành một vũ trụ vĩ mô mới] và tất cả những thứ đó đều có thể nắm bắt được. Tức là, đối với ông không có thứ vật thể nào là hiện thực mà chính là cái nó giấu –la chose est ce qu’elle cache-- cái không hiện diện này mới chính là cái hồn của nó hay cái phần vô thể kết tinh bằng tinh tuý ẩn chìm trong nó. Ẩn chìm và hằng sống luân lưu trong vũ trụ với những quỹ đạo khác nhau. Bóc cái vỏ ngoài bằng đôi mắt, sự tưởng tượng và cảm tính thụ mẫn siêu thức mới cỏ thề nhìn ra cái motion,--cái luân lưu-- của tinh thể, tinh tuý của vạn vật-- là những gì mà một nghệ sĩ tài hoa “có thề nắm bắt được” rồi “định hình thứ hồn ấy vào một ngôn ngữ thơ, một tấu khúc, một bức tranh, một sáng tạo nghệ thuật mà “một trăm năm sau, khi kẻ lạ ngắm nó, nó sẽ chuyển động trở lại vì nó là sự sống.” như William Faulkner nói [“The aim of every artist is to arrest motion, which is life, by artificial means and hold it fixed, so that a hundred years later, when a stranger looks at it, it moves again since it is life.” [MHTT, trang 29].

Sau khi ra khỏi các trại tù CSVN, tôi nghĩ rằng CTT đang đi trên con đường tiếp tục bắt cái luân lưu của vạn vật mà ông đã luyện nhãn, luyện thức và luyện ngôn  từ các triền phiếm định của những dốc vầu Hoàng Liên Sơn, chẳng những định hình được chúng trong thi ca mà còn muốn hoà nhập vào các thứ ấy như một phục sinh hay một hoá sinh, siêu của siêu hình. Ông còn muốn bay xa hơn nữa như một thiên sứ thơ, mang du thi vào cõi vô tận miên viễn, dựng cho mình một thiên đường mới “thuần khiết tạo sinh” với ngữ sự lạ lùng nhưng mới mẻ, mang âm điệu tuyệt vời và đầy sức sống mãnh liệt theo cái triết lý vượt lên vượt lên mãi để vào cõi bất diệt của ông.

Nếu đúng như vậy, tiếng thơ từ cõi thiên du miên viễn ấy sẽ không còn là “ngữ sự” của thi ca mà là tiếng khải huyền siêu thanh vọng lại của một Cung-Thơ thiên sứ không dễ cho nhà tân Tử Kỳ của thời đại này tìm được một Bá Nha tri âm. Tất nhiên CTT sẽ phủ nhận một anh Tử Kỳ vô tích sự, vì ông là một nhà thơ. Hơn nữa, tiếng thơ huyền ảo có sức truyền cảm sâu thẳm và miên viễn hơn tiếng nhạc dù là những khúc nghê thường đi nữa. Nhạc có thể tái tạo âm thanh của thiên nhiên mà không thể tái tạo âm thanh của tâm hồn. Thử hỏi âm thanh của tâm hồn là gì? Phải chăng là tiếng run rẩy siêu thanh? Và đó là thơ. Thơ đến mức siêu thanh một lần khởi phát, sẽ mãi còn văng vẳng trong tai nhân loại yêu thơ; mãi mãi. Và, nếu thơ được coi là một rung động siêu thanh của tâm hồn thi nhân thì thơ là đỉnh nguồn của nhân loại vì sự rung động là một “motion” siêu thức nào khác gì “motion” dù là của một vi thể hay sự giao thoa của âm dương trong vũ trụ, không thể tự nhiên mà có. Phải do một ĐấngTạo Hoá dựng nên. Và, phải chăng tạo hoá, người, và thơ chỉ là một --nhất thể, nhất nguyên-- mà Lão Trang nói? Phải chăng thơ là huyền vi Levi-Strauss đã nói? Người ta đang đi tìm chân lý. Phải chăng CTT cũng đang đi tìm... một thiên đường “thuần khiết tạo sinh” mà thực chất là đi tìm quê hương của thơ?

CTT tự nhận đang đi tìm một thiên đường mới và đã ngậm ngùi đánh mất thiên đường cũ. Thôi xin cứ biết như vậy cho đến khi có một phản biện nào đó sau nầy. Hãy chấp nhận một khải huyền của một Cung-Thơ hiện nay.

Trên tiến trình đó của Cung Trầm Tưởng, người yêu thơ không thể quên bài thơ khởi đầu các hành trình phục sinh và khải huyền của Cung. Bài thơ siêu thực này là một điển tụ, nếu không kể những bài phong phú khác tản mạn trong CTT-MTTT:  

                                  MỘT CHUYẾN HẢI HÀNH

                                    Người sau cơn địa chấn
Tìm về trái đất hoang.
Ngẩng xem trời lốc bụi
Tôi quên lối thiên đàng.

Lưới xanh dù lớn mắt,
Ý nào thoát được đây!
Tôi giong con tàu biển
Đi xuyên áng mịt mù
Với cô đơn cờ suý
Treo cao đỉnh buồn phiền.

Tàu đi không la bàn,
Âu lo làm viễn kính,
Tôi soi tôi-cùng-thẳm,
Thấy nghìn trùng hư vô.

Vừa cầm lái vừa xúc than,
Tôi cùng tôi-hành khách
Nửa đêm ngồi đối thoại
Bằng tiếng lời lặng im.

Sớm mai khi ngủ dậy,
Muối nồng trái tim căng,
Cầm tiêu tôi phiêu hốt
Thổi gọi bầy hải nga.

Mây bay trời xanh biếc,
Trên lưng sóng bạc ngời
Thảnh thơi tàu rẽ lái
Cập bờ đảo hoang vu.

Nằm phơi thân phiến đá,
Phập phồng thở nắng mưa,
Sương trinh làm dưỡng cốc,
Tôi hoá gốc cây rừng.

Quanh tôi đời bầu bạn,
Mú gấc ửng vây cam,
Ốc bồ quân yếm thắm,
Rùa bông vân hồng thạch
Phơi huyết phách san hô.

Khí lang thang vạn đại,
Giờ nguội tụ lao xao.
Mưa tuôn liền thế kỷ,
Đá rữa thành phù sa.

Mùa xuân tôi nảy lộc,
Môi bung đoá anh đào,
Ủ ươm mình lá nõn
Phất nên lên thơ ca.

Đầu tôi non búp huệ,
Uyên ương hót gọi đàn,
Cỏ kim thành mái tóc
Ấm thịt da thơm lừng.

Nghìn sau còn bận rộn
Mầm mộng cấy trồng tôi
Sần sùi da trái đất
Phổng pháp hồn thanh miêu.

Thanh miêu CTT ghi chú là mạ xanh. Những biệt ngữ (phonemes) như vậy có quá nhiều trong tập thơ CTT-MHTT. Sức gợi cảm của thi ngữ và thi ý mới mẻ trong những đặc phẩm (mythemes) viết hai tay và thời gian sau đó của Cung càng đọc càng thấy thấm và đáng được chú trọng. Triết lý trong tư tưởng thơ của ông thực lớn lao, hướng thượng vươn lên mãi để tiến xa hơn và cao hơn không phải là thứ triết lý tiêu cực, buông xuôi cho định mệnh, cho số phận, nổi chìm mặc cho sóng nước: “Thân như chiếc bách giữa dòng.” Xin suy nghĩ về hai thái cực này mặc dù cái tuyệt vời của thi ca vẫn phải là thứ thi ngôn đẹp đẽ nhất.  Chỉ nói riêng về phương diện này thì cái ngữ sự mới, lạ lẫm, nhưng lộng lẫy của thi ca CTT cũng vượt trội hơn gấp nhiều lần. Còn triết lý thì cách biệt nhau xa lắm giữa CTT và tác giả câu thơ trên. Một nghìn trùng xa cách.

 Cái tư tưởng rộng lớn, cái triết lý vượt cao “thuần khiết tạo sinh”, siêu của siêu thực, sự nắm bắt và định hình những tinh thể trong vắt hay ẩn chìm trong vũ trụ được thể hiện trong nhiều bài thơ ở các tập thơ khác ngoài Tập IV, nhưng những bài đặc sắc nhất nằm trong tập sau cùng là Tập VII. Trong tập này, chúng tôi còn ghi nhận ngay được đến những “Khối Tình” lớn hay nhỏ của CTT –nhất là hình ảnh những nàng thơ của ông đã được “tinh ròng hoá”, hay nói cách khác là “thanh khiết hoá” như những thánh nữ, thần nữ, đẹp từ làn da đến một “kết thể nữ” lộng lẫy, long lanh như những tượng ngọc, thể hiện sức quyến rũ mãnh liệt mà nhiệm mầu để tạo sự trường sinh của con người trong vũ trụ. Một tạo sinh truyền giống trong tình yêu giao hợp thần thánh, đầy sự hàm ơn của thi nhân –“một ân cảm siêu hình.” Xin đọc những dòng thơ nầy:

LINH SỬ CA MỘT SÁNG THÀNH
                                        TẤU KHÚC 06

                        Huyền đồ giải thai đố:
                        Gió tạnh, tuyết ngừng rơi;
                        Mây quang, nắng về trời
                        Vàng muôn tia rạng rỡ.

                        Về đây miền đất hứa
                        Con hộc gặp con hồng
                        Nhịp nhàng cánh thinh không,
                        Hai tim một luồng thở
                       
                        Của tân hôn đôi lứa
                        Nõn trắng và nguyên trinh:
                        Một vũ điệu tượng hình
                        Của giao thoa phân tử.

                        Như hạt móc rung rinh
                        Với lung linh cỏ chỉ.
                        Như cái búng thần tình
                        Của con quay thuật sĩ.

                        Như có đấng thần linh
                        Lấy tinh tuý con hộc
                        Cấy vào noãn con hồng
                        Ủ ấm lửa hừng đông,
                        Kết thành gien, thành nhựa,
                        Mộng mầm đời bất tử.

                        Ngày ấy nghìn sau vang
                        Trong thi nhân tiềm thức
                        Viết nên tiếng hát vàng
                        Nồng nàn tình tưởng nhớ.

                        Thuở hồng nguyên rạng rỡ,
                        Vàng reo nắng tinh tuyền,
                        Sinh lý học thần tiên
                        Của lưỡng nghi hạnh ngộ.

            Từ hiệu ứng con quay
                        Tay ai búng trên trời
                        Hình thành một văn hoá
                        Của nghĩa đền ân trả.

                        Nước nguồn gom làm suối;
                        Suối cuốn góp làm sông;
                        Đem sông ra làm biển;
                        Biển sâu muối mặn nồng
                        Hoá thành dông, thành chớp
                        Mang mưa trở lại nguồn.

                        Mưa nuôi đời phồn thực,
                        Làm thành thế giới xanh.
                        Người ngoan, đất cũng lành
                        Vì Trời hằng muốn thế.

                        Trời Đất chỉ biết cho
                        Nên Đất Trời bất tử.

Bài thơ này (MHTT, trang 582-584) là một chứng minh về sự “giao thoa” của sinh tồn, nói riêng về sinh tồn của con người” lên đến mức như một huyền vi hay một “thụ nhiệm” mới để sáng tạo một cõi thiên đường mới trong sáng hơn, thanh khiết hơn và hoà lương hơn –một “sáng tạo thuần khiết”--mà trong đó loài chim quí trống mái hồng và hộc đã trãi qua. Tiếc thay loài chim quí này hình như đã tuyệt tích rồi nên thi nhân của chúng ta mong mỏi tạ̣o lại cõi thiên đường đó –là một trong những lớn lao mà tôi nói ở phần trên về CTT. Từ những thánh thể tạo sinh lộng lẫy “nõn trắng và nguyên trinh” này không thể nào một thi nhân lớn như tầm cỡ CTT mà không biết tri ân. Vâng, nhà thơ của chúng ta tri ân đời và tri ân những ai đã cho ông những khối tình lớn nhất của đời ông --một người, một đại thi hào có một nhân cách sống động nhưng rất hiền hoà chỉ  sống một kiếp, bất tử:

                        Hồng hộc khuất từ lâu
                        Dư âm cơ duyên ấy
                        Còn vang thấu nghìn sau
                        Một hồn nồng chung thuỷ.

                        Một niệm tưởng thiên thu
                        Trong ân ca thi sĩ.
                       
Đoạn trích này trong Tấu khúc 07 (MHHT, trang 585) của bài thơ trên là dấu mốc cuối cùng của tôi viết về Cung Trầm Tưởng. Không biết bao giờ tôi sẽ gặp lại ông, sau khi đã biết nhau tay bắt mặt mừng từ hơn nửa thế kỷ qua. Tri âm đên đây âu cũng đủ cơ duyên rồi! Mình sẽ giã từ nhau chăng? Tôi mong chỉ có một kiếp như ông. Khó lắm! Vì vậy mà sẽ không gặp nhau nữa trong cõi Đất Trời này hay ở một cõi thiên đường nào đó! Sự tồn tại và huỷ diệt là quán tính của trần gian. Nhưng trong quán tính này nên kể cả sự bất diệt. Phải không CCT? Ông đã bất diệt rồi. Tôi nào phải như ông đâu!
                       
  Tôi thành thực mong mỏi giới thi nhân trẻ nên nghiên cứu nhiều thi ca Cung Trầm Tưởng  và từ đó canh tân thi ca Việt Nam trong tương lai. Cuộc cách mạng xã hội, chính trị hay văn học thường không được nhiều người thích nhưng cũng không ít người theo.

 Thiển nghĩ, lý thuyết văn học của một Ferdinand de Saussure, một Claude Lévi-Strauss, một Roland Barthes hay một Jacques Derrida có thể giúp chúng tôi phương thức giải mở thi ngữ của Cung Trầm Tưởng --một trong bốn nhà thơ lớn nhất từ xưa đến nay-- hay các nhà tư tưởng lớn khác của nhân loại, cũng có thể trao cho các nhà văn hoá trẻ tân học Việt Nam chiếc chìa khoá mở lại những trang sử bất khuất của tiền nhân trong thời kỳ hơn một nghìn năm bị trị vì sao không bị đồng hoá, và trong thời kỳ một nghìn năm tự chủ tại sao các thế lực chính trị trong nước giành quyền lực tạo sự chia rẽ gần như là thứ đặc tính cố hữu của tộc Việt Nam, và tại sao có những triều đại hưởng thạnh trị. Trên hết, triết lý của lý thuyết văn học hiện đại cũng có thể là chiếc chìa khoá mở lại kho tàng văn học cổ điển và hiện đại của ngôi nhà văn học Việt Nam. Nhập thức và canh tân các lý thuyết nầy là cần thiết, từ đó chúng ta hi vọng sẽ có được những tác phẩm phê bình xác đáng và nền văn học Việt Nam sẽ lớn mạnh với những tác phẩm văn chương và thi ca ngang tầm với nền văn học thế giới.

 Cá nhân chúng tôi muốn mở hai dấu ngoặc lớn, viết nhiều hơn về văn học Việt Nam, chớ không chỉ tản mạn bấy nhiêu ý ghi ở phần trên về Cung Trầm Tưởng. Nhưng, ở cái tuổi bát thập làm sao chúng tôi còn đủ sức làm cái việc như vác thánh giá mở cho được cánh cửa của ngôi nhà văn học Việt Nam còn thiếu dầu mỡ, hay khép cho gọn lại cánh cửa văn học thế giới đã và đang mở rộng ở mọi chiều mọi hướng. Xin mong nhờ thế hệ trí thức trẻ hơn hôm nay và ngày mai mà thôi!
  
VĂN NGUYÊN DƯỠNG
Trung tuần tháng 11, năm 2012

~~~~~~~~~~~~~~~

GHI CHÚ

  Tài liệu Việt và Anh ngữ tham khảo:

         (1). -TS. Nguyễn Minh Triết: Derrida và học thuyết Huỷ Tạo, Đặc San Trung
     Tâm Văn Bút Nam Hoa Kỳ, Texas, 2003. Các trang 40-59.   
         (2). -Terry Eagleton: Literary Theory, University of Minnesota Press, 1996.
    - Hazar Adams & Leroy Searle: Critical Theory Since 1965, University of
      Florida Press, 1986.
    - Peter Barry: Beginning of Theory, Manchester University Press 1995.
    - Julie Kivkin and Michael Ryan: Literary Theory: An Anthology,
       Massachusetts Blawell Publishers Ltd, 1998.
          (3).   Peter Barry: Beginning Theory, 1995, Chương 2, 3 và 4. Các trang 39-80.
          (4).   Peter Barry, trang 50.
          (5).   Peter Barry, trang 67.
          (6).   Cung Trầm Tưởng - Một Hành Trình Thơ, (California: Tủ Sách Quê Hương,
       2012), trang 533.
     - R. Ernest Dupuy & Trevor N. Dupuy: “The Harper Encyclopedia of Military
       History”, Fourth Edition 1993, trang 260.
     - R. Ernest Dupuy & Trevor N. Dupuy: “The Harper Encyclopedia of Military
       History”, Fourth Edition 1993, trang 332 và 336.
       (11).  - Nguyễn Cẩm Xuyên: “Người Cung nữ Trong Cung Oán Ngâm là Nhân Vật
                   Ước Lệ” (Tân văn 63, thang 10/2012) tt. 20-24;
                 - Trịnh Bá Đinh: http://phebinhvanhoc.com.vn/?p=326
       (12).  - Peter Barry, trang 184 và 185.
       (13).  - Cung Trầm Tưởng - Một Hành Trình Thơ (2012), trang 30.
       (14).  - Claude Lévi-Strauss: “The Structural Study of Myth”, Chương V của
                   quyển Literary Theory: An Anthology của Julie Rivkin và Michael Ryan
                 - (Blackwell Publishers Inc., Massachusetts, 1998), các trang 101-115.
       (15).  - Nguyễn Thanh Nhã, CTT- MHHT (2012), các trang 359-365.



Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire