mercredi 25 décembre 2013

CHÙM TRUYỆN CỰC NGẮN của THÁI DOÃN HIỂU

Viết tiểu thuyết như người đi trên đại lộ, viết truyện ngắn như ngồi trong cửa sổ nhìn ra. Nó chỉ là một nhát cắt. Nhát cắt sắc hay cạn tùy thuộc ở tay nghề
và năng lực thẩm thấu cuộc sống của người cầm bút. Tôi vốn bình sinh viết nghiên cứu và phê bình văn học nhưng thể loại văn xuôi này chẳng xa lạ với tôi. Xin gửi tới bạn đọc một chùm  truyện cực ngắn viết theo phong cách cố sự tân biên (truyện cũ viết lại) của văn hào Lỗ Tấn để thấy rằng lối tư duy hình tượng đã giúp cho những trang văn tư duy tư biện khảo cứu văn hóa của tôi thêm sinh khí.


Ôm lấy của nợ đó mà làm gì ?

Đang thủng thỉnh giảng bài cho các môn đệ ở nhà học thì bỗng nghe tiếng lao xao ở đầu ngõ. Khổng Tử dứt mạch đàm đạo, cáo lỗi các môn sinh đến đứng bên gốc thiên tuế, nghe ngóng. Một lát, thấy hai vị nhà nho tóc xổ, quần áo xộc xệch, mặt đỏ gay, đang vừa đi vừa xỉa xói nhau riết róng. Nhà này tự cho mình là nho sĩ chân chính, mạt sát nhà kia là hủ lậu không hợp thời và ngược lại. Lời quăng qua, câu ném lại không biết bao hiệp mà chẳng ngã giá được thua. Không ai chịu ai, họ túm áo điệu nhau đến nhờ sư biểu phân giải.

Lắng nghe hai phía phân trần, Khổng Tử vội vàng xuống thềm thi lễ, chắp tay cung kính, nhỏ nhẹ :

- Học thuyết của ta rất uyển chuyển, rộng vô cùng và không bó buộc bắt ai cũng phải giống ai. Cả hai vị đều là những vị túc nho chân chính, Khâu này rất lấy làm kính mộ. Vị nào nói cũng đều có lý cả, làm sao ai lại có thể bài bác ai là kẻ hủ nho, vô dụng và giả dối được ?

Nghe được khen tặng, mặt nở mày nang mãn nguyện, hai nhà liền quên phắt ngay những quan điểm đất đồng vừa đấu khẩu, hể hả dương dương tự đắc ra về. Đám học trò rất đỗi ngạc nhiên quây lấy Khổng Tử, chất vấn :

- Thật là lạ lùng, tại sao thầy lại đưa lên tận mây xanh hai lão đồ gàn dốt nát lắm lời đó để làm gì ?

Khổng Tử vuốt râu bình đạm :

- Kẻ  sĩ muôn đời có cái dở là bội thực tự hào về học vấn. Họ bao giờ cũng cho mình là tinh hoa của giống nòi, đứng trên muôn loài. Bọn sĩ nửa mùa thường hiếu thắng. Âu đó cũng là khiếm khuyết của hóa công. Thế gian thiếu gì loại người gàn quải này. Đối với họ chỉ cần nịnh khéo dăm ba câu để họ xéo đi cho khuất mắt là được, ôm lấy của nợ đó mà làm gì !?

Đám đệ tử nghe, thở phào.


Rượu bất tử

Có một sủng thần khúm núm dâng bình rượu “bất tử” lên Hán Vũ đế, văn thần Đông Phương Sóc liền nhón lấy, thản nhiên rót ngự tửu uống ngay giữa triều trước mắt bá quan văn võ. Hán Vũ đế nổi đóa, xuống lệnh thét võ sĩ chém đầu.

Rất điềm tĩnh, Sóc tâu :

- Thần vì ham sống sợ chết nên khi thấy rượu “bất tử” là ham ngay, liều uống. Bây giờ rượu đã trôi hỏi cổ họng, bệ hạ giết thần, thần cũng không chết. Nếu thần chết thì đúng là rượu dỏm, không phải là rượu “bất tử” nhằm sát hại đấng tối thượng, bệ hạ phải nghiêm trị thật nặng kẻ dâng rượu !

Hán Vũ đế nghe ra có lý, nguôi giận, cười, tha ngay !

LỜI BÌNH : Trong tất cả các lại bồ đào mỹ tửu làm gì có thứ rượu gọi là “bất tử”. Bọn nịnh thần nhan nhản thời nào cũng bày ra lắm tò ma để bịp. Khốn nỗi vua chúa xưa nay vốn thường ưa cái giả ngụy đó, vì nó ngọt tai, nên bọn nịnh thần mới có đất sống.
Bằng một phát tên, Đông Phương Sóc bắn trúng diệt một lúc hai đích : vạch mặt ngón lừa đảo của kẻ nịnh và thức tỉnh cái đầu u mê của người nghe nịnh (dẫu là vua).
Muốn diệt cho tiệt giống nịnh, trước hết phải chấn chỉnh những cái tai ưa nghe nịnh.




Sáng ba chiều bốn…

Đâu đó có tiếng đồn Thư Công nước Tống ưa khỉ nên nuôi trong nhà một bầy khỉ khá đông đúc. Ai được may mắn vào thăm đều khá khen : chuồng trại tinh tươm, thức ăn cho khỉ xài toàn hạt dẻ. Thiên hạ nghĩ chắc là túc hạ muốn triết lý một cái gì đó chứ chẳng phải để chơi kiếng như những kẻ nhàn cư rỗi tiền vẫn thích đua đòi chơi hoang !?

Năm đó, ông trời quái ác làm hạn hán kéo dài, mất trắng mùa dẻ. Thư Công bấm bụng nhìn đám khỉ ông, khỉ bố, khỉ mẹ, khỉ lau nhau chí chóe lúc nhúc cả một bầy háu đói đến thê thảm, thở dài lẩm nhẩm tính toán.

Bấy khỉ tinh ý nhận ra ông chủ có ý định bớt khẩu phần ăn của chúng liền nhảy nhót tứ tung khọt khẹt nhao nhao phản đối.

Thư Công trấn an :

- Việc gì phải nhặng xị ngậu lên kêu gào. Trước đây, ta cho mỗi ngươi mỗi ngày : sáng ba hạt, chiều bốn hạt, nay các người không ưng ý thì ta đổi lại vậy: sáng bốn, chiều ba, được chưa nào ?

Bầy khỉ tưởng được tăng lương, reo hò ầm ĩ !

LỜI BÌNH : 3+4 = 7; 4+3 cũng bằng 7. Trong sách toán cấp I, mấy đứa nhỏ thường ra rả đọc : “Khi ta thay đổi  vị trí các số hạng thì tổng của nó không thay đổi”. Lợi dụng sự thay đổi vị trí như một ảo ảnh, nhà triết học đã khéo léo đánh lừa được khá trót lọt tổ tiên của loài người. Thảo nào về sau này con cháu của khỉ toàn bị đánh lừa theo kiểu thô thiển đó !
Không tin, bạn thử ngẫm xem ?


Hát hay - học dở


Tại Quảng Ngãi.

Một sáng thăng đường muộn. Đào Tấn uể oải bước ra, lòng đầy khoái cảm. Đêm qua, dường như ông thức trắng đêm để soạn cho xong kỳ được vở Vạn bảo trình tường  mà Diên Khánh vương mới viết được hai phần.
Đang lần giở tập hồ sơ chuẩn bị phê án thì một người lính hớt hải từ ngoài chạy vào.

- Bẩm quan lớn. Nguy to rồi ạ !

- Nguy cái gì ?

- Dạ bẩm, không biết một thằng cha nào đó táo gan bạo phổi viết bậy ở cổng dinh bên này hai chữ “hát hay” và bên kia hai chữ “học dở”, chắc là để chế quan lớn chỉ ưa soạn tuồng mà không chăm việc quan. Con thấy dân chúng ngang qua bu lại đàm tiếu xôn xao. Dám xin cụ lớn cho phép con bôi 4 chữ hỗn xược ấy đi, rồi hãy truy tầm thủ phạm sau.

Đào Tấn cười :

- Hay ! Hay ! Cứ để yên đó đừng xóa.

Nói xong, Đào Tấn lại cúi xuống đống hồ sơ cao lù lù, chán ngát, bình thản như chẳng có việc gì xảy ra.

Sáng hôm sau, dân chúng tỉnh lỵ Quảng Ngãi vô cùng sửng sốt trước một câu đối ngồ ngộ, rất mực chỉnh tề với nét chữ bay bướm, tài hoa :

             Hát hay chính kéo Quy Nhơn thiệt
             Học dở làm quan Quảng Ngãi chơi.

Thì ra, đêm qua, tự tay mình, Đào Tấn đã “nối điêu” vào mỗi bên thêm mấy chữ.

Chẳng bao lâu, mưa nắng giãi dầu nhưng đôi câu đối này đã truyền lan khắp tỉnh.



Tại sao thành Vĩnh Long     
lại gọi là thành Quỳ ?


Lần ấy xuống Vĩnh Long, tôi – Thái Doãn Hiểu gặp và hỏi đường một ông già ở ngoại vi thị xã.

- Ông hỏi đường vô thành Quỳ ? Đường hơi khúc mắc, để qua dẫn đi.

Chúng tôi đi vào phố. Ông già nghiêng nón dứa trắng hỏi :

- Bồ vô thành Quỳ có việc chi ?

-         Dạ, tìm người hiền ạ.

Ông lão trợn tròn mắt :

- Thời buổi ni làm chi có người hiền, chỉ là kẻ tục thôi – ông già ha hả cười rung rinh cả chòm râu bạc lẫn búi tó củ hành sau ót gáy.

Tôi tò mò :

- Tại sao thành Vĩnh Long lại gọi là thành Quỳ kỳ khôi vậy a cụ ?

Ông già sóng vai tôi vừa đi vừa thủng thẳng kể :

- Chuyện như vầy nè bồ : Ở thế kỷ trước, sau khi mất ba tỉnh miền Đông : Biên Hòa, Gia Định, Định Tường (ngày 5-6-1862), quan Nghè Phan Thanh Giản được triều đình cử làm Kinh lược sứ ba tỉnh miến Tây Nam Kỳ : Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Ngài đóng tổng hành dinh ở đây. Một bận, tổng đốc Vĩnh Long Trương Văn Uyển rủ án sát Vĩnh Long Võ Doãn Thanh đến thăm. Thấy dinh cơ của quan thầy bày biện hết sức đạm bạc, nghèo nàn, người hầu kẻ hạ thưa thớt, chỉ duy có tấm kim khánh vua Tự Đức ban khắc 4 chữ LIÊM, BÌNH, CẦN, CÁN là sáng chói chỗ đầu sập ngài ngồi, thật không bù được một phần trăm lối sống quá ư vương giả của bề dưới bọn họ. Được vài tuần trà, nhân lúc vui vẻ, Uyển mới mon men hỏi : “Bẩm quan lớn, sao cụ lớn không dùng tiện nữ hầu hạ ?”. Cụ Phan quắc mắt “Việc nước việc dân ngập mặt lo từ sáng chí tối không xuể, không chu tất được, đâu còn rảnh ranh tính chuyện hầu thiếp !”. Uyển tròn xoe mắt ướm hỏi: “Vậy ngoài việc công, cụ lớn thích tiêu khiển gì nhất ạ ?”. Phan Tiên sinh vuốt râu từ tốn đáp: “Bình sinh ta chỉ ưa mỗi thứ hoa quỳ (hoa hướng dương) vì sắc vàng tự nhiên đậm đà, hương không gắt, và đặc tính trỗi nhất của nó là rõ ràng ngay thật, có thế mới dám nhìn thẳng vào Mặt trời mà không chút hổ ngươi, e thẹn”.

Bồ ạ - Kể đến đây ông già hạ giọng – Có lẽ quan Sứ họ Phan chỉ thích độc hoa Quỳ nên bấy giờ trong và ngoài thành Vĩnh Long người ta bắt chước đua nhau trồng tuyền một màu hoa mặt trời vàng khươm ấy thôi, đến mức dân xứ này quen gọi thành Vĩnh Long là thành Quỳ, lâu riết thành quen.

Ông già kể xong, vừa lúc chúng tôi đến ngã ba đường. Đột nhiên, ông cầm lấy tay tôi xiết mạnh, cắp mắt sáng lạnh soi vào mắt tôi, kiếu biệt làm tôi không kịp có lời từ tạ.

Tôi đứng sững nhìn theo dáng ông lão quắc thước nho nhã trong bộ bà ba trắng toát lừng lững thoắt biến trên nền lúa xanh thẫm. Phải chăng, đó là một nhân chứng còn sót lại của thế kỷ trước trong phút chốc hiện về để nhắn gửi tới hậu thế một điều hê trọng  ?

(Rút trong tập truyện ngắn THỬ GIẢI MÃ SẤM TRẠNG TRÌNH      
- gồm hơn 200 truyện mi ni của THÁI DOÃN HIỂU chưa xuất bản)

Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire