mercredi 14 mai 2014

Chuyện ngày 30 tháng 4 - Tưởng nhớ nhà văn Chu Tử Đào Vũ Anh Hùng.


Sáng Ngày 2 Tháng 5 của hơn ba chục năm về trước tại Subic Baỵ Tôi đứng dưới con đường dốc lối đi bệnh xá nhìn lên đám người đi ngược về khu tạm trú, chưa kịp vỡ cơn mừng đã vội tắt nụ cười, sững câm bởi vừa nhìn thấy Sơn với đôi nạng gỗ, có Vân dìu đỡ, khấp khểnh lê từng bước. Bà người làm tay bồng tay dắt hai đứa con gái của đôi vợ chồng người con trai lớn của Nhà văn Chu Tử. Bà Hai và Vân cũng vừa nhận ra tôi, hai người mừng tủi khóc òa lên.
 
Tôi đón nhận tin ông Chu Tử chết trong buổi sáng hoang mang xao xác đó. Buổi sáng ngơ ngẩn như hồn đi lạc, xác thân cũng lạc, đường đột bước đi đến nơi bờ bến lạ, không ý thức được rằng mình đi như thế là đi xa đất nước, là rời bỏ quê hương. Tôi nghe choáng váng và lòng tầm tã một cơn mưa buồn thảm… Trọn cái tiểu gia đình đứng trước mặt tôi đều mang thương tích từ mảnh vụn B-40 quân Cộng bắn vào chiếc tầu Việt Nam Thương Tín. Quả đạn đã giết được người và chỉ giết một người trong cái đám đông hốt hoảng chạy tìm đời sống và đất sống. Con người xấu số đó là Nhà văn Chu Tử.
Định mệnh nào tai ác đã thù hằn theo đuổi để hại cho bằng được con người khốn khổ tài hoa ấy, trong quãng giờ khắc điêu linh bất hạnh ấy của quê hương, và bằng cung cách gớm ghê thảm khốc dành cho một hình hài yếu đuối như hình hài Chu Tử, trưa Ngày 30 Tháng Tư, 1975 — khi ông buồn bã đứng dựa thành tàu, nhìn Sài Gòn lần cuối, nhìn quê hương lần cuốỉ…
Chu Tử bị bắn một lần trong Tháng Tư, 1966 ngay trước nhà ông trong con hẻm trường Hoài An, Phú Nhuận — vỡ một mảnh hàm — nhưng ông sống sót và hồi phục chóng vánh kỳ diệu trong thương yêu phẫn nộ của công luận. Viên đạn oan khiên nghiệp chướng Ngày 30 Tháng Tư 1975 cũng thổi bay hàm dưới và là viên đạn chí tử, dứt điểm mà định mệnh đã dành cho đời Chu Tử.
Tôi như nhìn thấy ông nằm ngay trước mặt, đau đớn, quằn quại trên vũng máu và kêu rên, và gọi tên thống thiết đứa con gái thương yêu Chu Vị Thủy đã cùng mẹ, cùng em và chồng con ở lại Sài Gòn… Tôi như nghe được cả tiếng ông giục Sơn dốc trọn ống thuốc ngủ cho ông nuốt chửng để khỏi kéo dài cơn đau thảm thiết. Chu Tử đã chào thua định mệnh, ông đã chết dữ dằn và phải chết trầm hà. Số mệnh tham lam đã bắt ông phải trả cả vốn lẫn lời quá nặng.
 
Tôi đã vô cùng gần gụi và có quá nhiều kỷ niệm với Nhà văn Chu Tử. Đầu năm 1964, tờ nhật báo Ngày Nay của ông Hiếu Chân bị đóng cửa, tôi đã rời Ngày Nay, tôi theo ông Chu Tử trong cái ê-kíp đầu tiên viết mướn cho những vị chủ báo, có vị không bao giờ viết báo. Từ tờ Tương Lai, Tiền Tiến của “Vua Thầu Khoán” Đỗ Cường Duy. Rồi tờ Thân Dân của cụ Nguyễn Thế Truyền, Tranh Đấu của ông “Vua Đái Đường” Ngô Đức Mão, Bến Nghé của “Vua Bóng Bàn” Đinh Văn Ngọc… cho đến khi Chu Tử xin được măng-sét ra riêng tờ Sống, đứng tên Chủ nhiệm, tất cả anh em kéo nhau về tòa soạn- nhà in cũ trên đường Hồ Xuân Hương.
Cái “ê-kíp Sống Chu Tử” đầu tiên ấy vỏn vẹn có vài người. Ngồi thường trực trong tòa soạn có Hoàng Anh Tuấn, Trọng Tấu, Đằng Giao và tôi. Vợ chồng Trần Dạ Từ — Nhã Ca và Tú Kếu mỗi đêm đến làm tin, dịch tin. Duyên Anh phụ trách trang thiếu nhi. Vũ Dzũng, Đỗ Quý Toàn trang Thanh niên, Sinh viên. Nguyễn Ang Ca ký giả thể thao, kịch trường. Võ Hà Anh phóng viên chạy ngoài. “Cô” Kim Chi Hoàng Anh Tuấn lo giải đáp tâm tình và tử vi đẩu số! Anh Hợp, Nguyễn Thụy Long, Tuấn Huy, Nguyễn Đức Nam, Lương Quân, Tiền Phong Từ Khánh Phụng viết tiểu thuyết trang trong, lâu lâu mới ghé một lần đưa bài và lấy tiền nhuận bút. Nhân vật “ngoại hạng” phải kể là “chí sĩ” Minh Vồ đặc trách việc lo bông giấy in báo và ngoại giao với phòng Kiểm duyệt Bộ Thông Tin, xin lại giấy phép mỗi khi bị chính quyền đóng cửa…
 
Tôi đã gần gụi ông Chu Tử trong cả trong đời sống bên ngoài tòa báo, can dự vào nhiều biến cố của gia đình ông như một thành phần ruột thịt. Ông cũng coi tôi như ruột thịt của gia đình và dành cho tôi một tin cậy, mến thương sâu đậm. Tôi đã chứng kiến ông hoan lạc, bi thương, vui, buồn, hờn giận… Chứng kiến một Chu Tử hồn nhiên đúng như Nguyễn Mạnh Côn nhận xét: “Một tâm hồn đứa trẻ trong thể xác ông già”. Nhưng có lẽ tôi thấy đời ông thống khổ nhiều hơn hạnh phúc. Thể xác ông phải chịu những đớn đau nhiều và quá độ đối với hình hài yếu mảnh nhưng mạnh mẽ tinh thần phấn đấu. Như chứng kiến lần Minh Vồ chở ông sau chiếc Lmbretta, ông bị taxi đụng gẫy cổ chân phải, từ đó Chu Tử phải chống nạng và có bút hiệu Kha Trấn Ác trong mục “Ao Thả Vịt”. Lần ông bị bắn bốn viên đạn, phải đóng đinh trong hàm để giữ bộ răng giả, tay run lật bật khó khăn cầm bút và mất ngủ đến rên la kêu trời réo đất hàng đêm…
Nhưng tất cả những đau đớn thể xác ấy gom lại cũng không bằng cái đau thương thống khổ của ông ngày Chu Trọng Ly, đứa con trai út ông đặt lòng thương quý đã tự hủy mình bằng viên đạn carbine nổ vào đầu năm 14 tuổi. Nhà thơ Hà Thượng Nhân, dịch giả Phan Huy Chiêm và tôi đã ở bên ông, trong căn phòng cho mượn của ông Thẩm phán Phạm Hải Hồ đằng sau khu chợ Bà Chiểu, mủi lòng, bối rối, cảm thương, cực cùng xúc động trước cơn vật vã và tiếng khóc thê lương của người cha cô khổ.
Hơn ba mươi năm đã trôi qua. Hơn ba mươi Ngày 30 Tháng Tư đánh dấu Việt Nam quốc hận. Hơn ba mươi năm ngậm ngùi tưởng niệm Chu Tử chết cùng vận nước. Tôi day dứt nhớ và tiếc nhiều điều chưa trọn vẹn cùng ông. Chu Tử sống mang biết bao nhiêu ngộ nhận và ân oán. Một người có văn tài và khí phách, sống giữa đám đông mà lúc nào cũng cô đơn thê thảm, cũng muốn bung phá và nổi loạn vì cái đớn hèn khiếp nhược ở chung quanh… Tôi nghĩ, thôi thà Chu Tử chết trầm hà như thế là yên phận.
Người như ông, đem thân lưu lạc mà nhìn thấy đám nhân loại nhơ bẩn quá nhiều, lừa dối, gian manh, đê tiện quá nhiều, sẽ héo hon, cô đơn thê thảm gấp trăm lần cái cô đơn thê thảm ngày xưa trên đất nước…

Đào Vũ Anh Hùng.
Bài đọc thêm :

Nhà văn Chu Tử, và những ngày Tháng Tư                          
Tác Giả: Viên Linh       

Trong giới văn nghệ sĩ, 30 Tháng Tư mở đầu bằng một cái tang, cái tang đúng ngày 30 Tháng Tư: đó là cái chết của nhà văn Chu Tử. Ðúng 58 năm trước, anh ra đời cũng vào Tháng Tư, ngày 17.

Vào ngày 16 Tháng Tư 1966, nhà văn Chu Tử bị ám sát bằng 4 viên đạn xuyên qua cổ, răng, miệng, nhưng đã không chết, có thể vì đối với ông, đạn súng lục quá nhỏ. Chín năm sau, 30 Tháng Tư 1975, ông chết vì một viên đạn lớn hơn, một viên B40 từ bờ bắn lên tàu Việt Nam Thương Tín, khi con tàu này đang từ sông Lòng Tảo, Vũng Tàu, chạy ra khơi.
Nhiều thế lực ở đằng sau mũi súng không thích những Sự Thật do Chu Tử viết ra trên báo Sống hay các báo do ông chủ trương. Ở lần ông bị bắn năm 1966, chúng tôi đã viết một bài ngắn đăng trên Tuần báo Nghệ Thuật mà sau này được ông trích đăng lại trong cuốn Không Hận Thù, như sau: “Ðối với bản thân tác giả Yêu, hẳn nhiên những sự đưa đến cái chết, và chính cái chết là một vấn đề Sống. Sống theo quan niệm của một người trí thức hành động. Người trí thức hành động Chu Tử đã đối đầu với những vấn đề nguy hiểm, nhưng đó là những vấn đề ông có thể kiểm soát nổi. Nếu ông tin rằng người ta không thể giết ông vì những điều ấy, thì niềm-tin-chu-tử không phải niềm tin của một tâm hồn thơ ngây, nhưng là của một tâm hồn tràn trề hy vọng ở một cuộc sống tốt đẹp, cuộc sống ao ước. Ao ước và hy vọng dĩ nhiên lại là những gì mà chúng ta không có cách kiểm soát được...” (1)
Nhà văn Chu Tử có tên khai sinh là Chu Văn Bình, ra đời ngày 17 Tháng Tư năm 1917 tại làng Mía, Sơn Tây, miền Bắc Việt Nam. Theo lời tự thuật của ông, vì bạn bè trong lớp sỉ nhục, sau khi đậu tiểu học, ông chỉ mất có ba năm thì thi đậu tú tài. Mất thêm mấy năm nữa, ông học Luật tới năm thứ ba, rồi nghỉ một thời gian, không rõ vì sao. Sau nghe ông đậu cử nhân Luật và trở thành một trong vài người đậu cử nhân hồi những năm cuối thập niên ba mươi, đầu thập niên bốn mươi tại tỉnh Sơn Tây. Tham gia sinh hoạt đấu tranh từ nhỏ, trong khi còn học lớp nhất trường Hưng Hóa, Chu Tử, vào đêm nổi dậy của Việt Nam Quốc Dân Ðảng năm 1930, đã theo đàn anh Nguyễn Khắc Nhu, biệt danh Xứ Nhu, phó đảng trưởng, đi hạ đồn Hưng Hóa. Thất bại, bơi qua sông trên đường rút lui, tới được bờ thì quá mệt, và quá vui, nhà cách mạng 13 tuổi ngủ một giấc, và từ đó mất liên lạc với Xứ Nhu. Ông bị tù thời Pháp, sau đó còn bị tù thời Nhật, thời Ngô Ðình Diệm, như ông viết. Tuy vậy thời Việt Minh, ông có lần ngồi xử án một vài phiên tòa địa phương.
Nhà văn Chu Tử (17.4.1917-30.4.1975).
 
Hồi thanh niên Chu Tử mở trường dạy học, học trò rất đông. Nhưng lòng ông không ở đó. Ông dừng lại ở văn chương, ở báo chí, văn, ông đã cho xuất bản một loạt các truyện dài mà nhan đề chỉ có một chữ: Yêu (Ðường Sáng, Saigon, 1963, tái bản 3 lần trong một năm), Sống, tức Loạn I (Ðường Sáng, 1963), Loạn (Ðông Bắc, 1964). Cuốn nào cũng là truyện dài, và truyện nào cũng đăng báo trước khi in thành sách. Thường là đăng báo của ông, như tờ Sống, hay báo do ông chủ trương, như Dân Việt, Ðời, Sóng Thần, vì với ngòi bút công phá tàn khốc, Chu Tử không còn được phép đứng tên làm chủ nhiệm một tờ báo nào nữa, sau tờ Sống.
Trong sinh hoạt báo chí, tôi ít có dịp làm việc với Chu Tử, trừ một thời gian ngắn phụ trách phần điện ảnh cho báo Sống của anh, và thời gian viết truyện dài Gió Thấp cho báo Sóng Thần do anh chủ trương. Tờ báo sau cũng gây nhiều sóng gió, và là mục tiêu của một cuộc xung đột nghề nghiệp, hay xung đột chủ trương, đến mức tàn khốc. Một trong những chuyện xảy ra, làm rung chuyển giới truyền thông lúc ấy, là vụ bắn bỏ Vân Sơn Phan Mỹ Trúc, chủ nhiệm tờ Ðông Phương. Lúc ấy tôi cũng đang viết một truyện dài cho Ðông Phương. Hai tờ báo ở cùng một con đường Võ Tánh, tờ bên số lẻ, tờ bên số chẵn, đi bộ chỉ vài phút. Hai tờ báo ấy lại đang bút chiến với nhau. Ðến Ðông Phương ngồi viết xong đoạn truyện đủ in cho báo ngày hôm sau, tôi đi qua Sóng Thần ngồi làm việc tương tự, ở cái bàn ngay cửa phòng sắp chữ. Bao giờ tôi cũng lại Sóng Thần sau, vì thích cà kê ở đây lâu hơn. Ở quãng giữa hai tờ báo là phở Hà Nội, nơi các ký giả gặp nhau, cũng là nơi tôi ghé vào bảo họ lát nữa mang lên Sóng Thần cho tôi một chai bia Larue có hình trái dứa và một ly đá. Lùi về phía sau là nhà thờ Huyện Sĩ, nơi có một quán cà phê bí tất, chéo góc với quán xôi lạp xưởng của mấy mẹ con một bà người Bắc.
Một hôm đang ngồi ăn nhậu trong quán cà phê bí tất với bạn bè, Vân Sơn Phan Mỹ Trúc bị dí súng vào đầu. Một tiếng nổ. Kẻ lạ mặt, do đồng bọn chở bằng Honda hai bánh từ ngoài bước vào, giữa ban ngày, rút súng xử tử chủ nhiệm Ðông Phương, rồi rảo cẳng đi ra, leo lên sau xe Honda, mất dạng. Cái tin gây lặng ngắt trong chỗ tôi ngồi uống bia. Tôi không đi đưa đám Vân Sơn, nhìn vành khăn trắng trên đầu một phụ nữ não nùng, tôi thù ghét tên mặt tái. Theo mô tả, đó là kẻ sát nhân. Tôi nghĩ tôi đã gặp y nhiều lần. (2)
Trong không khí đó, những cuộc xung đột trong làng báo không còn là những bài báo xuông nữa. Ngay trong nội bộ cũng gay cấn. Anh Chu Tử, tuy là người đứng chủ trương nhật báo Sóng Thần, nhưng lại không thoải mái khi tới tòa soạn. Rồi chẳng bao giờ anh tới nữa, nằm nhà lãnh lương, rút xì phé. Có khi chỉ có ba người, chúng tôi cũng vẫn rút, cho anh đỡ buồn. Nhất là khi trong ba người lại có một anh Việt Cộng hồi chánh như Kim Nhật - tác giả cuốn Cục R - cò gỗ mổ cò thật như hôm đó, thì chán biết nhường nào? Anh nhắc tôi kể chuyện phim ráng viết cho dài, như một cái truyện ngắn, vì tôi thường viết ngắn, chủ trương đủ ăn thì thôi, hôm nay đong gạo hôm nay, chuyện mai mai tính. Một hôm anh bảo tôi, khi tôi đã leo lên cái xe Lambretta định đi. “Này cái chuyện phim hôm rồi cậu viết dài hơn nửa trang như thế là được, tuy nhiên cậu lại không viết nhan đề. Tôi thấy tên phim là La Chevauchée, tôi đặt là Ðoàn Kỵ Mã đấy. Ðược không?” Dĩ nhiên là được. Chị Gilberte Nguyễn Văn Lợi, chủ hãng phim Columbia tại Sài Gòn đưa cho tôi tờ Ciné-Revue, trong có thuật chuyện phim này, sắp chiếu ở Eden hay Ðại Nam gì đó, tôi phải chuyển ra Việt ngữ, tôi đã xem phim đó đâu mà nói được hay không được. Tôi cũng chẳng nhớ nội dung câu chuyện như thế nào, vì tài tử cưỡi ngựa bắn súng cỡ Randolphe Scott là tài tử tôi chỉ xem qua một lần rồi bỏ.
 
Nhà văn Chu Tử lìa đời trên sông Lòng Tảo, trên thuyền Việt Nam Thương Tín. Hôm đó là ngày 30 Tháng Tư năm 1975. Khi chiếc thương thuyền đang hướng ra hải phận quốc tế thì bị trúng một trái đạn pháo từ trong bờ bắn ra. Trong mấy ngàn người, Chỉ có Chu Tử thiệt mạng. Cháu Chu Sơn, con trai anh, mà cũng là phóng viên trang 3 của chúng tôi trong tờ nhật báo Tiền Tuyến, đứng bên bố nhưng không nguy hại gì. Theo Trung Tá Phạm Hậu kể lại: “Có tiếng pháo kích từ bên bờ sông mé phải bắn qua. Ðạn đại bác của xe tăng hay đạn B40, B41 quái quỉ gì đó... rơi lõm bõm trên sông. Một viên đạn bay qua đầu chúng tôi, rơi trúng vào chiếc tầu to lớn - tầu Việt Nam Thương Tín chở hàng hóa và hành khách dân sự - đang vùn vụt chạy rất nhanh ở phía trái chúng tôi. Khói bốc lên nghi ngút trong chốc lát. Sau mới biết chính quả đạn này đã sát hại nhà văn Chu Tử...” (3)
Theo cháu Chu Sơn kể lại với tôi, thi hài Chu Tử được bó vải, thả xuống Thái Bình Dương ngày hôm sau. Anh là thuyền nhân đầu tiên được thủy táng. Anh là nhà văn lưu vong đầu tiên vẫn trong hải phận quê hương. Và như thế, có bao giờ anh rời xa Ðất Nước? Từ lúc viết văn đến khi từ trần, anh hoàn tất ý niệm ban đầu của một người cầm bút, mấy ai có thể làm được như anh?

Tháng 4, 1997 (Trong Chiêu Niệm Văn Chương, chưa in)

Chú thích:

1. Viên Linh, nhà văn Chu Tử, vấn đề sống, Tuần báo Nghệ Thuật, số 28, tháng 4, 1966, trang 5.
2. Duyên Anh viết rất rõ về vụ ám hại này trong hồi ký của ông, đã xuất bản.
3. Phạm Hậu, 30.4.75, Từ sông Lòng Tảo tới Subic Bay, Khởi Hành số 42, 4.2000, trang 9.

Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire