dimanche 22 juin 2014

Tìm hiểu về Hệ thống thang âm ngũ cung Việt Nam / Ngũ Cung Việt Nam trong hệ thống nhạc lý/ nghe bài Còn Chút Gì Để Nhớ Để Thương

   
Nếu bạn là người chơi nhạc theo hệ thống Tâyphương, thì khi tiếp xúc hệ thống thanh âm ngũ cung không khỏi bối rối.Nhân đọc bài ở :http://chimvie3.free.fr/42/ngphuyen_ngucungHue2.htmThấy bổ ích xin chia sẻ :Phần 1 ( vì dài nên táchlàm 2 phần)------------Âm nhạc Việtkhông chỉ có thang âm ngũ cung. Ngoài thang âm này ta có thang âm nhị cung (dosol do, do fa do), tam cung (ngũ cung khuyết, do fa sol do, do re sol do, do fasib do), tứ cung (do fa sol sib do, do re fa sol do, do mib fa sib do, do resol la do), thất cung (như thất cung đều nhau trong âm nhạc Huế). Tuy nhiênnước Việt nằm trong vùng có nhạc ngữ ngũ cung nên thang âm này là nổi trội hơncả. Vả lại tuy ta có đủ bảy âm nhưng nó chỉ xuất hiện trong các bài bản có sửdụng chuyển hệ (métabole).
Chuyển hệ là một đặc điểm trong nhạc Việt, khônggiống chuyển cung (transposer) như trong âm nhạc Tây phương. Trong tác phẩm Lamusique vietnamienne traditionnelle, giáo sư Trần Văn Khê viết: " Theo M. Courant, thang âm cungthương giốc chủy vũ được dùng dưới đời nhà Chu(1766 - 1154 trước CN). Vào khoảng 10 thế kỷ trước CN cũng thấy có thang âmthất cung, nghĩa là thêm vào ngũ cung hai âm biến cung và biến chủy. Hai âm nàyhiện ra trong chu kỳ khi người ta cho quãng 5 tiếp tục phát triển, sinh thêm âmthứ 6 và 7 (đối với khởi điểm fa). Đầu thế kỷ 13, có một thang âm thất cungkhác du nhập vào đất Trung Hoa do người Mông Cổ (nhà Nguyên) đem đến: Ho SseYi ChangTch'eu Kouang Fan Liou You ( hò xự y xang xê cốáng phan liu ú, fasol la sib do re mi fa sol). LiouYou là quãng 8 của hò vàxự... Do đó dưới đời nhà Nguyên (1280 - 1368), người Trung Hoa dùng thang âmthất cung. Đến đời nhà Minh (1368 - 1644) chỉ có thang âm ngũ cung là đượcthông dụng".
Ở Việt Nam,thời vua Lê Thái Tông (1434 - 1442) đã bắt đầu việc chấn hưng âm nhạc. Do chịuảnh hưởng của âm nhạc Trung Hoa, kể cả âm nhạc Chăm, thang âm Đại Việt lúc nàyđã là hò xự xang xê cống liu u.Nghĩa của các âm bậc trong thang âmĐại Việt.-Hò (viết theo chữ Hán là hợp) : đây là âm bậc mở đầu cho việckết hợp các âm thanh để trở thành một hệ thống thang âm. Hò có thể tương đươngvới âm do3 trong âm nhạc Tây phương nhưng cũng có thể là âm khác, như fachẳnghạn. Vì vậy trong nhạc Việt có các tên gọi là dây hò nhứt, dây hò nhì, dâyhò ba, dây hò tư, dây vọng cổ... tùy theo âm hò (chủ âm) được chọn từ mộtâm bậc nào đó. - Xự (tứ) :nghĩa là âm thanh thứ tư, tương đương với re3, là bậc trầm của re4, re5. Âm re5là âm thanh thứ tư của chu kỳ quãng 5, sau fa-do-sol. Và xự là âm bậc được dịchxuống hai quãng 8 của re5. - Xang (thượng): nghĩa là âm trên cao, trên hết, nguồn gốc xa xưa. Xang ở đây là fa3, âm thanhgốc của chu kỳ quãng 5. - Xê (xích): có nghĩa là cây thước đo, trước kia có tên là thương và thái thốc. Tên nàyđược chọn như một âm bậc với ý nghĩa giữ mãi hình bóng cội nguồn: đường thẳngcủa cây thước là hình ảnh của mũi tên to (thái thốc). Xê tương đương với sol3. - Cống (hay công):tức là công cụ, công dụng tức là âm bậc dùng để chuyển cung, đổi điệu haychuyển hệ sang một thang âm khác. Cống ở đây là la3, đôi khi nó biến thành sibở trường hợp có chuyển hệ. Vì vậy nó được xem như công cụ để chuyển sang thangâm khác. - Líu (lục):tương đương với do4, là âm bậc thứ 6 của thang âm do3. Ta thấy có mối liên hệgiữa hò và líu, tức là người xưa muốn dùng líu để nhắc lại vị trí đứng đầu củahò để nhấn mạnh sự kết hợp âm thanh quanh âm bậc xang mà không hàm ý một quãng8. - Ú (ngũ) :tương đương với re4, là âm bậc thứ 5 của thang âm gốc: xang (fa). Nhìn lại têncác âm bậc trong thang âm Đại Việt, ta thấy chúng có liên quan hỗ tương, sự kếthợp giữa chúng tạo nên tính chất riêng biệt và công dụng đặc thù. Thang âm Đại Việt có 6 âm bậc chia làmhai tam liên âm, các bậc 1,2,3 gọi là tam liên âm hạ; các bậc 4,5,6 là tam liênâm thượng. Từ một điệu Bắc ta nhấn bậc 2 và bậc 5 thì có điệu Nam; bậc 2 và 5gọi là bậc định thể. Xự, cống xác định điệu Bắc; xư, phàn (còn có tên là oan)xác định điệu Nam.


Các loại dây hò :Trongviệc truyền bá âm nhạc, ông cha ta thường áp dụng lối truyền ngón, truyền miệngcụ thể trên từng loại nhạc cụ hơn là việc dạy dỗ bằng lý thuyết thuần túy. Dođó việc lưu truyền âm nhạc truyền thống của chúng ta có thể nói đi từ thực hànhđến lý thuyết chứ không phải ngược lại. Vì vậy để tìm hiểu các loại thang âm,trước hết cần nói đến các dây hò. Cụ thể có thể tìm hiểu thông qua việclên dây trên cây đàn nguyệt (kìm) với 9 phím, theo kiến giải của cụ Minh Lương,như sau:
a) Dây hònhứt (còn gọi là dây Bắc): nếu hai dây buông, dây lớn là tồn (fà2), dây nhỏlà tang: hò (do3), hai dây tạo thành một quãng 5. Thang âm của nó như sau:



xựxangcốngliuúxángxế
(dorefasolladosól)
Như vậy dây hònhứt cho ta thang âm điệu Bắc. b) Dây hònhì: dây lớn vẫn là tồn (fà), dây nhỏ hạ xuống một cung là oan hay phàn(sib), hai dây tạo thành một quãng 4. Thang âm của nó như sau:



oanxang oanliuúxáng
(sibdomibfasolsibdomíbfá)
Như vậy dây hònhì cho ta thang âm điệu Nam.c) Dây hò ba:tức dạng 1 của cung hoàng chung; hai dây tạo thành một quãng 5, dây nhỏ lấyphím thứ 3 làm hò.



(xêcống)xự xangcốngliuú
(dorefasolladorefasol)
 






  • d) Dây hò tư( còn gọi là dây oán): hai dây tạo thành một quãng 4. Dây này dùng đểđàn các bài oán nên được gọi là dây oán. Dây nhỏ lấy phím thứ tư làm hò.Các âm bậc của nó cho ta thang âm như sau (trùng hợp với dạng 3 của cunghoàng chung:tam liên âm Bắc + tam liên âm Nam):



    (xangoan)xangoan liu
    (sibdomibfasolsibdomibfá)
    Cần phân biệt dâyoán với hơi oán. Khi diễn tấu những bài có nét u buồn, thường nhấnxự và xê thành xư và xế. Như vậy thang âm của hơi oán là:


    xangxếoanlíu
    (fasol#sibdo#mibfa)
    Đây là dạng 5của cung hoàng chung (la do re fa sol la). e) Dây vọngcổ (hay là dây Bắc - oán): dùng dây hò nhứt làm nền, nghĩa là giữnguyên dây nhỏ là bậc tang (do), dây lớn cho cao thêm một cung, tức là tồn(sol). Hai dây tạo thành một quãng 4 tồn - tang ( sol - do). Đối chiếu với cácdây trên, ta thấy dây vọng cổ là tổng hợp của dây hò nhứt (Bắc) và dây hò tư(dây oán). Thang âm của nó là:


    xangxếoanlíu
    (solsibdomibfasól)
    Tuy nhiên cácloại dây hò trên còn khác nhau tùy theo cách mắc dây cho từng loại nhạc cụ cũngnhư không hẳn được áp dụng cho các vùng miền mà mỗi nơi có cách mắc dây khácnhau. Chẳng hạn ở miền Trung, dây hò nhứt được xếp đặt như sau: hai dâytạo thành một quãng 4 (không phải quãng 5 như ở trên).


    tangxựxangcốngliuúxángxế
    (dorefasolladosól)

      
  •   






    Các loạithang âm ngũ cung:Thangâm ngũ cung Đại Việt có nhiều dạng khác nhau nhưng đều dựa trên cái sườn cơ bảnvới những âm bậc trụ cột là hò xang xê líu (do fa sol do). Trụ cột này tạothành hai quãng 4 ở hai đầu (hò - xang, do - fa) (xê - líu, sol - do), ở giữacó bản lề là một quãng 2 ổn định (xang - xê, fa - sol). Kiến trúc cơ bản sẽ bịthay đổi khi có chuyển hệ, tức là bước sang một thang âm khác, một số âm bậcmới xuất hiện thay thế cho những âm bậc cũ. Chẳng hạn trong thang âm điệu Bắcgồm hò xự xang xê cống liu (do re fa sol la do), khi ta nhấn xự thành xư, nhấnxê thành xế thì ta đã chuyển sang điệu Nam gồm hò xư xang xế oan liu (domib fa sol sib do). Hò là âm bậc khởi đầu thang âm, tập hợp các âm bậc khácthành một hệ thống từ thấp lên cao (từ hò lên liu) của thang âm đó, vì vậy hòcó vai trò của chủ âm. Song để giữ vai trò này, hò được sự hỗ trợ vững chắc củahai âm bậc trụ cột là xang, xê tạo thành dạng thức quãng âm quân bình là hòxang xê liu; vì vậy xang, xê là hai âm bậc định cung. Ngoài ra ta có haiâm bậc xự, cống tạo nên tính chất, sắc thái cho giai điệu nên xự, cống là haiâm bậc định thể.



    123456
    dorefasollado
    xựxangcốngliu(điệu Bắc)


    (chủ âm) (xang - xê: hai âm bậc định cung)


    xựxangphànliu(điệu Nam)


    (xự nhấn) (cống nhấn)


    (chủ âm) (xự - cống: hai âm bậc định thể)
    Khi nắm đượckiến trúc cơ bản của thang âm ngũ cung Việt Nam như vậy, chúng ta dễ dàng nhậnra sự đa dạng, phong phú của các loại thang âm ngũ cung có thể tìm thấy trênkhắp mọi miền nước Việt (không kể đến các loại thang âm tam cung, tứ cung cũngxuất hiện không ít trong các câu hát dân gian của ta). Nếu tìm hiểu âmnhạc dân gian trên khắp các vùng miền của đất nước ta, có thể sơ bộ đúc kết mộtsố loại thang âm ngũ cung như sau (để dễ hiểu xin chuyển sang cách gọi các âmbậc theo nhạc Tây phương, chỉ tương đối vì trong nhạc Việt cao độ còn thay đổitinh tế do kỹ thuật luyến láy, nhấn, rung... để có âm bậc non, già): - do re fa solla do (điệu Bắc) - do re fa solsib do (Namxuân) - do re mi solla do (dây hò 3) - do mib fa solsib do (Namai) - do mib fa labsib do (hơi oán) - do mi fa solsi do (Tây nguyên) Tuy vậy nhạcViệt phong phú không chỉ ở chỗ có nhiều loại thang âm ngũ cung như trên mà cònở chỗ trong mỗi thang âm ngũ cung còn có nhiều dạng khác nhau nữa.--Rất tiếc khi uplên định dạng lung tung, bạn nào quan tâm vào link gốc.


  • Aucun commentaire:

    Enregistrer un commentaire