mercredi 23 juillet 2014

"ĐỐT SÁCH - CHÔN NÔNG DÂN", tác giả Bút Xuân

 
ĐỐT SÁCH - CHÔN NÔNG DÂN
Bút Xuân
 
 
Người dân Bắc Việt, hầu như 100%, trong suốt 9 năm từ 1945-1954, quá lo âu, ngay một thanh nam hay thiếu nữ.
Lo vì cái thân phận của mình quá nhỏ bé trong khi miền Bắc này đầy rẫy những tên Vọc, tên Quải, tên Cam, tên Quýt ...ngu dốt nhưng là hiện thân của hung thần, ác quỷ. Chúng muốn giết ai thì giết, muốn phá nhà ai thì phá, muốn tha ai thì tha, chúng là những ông trời con mỗi vùng vì Việt Minh - với chiêu bài cách mạng giải phóng dân tộc khỏi ách thực dân Pháp, với súng đạn do quốc tế Cộng sản yểm trợ - đã ban cho chúng cái quyền tiền trảm hậu tấu đó.
 
Khi xưa quyền này chỉ có một ông tướng như Nguyễn Trãi, như Lý thường Kiệt, như Nguyễn hữu Chỉnh...nơi trận tiền; nay thì nó ở trong tay một tên đội trưởng du kích xã, tên đồn trưởng công an hoặc xã uỷ, chúng rất ít học, ngu dốt, cuồng tín nhưng chuyên lạm quyền và làm bậy miễn thoả ý hoặc trả thù cá nhân.
 
Chúng là những tên đầu trộm đuôi cướp hoặc lưu manh móc túi, nhảy xe nhảy tầu, đá cá lăn dưa, cầu bơ cầu bất khi xưa gặp thời mạt thế chó nhảy bàn độc, tự tung tự tác, được Việt Minh trọng dụng cho cai trị một làng, một thôn với luật pháp tự đẻ ra của chúng. Làm bậy mấy cũng được miễn là đội bác, đảng lên đầu, một điều đội ơn bác đảng, hai điều nhờ ơn bác đảng thì chuyện bậy bạ mấy cũng qua. Đâu có thiếu những kẻ vô liêm sỉ tựa vào cái thành ghế vô sản đó. Và đó cũng chính là lý do nhiều đứa theo Việt Minh. Để trục lợi!
 
Thật vậy, Việt Minh đã có thuế đánh vào mọi thứ như thuế nông nghiệp, thuế thương nghiệp, thuế đảm phụ quốc phòng, thuế thổ trạch, ruộng vườn, nhà đất, một trăm thứ thuế. Nhưng bọn địa phương muốn đẻ ra một thứ thuế nữa cũng vẫn được, ai không đóng cho chúng là bị tù, bị giam ngay. Những nhà có máu mặt vô cùng khổ sở với chúng. Dịp lễ lạc gì chúng cũng đến quyên góp, cho ít chúng không vừa lòng. Chúng làm cho những người có chút tiền bạc vì siêng làm, vì hà tiện phải khổ sở vì có tiền hơn chúng. Chúng đì chúng hành tội cho đến khi tay trắng mới yên. Và đó là chính sách của Hồ và đồng bọn, một chính sách ăn cướp cơm chim, ăn cướp cơm của những đứa trẻ mới chập chững vào đời.  
 
Hãy nhìn đồng bào miền Nam sau 30-4-1975 là thấy! Chúng cướp ráo hết kể cả những người xưa là ân nhân chứa chúng trong nhà, nuôi ăn, phục vụ hơn bố đẻ. Có cả ngàn bà Nguyễn thị Năm (Cát hanh Long) chứ không phải chỉ một. Chúng là một bọn bội bạc và đểu cáng chưa từng có ở dưới gầm trời Việt Nam. Bởi thế, thời Pháp thuộc người dân sống với luân thường đạo lý, hiền hậu ôn hòa, tình làng nghĩa xóm đậm đà dù là theo đạo ông bà hay Công giáo, Phật giáo chứ không trở thành kẻ thù của nhau như dưới thời giặc Hồ cai trị nước! Sống dưới thời Hồ, cha con, vợ chồng, anh chị em ruột thịt cũng trở thành kẻ thù không đội trời chung với nhau mà cái nguyên nhân đưa đến sự đó là vì ai cũng cần tiến thân, phải coi đảng bác hơn Thượng Đế!
 
Hồ Chí và bọn thủ hạ thân tín không cần nhân dân mà chỉ cần chúng, bọn đầu trâu mặt ngựa, những con chó trung thành tuyệt đối với chủ, bảo gì làm đó, bảo giết thì giết, bảo đốt thì đốt, bảo phá thì phá nên Hồ và cấp chỉ huy VM tai ngơ mắt điếc những việc tày trời chúng ăn cướp, hãm hiếp, trù dập, đàn áp nhân dân. Khi cấp trên của chúng có hỏi, chúng chỉ trả lời một câu:
       “Đó là bọn phản động, phản cách mạng!” là xong, dù chúng có giết cả trăm, cả ngàn người. Hồ và bọn thủ hạ thấy chúng giết nhiều người lại càng thích vì đi đúng đường lối của bọn Nga-Tàu là giết bớt dân Việt để đào tạo một thế hệ mới đầu óc hoàn toàn bôn-shê-vích mới dễ Cộng sản hoá, mới dễ sai bảo, mới dễ cai trị. Và ngày nay, 2014, mới dễ Tàu hóa!
 
Chính vì bọn du kích xã này mà mẹ, các anh chị tôi và các cháu cũng như hàng triệu dân Bắc Việt, đa phần là Công giáo, không thể rời làng lên Hà Nội để xuống Cảng đặng vào Nam tránh nạn CS. Chính vì chúng mà hàng triệu người lương thiện khóc giở, mếu giở, tài sản tiêu tùng vì bị chúng tịch thu, tay trắng phải cố sống nuôi đàn con dại.
Mới hôm qua chú Kế, người cùng làng, vai em họ xa với thầy tôi rất quí trọng thầy tôi, chú đến gặp tôi hỏi thăm về mẹ và các anh chị, các cháu tôi đã lên được Hà Nội chưa đồng thời cho tôi biết gia đình chú 4 người đã lần mò lên tới Hà Nội. Nhưng còn thím và con cháu gồm 10 người nữa, chú phải bỏ lại dọc đường vì cán bộ VC ngăn cản không cho đi.
Chú Kế nói không dám đi trên lộ mà toàn dùng đường ruộng, lối tắt để tránh những con mắt cú vọ của du kích xã.
Đi đến ngày thứ năm, khi chỉ còn cách một đồn lính Pháp chừng hơn 1km, mọi người mừng rỡ chắc mẩm sẽ nhờ xe nhà binh Pháp chở vào Hà Nội vì Kiếm, người con trai út của chú Kế biết ít tiếng Pháp có thể giao dịch với người Pháp được.
 
Dù Pháp đã đánh nhau với Việt Minh 9 năm nhưng theo kinh nghiệm, Pháp không làm hại các người di cư, mỗi khi có người chạy vào đồn Pháp xin giúp đỡ thì Pháp sẵn sàng giúp ngay nếu những người ấy là dân chạy loạn thật. Trái lại với Việt Minh, họ nghi ngờ hết thảy và dễ dàng bỏ mình vào tù hoặc bắn bỏ. Những người dân nào xưa kia từ vùng VM vào thành đều có kinh nghiệm xương máu đó.
 
Vào được đến Hà Nội là coi như sống, có thể lấy vé xe lửa xuống Cảng dễ dàng để vào Nam. Việt Cộng dù sao vẫn còn sợ những nhân viên Uỷ hội quốc tế kiểm soát đình chiến giữ trật tự cho dân chúng di cư từ Bắc vào Nam hoặc từ Nam ra Bắc theo ý nguyện của mỗi người theo đúng những qui định trong Hiệp định chia đôi đất nước Geneva 20-7-1954. Phạm Xá là ga phải đổi tầu, người bình dân gọi là “tăng bo” (transport), xe lửa từ Hải phòng chỉ lên đến đó rồi trở lại, cũng như xe lửa từ Hà Nội chỉ xuống đến đó rồi quay về. Cán bộ Vẹm rất muốn cản trở đoàn người xuống Hải Phòng di cư nhưng vẫn sợ Ủy Hội Quốc tế kiểm soát đình chiến mà các nhân viên kiểm soát, Canada, Ba lan, Ấn độ v.v… lúc nào cũng có mặt đầy đủ ở Phạm Xá! Nhờ vậy mà hơn một triệu người xuống được Hải Phòng!
 
%%%
 
Cô bạn tôi, Kim Vân, có lẽ đã ngủ nhưng tôi vẫn nằm mở thao láo đôi mắt nhìn lên đình màn.
Chuyện chú Kế kể đã thảm mà những lời lẽ của anh Suý về những nhát mã tấu chặt ngọt xuống cổ 3 nạn nhân bần cố nông nhiều đời làm thần kinh tôi càng tê dại hơn! Trước mắt tôi như vẫn nhìn thấy những cái đầu nhô lên khỏi mặt đất bị những lưỡi cày, răng bừa chém vẹt đi và óc với máu phun ra tung toé ướt đẫm cả một khoảng đất trước sân đình?
“Ai bánh giò nóng”.
Tiếng rao của người đàn bà lảnh lót trong đêm nghe thật buồn. Quê hương tôi, ở ngay thủ đô Hà Nội này mà còn có những người nghèo như thế. Đã hơn một rưỡi khuya mà thúng bánh bán chưa hết để về với con với chồng. Có khi chồng con chị ở nhà đang nấu món gì đó để sáng mai chị đi bán sớm. Dân tôi cơ cực đến như thế mà chẳng ai thương. Pháp đè đằng Pháp, Việt trói đằng Việt. Bao giờ đất nước tôi mới nhìn thấy thanh bình, dân quyền và no ấm? Tương lai mù tăm!
Mới đây tôi cũng được coi lại một đoạn phim thời sự chiếu trên tdngonluan.com mà tôi đã coi ở Sàigòn khoảng những năm 70, tôi thấy đích thân ông Hồ chí Minh mặc một bộ quần áo lụa nâu, nét mặt nghiêm khắc độc ác, xắn tay áo, cầm xẻng xúc đất đổ xuống hố chôn một cặp vợ chồng nông dân bị ghép là địa chủ vừa bị bắt buộc bước xuống đó.
 
Có lẽ không phải chỉ một nơi ông Hồ đích thân đến chứng kiến cuộc đấu tố Cải Cách Ruộng Đất và tiêu diệt địa chủ nhưng là nhiều địa phương, nhiều xã, thôn. Ông Hồ tuyên bố đó là một cuộc cách mạng “đất lở trời long” (chữ ông dùng) vậy ông phải kiểm tra lại hết xem các cấp dưới có làm đúng như các tiêu chí ông đã đề ra cho trung ương để huấn luyện cán bộ tức các anh đội (như đội Bối, đội Cự)về tận các vùng xa xôi hẻo lánh mà tìm ra “địa ác” để tiêu diệt.
 
Xã tôi cũng có ba cặp vợ chồng khi tôi ra Hà Nội rồi thì được tin họ bị án tử hình trong CCRĐ. Làng Xoài và làng Thượng ở Kiến xương, Thái bình, nơi tôi đã đến ở hơn 6 tháng vì chị gái thứ tư của tôi và chồng con chị ở đó. Tôi đã chứng kiến 3, 4 vụ đấu tố địa ác ở đó còn rùng mình kinh sợ nhiều năm sau.
Nằm thao thức mãi đến khi nghe tiếng đồng hồ “côn” điểm 4 giờ, sau đó mệt quá tôi mới thiếp đi.
Chuyện đấu tố CCRĐ do anh Suý kể ở làng Vị Xá của anh còn rất dài bởi còn nhiều nạn nhân như lý Sung, chú ruột anh, ông tổng Xê, người có vài mẫu ruộng cha mẹ để lại, cho bố mẹ anh Súy cấy rẽ và nhiều kẻ khác nữa, nhưng tôi muốn dẫn dắt bạn đọc đi qua một lãnh vực khác có thể là đau thương hơn CCRĐ mà nếu không nhắc nhớ tới, tôi e chính tôi cũng quên luôn dù là người đã chứng kiến tường tận.
 
Những anh chị em Sinh Viên Sàigòn khi xưa sau ngày 30-4-1975, nếu chưa đào thoát ra khỏi nước trong những ngày sau đó ắt nhớ trụ sở Tổng hội Sinh Viên Sàigòn số 4 Duy Tân? Các anh chị chắc cũng còn nhớ anh nhạc sĩ Cộng sản Trịnh công Sơn, từ trưa ngày 30 tháng 4 đã lên đài phát thanh chào đón “bộ đội vào giải phóng Sàigòn”?
Anh ta còn hát nhiều trên đài phát thanh để “Nối vòng tay lớn” mà hoan hô Cộng, người chủ mới của Sàigòn anh ta cố nịnh bợ để mong được chút cơm thừa canh cặn. Nhưng anh ta đã quá thất vọng khi Cộng sản chỉ sử dụng anh ta đến lúc đó với cái chức Trưởng ty Thông tin Sàigòn, một loại tay sai, gia nô, điếu đóm thua cả một ca sĩ hạng bét ở Bắc Việt.
Nhiều người nghĩ là TCS (thằng Cộng sản, chữ của nhà thơ Bùi Giáng) đã đau đớn lắm vì bị phản bội. Thái độ trịch thượng và vắt chanh bỏ vỏ của Việt Cộng nhìn thấy rõ ràng khi TCS, một vài lần đi họp văn nghệ với cán bộ thông tin của CS và những tên nằm vùng hồi trước ở miền Nam, ngơ ngơ ngáo ngáo và trơ trẽn không giống ai khi bọn cán bộ thông tin CS chỉ coi TCS như một cái mền rách đã xài lâu ngày, nay nên được vứt vào thùng rác!
 
Những Huỳnh tấn Mẫm, Hoàng phủ Ngọc Phan, Hoàng phủ Ngọc Tường, Nguyễn đắc Xuân, Tôn thất Tiềm và rất nhiều tên khác cũng cùng chung số phận.
Thành quả của TCS đối với Vẹm chỉ là một cái mảy thành quả của bác sĩ Dương quỳnh Hoa, bộ trưởng Y tế Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam trong nhiều năm trời. Thế mà bác sĩ Hoa cũng phải xin trả thẻ đảng, được chấp thuận với lời hứa là giữ câm miệng hến (về tất cả những thối nát, hủ hoá, đê tiện, bẩn thỉu của đảng Vẹm mà bà Hoa đã chứng kiến tận mắt) trong vòng 10 năm.
 
      DÃ MAN TÀN BẠO HƠN
          TẦN THUỶ HOÀNG 
 
Có dăm bảy SV những niên khoá trước là học trò lớp 12 của tôi môn Triết học, Việt văn hoặc Anh văn sau này sang Hoa Kỳ gặp lại tôi kể cho tôi nghe những vụ đốt sách mỗi buổi tối như các Hướng đạo sinh đốt lửa trại để sinh hoạt.
Trong số này, một cô Sinh Viên hiện đang sống ở TB Texas, tuổi cũng ngoài 50, kể với tôi:
“Thầy biết không? Sách báo do Sinh viên, học sinh đi từng nhà tịch thu vứt lên xe chở về số 4 Duy Tân Sàigòn cao như những đống núi. Thường chúng con tổ chức đốt sách vào buổi tối giống như đốt lửa trại. Có những cuốn Tự điển dầy cộm cả gang tay, những bộ tiểu thuyết 4, 5 cuốn đóng chung, bìa cứng, chữ mạ vàng, những chồng báo hiếm quý từ xưa như Nam Phong, Phong hoá, Trung Bắc chủ nhật, Trung Bắc tân văn, Tiểu thuyết thứ bảy v.v...tất cả phải vào dàn thiêu.
Con đứng đó, là một trong những người phụ trách vứt sách báo vào dàn hoả. Có cuốn con thấy tiếc quá, thay vì vứt vào dàn hoả ở phía trước mặt thì con lại tung mạnh qua đầu về phía sau lưng, qua hàng rào người láng giềng, hôm sau con ghé vào xin lại về đọc vì con đã dặn họ trước rồi.
Con cũng nhìn thấy sách của thầy nữa như sách Triết cho các thí sinh Tú tài II, sách Luận đề về Nguyễn Du, Hồ xuân Hương v.v... nhưng con không làm sao được vì có lúc những cán bộ hay SV lãnh đạo đứng đó, bắt buộc phải thẩy sách vào dàn thiêu. Giả sử có giữ lại được vài cuốn sách của thầy thì dễ gì tìm ra thầy? Khi thầy bỏ dậy tụi con ở trường Thánh Thomas (nhà thờ Ba chuông) thì từ đó chúng con khó tìm ra thầy vì thầy đã đắc cử Dân biểu vào làm việc ở Hạ Nghị viện VNCH. Còn sau ngày 30-4, con xin lỗi thầy có gặp thầy đứng đó con cũng không dám chào hỏi vì họ qui kết thầy là có tội với nhân dân, thầy đã là Dân Biểu Chủ tịch Uỷ Ban tại Quốc Hội Việt Nam Cộng Hoà. Họ thù những người làm việc với chế độ Cộng Hoà lắm thầy à, từ anh binh nhì mà đi, huống hồ thầy là Dân Biểu!”
Cuộc đốt sách năm 1954 khi Việt Minh tiếp thu Hà Nội cũng tương tự như cuộc đốt sách ở Sàigòn tháng 5-1975 như vừa kể ở trên.
Chúng tôi đã nghe đài phát thanh và cán bộ thông tin dùng loa thông báo tại mỗi khu phố về cuộc “thủ tiêu văn hoá đồi trụy” của giặc Pháp sau Tết Nguyên Đán Ất Mùi (1955). Cũng giống như ở Sàigòn sau 30-4-75, các Sinh viên, học sinh đi từng nhà tịch thu hết các sách báo xuất bản trong thời Pháp thuộc ở nước ta. Sách báo của Việt Minh lúc đó hầu như chưa có gì ngoài vài tờ báo Nhân Dân và Quân đội Nhân dân. Vì vậy hễ sách báo tịch thu được là sách báo cần phải đốt cho hết “tàn tích”.
Tôi với Kim Vân và Ngân Hà rủ nhau đi coi một buổi đốt sách ở sân vận động Cột Cờ và vài nơi khác nữa như ở bãi cỏ kế cận thư viện trường Viễn Đông Bác Cổ.
Tôi không nhớ đích xác ngày, mà nhớ để làm chi, chỉ nhớ khi chúng tôi tới nơi thì đã có khoảng ba, bốn trăm người tụ họp ở sân vận động cùng với cờ Máu và biểu ngữ.
Các biểu ngữ viết:
“Cương quyết thiêu huỷ hết tàn tích Văn hoá nô lệ của thực dân Pháp.”
“Kẻ nào còn giữ sách báo của Pháp là muốn làm tay sai cho Pháp.”
“Tiêu diệt cho bằng hết Việt gian bán nước và sách báo của chúng.” v.v...
Hai cái loa bằng tôn thay nhau làm việc hết sức, nói luôn miệng. Mới đầu loa loan báo có “bác” tới chứng kiến, có cả Bộ trưởng Thông tin Tuyên truyền Trần huy Liệu nhưng mãi không thấy đến. Bộ trống ếch của Nhi đồng cứu quốc khua suốt cứ một nhịp điệu đó. Những bài hát kháng chiến được hát liên tục trong khi sách báo như đống núi bị tung vào lò lửa cháy như một cuộc đốt lửa trại.
 
“Một mùa thu năm qua cách mạng tiến ra nước Việt bừng ngàn tiếng xung phong ta đi phá xiềng...
 
Đường ta ta cứ đi, nhà ta ta cứ xây, ruộng ta ta cứ cày đợi ngày. Ngày mai bao ấm no, diệt  tan quân Pháp kia cười vang ta hát câu Tự Do.....
 
Xong bài này đến bài khác, hầu như ai cũng thuộc lòng:
 
Người người đều mong du kích quân, du kích quân
Danh vang  khắp nơi quân thù kinh hoàng
Rừng xanh núi biếc, du kích quân, du kích quân...
 
Sách càng vứt vào hăng thì hát càng hăng, trống ếch theo nhịp cũng khua hăng.
Dưới mắt thế giới, nếu họ nhìn thấy, có lẽ không hoạt cảnh nào mọi rợ, vô văn hoá, tiền sử cho bằng cảnh đốt sách. Hàng trăm ngàn, hàng triệu sách quí, tất cả đều chung số phận. Tôi nhìn những khuôn mặt độc ác và mọi rợ của trẻ con người lớn xung quanh mà rùng mình vì không còn ngôn ngữ tệ hại nào để diễn tả họ nữa. Mọi Phi châu nhảy quanh đống lửa chờ giờ hành quyết một người da trắng mà chúng bắt được đang bị trói thúc ké vào một cây cột cạnh đống lửa trông cũng ác độc mọi rợ đến thế là cùng!
Được khoảng một giờ, trong khi vụ đốt sách còn đang tiếp diễn, tôi bảo Kim Vân và Ngân Hà:
“Chúng ta hãy về, Vân, Hà. Đốt sách là đốt kho của cải tinh thần vô giá của dân tộc. Đâu có hay ho gì mà coi!”
Vân và Hà theo tôi ra khỏi đám đông. Vân bảo tôi:
“Anh nói to quá. Bọn công an chúng nghe được là chúng làm lôi thôi.”
Tôi trả lời:
“Anh biết thế mà không dằn được cơn tức giận. Sao VM nói là làm cách mạng mà đốt sách, chôn người như Tần thuỷ hoàng khi xưa, làm sao họ thu phục được nhân tâm?”
Hà góp chuyện:
“Anh coi. Họ nắm được nhân dân rồi. Tất cả bây giờ trong tay họ. Họ muốn làm tình làm tội sao nhân dân cũng phải câm miệng. Họ đánh thuế còn nặng hơn thực dân Pháp nhưng không ai dám nói một câu vì sợ đi tù. Họ có tiếng là tra tấn rất dã man. Ai không may lọt vào tay họ là chỉ có chết. Không chết cũng tàn phế suốt đời!”
Chúng tôi vừa ra đến cổng sân vận động thì Kim Vân gặp một người bạn. Đó là Thu Trang xưa kia cùng ở đoàn Văn công Nhị Hà B với Kim Vân.
 
20-7-2014 – 20-7-1954
GS Bút Xuân TRẦN ĐÌNH NGỌC
 

Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire