mardi 5 août 2014

Bộ Xương Người Trong Nhà Xí Paul Jennings Nguyễn Xuân Hoài dịch.




1

Thôi được, vậy là các bạn muốn nghe tôi kể về chuyện con ma trong nhà xí. Ai cũng muốn nghe đi nghe lại chuyện này. Thế thì tôi kể lần này là lần cuối cùng. Tôi sẽ kể vào băng.

Ai muốn ghi lại thì ghi. Tôi hay phạm lỗi chính tả. Vả lại tôi cũng chẳng có nhiều thời gian để ghi chép mất công.

Tôi cũng xin nói trước để các bạn biết chuyện này cũng chẳng phải là chuyện cao sang lắm đâu. Nếu như các bạn cảm thấy ghê ghê thì đó là lỗi của các bạn. Tôi xin nói toạc ra nhé. Đã là nhà xí thì cứ gọi béng là nhà xí, vòng vo làm gì. Bạn nào sống ở Australia đều biết Dunny là cái gì. Đó là nhà vệ sinh, nhà xí. Ngoài ra nó còn có nhiều tên khác nữa như ngai vàng, WC, chỗ đại tiện và sấm rền. Tôi còn biết nhiều cái tên khác, nhưng thôi chẳng kể ra ở đây làm gì. Tôi không phải là loại bất lịch sự, nên chỉ muốn nêu đúng sự việc mà thôi.



Đôi khi nhà xí ở ngoài trời. Thông thường nhà xí ngoài trời hay nằm ở góc vườn và thường cách nhà khá xa. Khi mưa thì bị ướt, lúc tối phải dùng đèn pin và dò dẫm mà đi. Lúc xong phải kéo cái dây xích, không có nút bấm hoặc tay vặn mạ kền bóng nhoáng đâu.

2

Nhưng thôi, tôi phải quay lại câu chuyện của mình. Mọi việc bắt đầu khi tôi mười bốn tuổi. Hồi ấy bố mẹ tôi mất trong một vụ tai nạn giao thông và từ đó tôi sống ở nhà dì Flo. Dì ở quê gần vùng Timboon.

Lúc đó tôi tuyệt vọng, đau khổ vô cùng. Tôi đang sống yên lành, trong một ngôi nhà đồ sộ ở thành phố bên cạnh cha mẹ, đùng một cái phải về nhà quê ở với dì Flo bốn bề cây cối rậm rạp um tùm.

Dì Flo thì tốt rồi. Dì cũng chẳng có lỗi gì về tất cả những điều đã xảy ra làm cho tôi vô cùng buồn bã. Chịu đựng được những chuyện như thế không phải dễ.

Nơi ở mới của tôi là một ngôi nhà gỗ cũ kĩ. Xung quanh nhà đều có hiên. Mái bằng tôn, ban đêm khi mưa, nghe như gõ trống.

Trong nhà chỗ nào cũng tối om om, hay nói cho đúng rất ảm đạm. Tất cả các cửa đều có rèm bằng những chuỗi hạt gỗ. Trên tường treo đầy những bức ảnh cũ kĩ, người trong ảnh trông mới buồn làm sao. Tại tiền sảnh có chiếc đồng hồ to tướng của ông tôi. Tiếng tích tắc rất to, ngôi nhà yên ắng đến mức bất cứ ngồi ở phòng nào cũng nghe tiếng đồng hồ rõ mồn một. Không biết tại sao ở trong ngôi nhà này người ta có cảm giác luôn luôn phải thì thầm như ở trong thư viện vậy. Năm học đã hết. Tôi đang nghỉ hè, ở đây chẳng có gì để mà làm. Tôi cũng chẳng quen ai ngoài thị xã vì vậy tôi hay đi săn thỏ hoặc bắt rắn.

Dì Flo đối xử tốt với tôi. Di thương tôi. Dì luôn mồm nói:”Bob, cháu phải béo lên mới được”. Dì hay làm các loại bánh ngọt và bày biện sạch sẽ, đẹp mắt để sẵn trên bàn. Dì nấu ăn ngon lắm và dì cũng đã có tuổi. Dì chẳng hiểu biết mấy về bọn con trai cho nên tôi muốn làm gì thì làm. Dì chỉ có một yêu cầu nghiêm ngặt là muốn đi đâu thì đi nhưng vào giờ uống trà phải có mặt ở nhà. Tôi yêu quý dì nhưng tôi không thích cái hố xí ngoài trời.

3

Một hôm dì cầm tay tôi, tay kia dì cầm một tờ giấy và trịnh trọng nói:

- Dì rất buồn vì những chuyện đã xảy ra với bố mẹ cháu. Dì cũng cảm thấy lo cho tương lai của cháu. Nếu dì chết thì chẳng còn ai lo lắng cho cháu.

Dì thật tốt bụng. Dì rưng rưng nước mắt và nói:

- Để đề phòng một khi chuyện đó xảy ra, dì đã có kế hoạch. Đây là di chúc của dì. Trong này ghi rõ sẽ giải quyết như thế nào về đồ đạc, nhà cửa sau khi dì qua đời. Nếu dì chết thì tất cả là của cháu; ngôi nhà và tiền bạc của dì.

Tôi chẳng biết phải nói thế nào chỉ biết nhìn chằm chằm vào đôi giày của mình. Với những giọt nước mắt long lanh dì nói tiếp:

- Cái duy nhất mà cháu không nhận được là bức tranh của dì bởi vì nó đã biến mất, mất cắp cháu ạ. Một thời gian dài nó là của gia đình. Bức tranh giá trị lắm. Vẽ ngôi nhà này. Ôi ta chỉ mong sao nó sẽ là của cháu.

Tôi làm ra vẻ không trông thấy những giọt nước mắt của dì và hỏi:

- Dì ơi, thế ai lấy ạ ?

- Dì không biết. Hồi đó dì sang Anh hai năm. Trong thời gian này có một ông tên là Old Ned ở đây trông nhà. Khi dì quay về thì ông ta đã chết và bức tranh cũng biến mất.

Tôi hỏi dì, ông ta chết thế nào. Dì bảo:

- Dì không biết. Dì tìm thấy ông trong nhà xí ở sau vườn. Có lẽ ông ta đã phải ở đấy ít ra là một năm. Ông chỉ còn là một bộ xương ngồi trong nhà xí.

4

Trời đất. Một câu chuyện rõ hay. Có người đã bị chết trong nhà xí.

Chắc các bạn có thể tưởng tượng rằng tôi không thích lắm mỗi khi phải vào nhà xí này. Người ta phải đi một quãng đường dài đầy cỏ dại. Cành cây lòa xòa nhiều khi làm xước cả mặt. Bên trong thì tối thui đèn đóm chẳng có và đầy mạng nhện. Cũng chẳng có giấy vệ sinh, chỉ thấy một cái đinh đóng vào tường với ít tờ báo. Báo chẳng bỏ đọc, toàn những chuyện chán ngắt. Tôi chờn chờn khi thấy mạng nhện giăng đầy, biết đâu lại chẳng có loài nhện độc. Đã có bài hát về loài nhện độc này ngồi trên xí bệt. Nhưng khi tụt quần ngồi trong nhà xí thì chắc chắn chẳng có ai thấy buồn cười, tôi cầm chắc như thế.

Nhện độc rồi mạng nhện và chuyện về bộ xương khiến tôi hoàn toàn không muốn ngồi một mình trong nhà xí và khóa trái cửa lại, nhất là vào ban đêm. Ban đêm bao giờ cũng bí ẩn và rờn rợn.

Một hôm tôi buộc lòng phải vào nhà xí. Để đỡ sợ, tôi bắt đầu đếm những cái lỗ trên tường. Đó là những mắt gỗ trên các tấm ván, ánh sáng yếu ớt chiếu qua những cái lỗ này. Tôi đếm đến lỗ thứ hai mươi bỗng tóc tai dựng đứng, sởn cả gai ốc.

Có một con mắt đang nhìn tôi chằm chằm xuyên qua cái lỗ nhỏ.

Mà không phải là con mắt thông thường đâu. Tôi có thể nhìn thấu qua nó, thấy cây cối sau con mắt đó. Rõ ràng không phải mắt người.

Tôi vội vàng kéo thốc quần lên, chưa bao giờ tôi làm nhanh đến như vậy, rồi chạy nhanh như chớp vào nhà.

Tôi kể với dì Flo về điều đã xảy ra, nhưng dì không tin tôi. Dì nói:

- Làm gì có ai ở đó, cháu chỉ rõ vớ vẩn.

5

Các bạn có thể tưởng tượng lúc đó tôi như thế nào chứ ? Thôi, từ nay thì cạch đến già. Tôi sẽ không bao giờ đặt chân tới chỗ đó nữa. Dứt khoát không. Các bạn hãy tưởng tượng xem. Đêm tối như mực, phải ra tít góc vườn ngồi thu lu trên cái bệ xí trước đó đã có một xác người cũng từng ngồi ở đấy! Mà nào chỉ có chết không đâu, chết đến thối rữa ra, chỉ còn trơ lại bộ xương. Đấy là không nói chỗ đó đầy mạng nhện, nhện độc và con mắt. Những con mắt nhìn trộm bạn xuyên qua các lỗ ván nhà xí.

Tôi đã quyết không bao giờ đi đến chỗ đó nữa. Không bao giờ.

Đến cả tuần tôi không ra nơi đấy. Tôi mỗi ngày một thêm khó chịu, nặng nề. Dì tôi bảo:

- Cháu làm sao thế, táo bón hả. Ra đây dì cho uống mấy giọt thuốc tẩy.

Thuốc rất hiệu nghiệm. Tôi bị “ Tào Tháo “ đuổi. Chạy suốt ngày. Có thể nói gần như cả ngày tôi giam mình ở cái chỗ khủng khiếp đó. Nhưng sợ nhất là vào ban đêm…

Tất nhiên chuyện đó không thể tránh được : đêm tôi cũng phải ra nhà xí. Tôi cầm chiếc đèn pin và đi chầm chậm, đường tối mù mù. Lá cây xào xạc, có tiếng gì như tiếng thở dài. Tôi nhủ thầm chắc là chim, cầu trời đó là một con chim. Chắc chỉ có thể là chim được thôi.

Thế rồi tôi cũng đến được hố xí. Tôi đi vào, đóng cửa, cài then thật chặt. Tôi chưa kịp ngồi xuống đã xảy ra một chuyện khủng khiếp. Đèn pin vụt tắt. Hết pin. Tôi phải kể các bạn biết khi tôi sợ thì như thế nào. Răng tôi đánh vào nhau lập cập. Kêu to lắm kia, klắc, klắc, klắc.

Thế là tôi ngồi im trong bóng tối răng đánh vào nhau liên hồi. Tôi cố gắng để không run, nhưng không được. Có lẽ ai đứng xa cả dặm cũng nghe thấy tiếng lập cập ở đây.

Tự nhiên trong đầu tôi hiện lên toàn những thứ quái đản: con mắt, bầy dơi, quỷ sứ, bọn giết người. Tôi sợ tưởng chết đi được và chỉ muốn chạy ra khỏi nơi này thật nhanh. Răng tôi đập vào nhau mỗi lúc một to hơn.

Thế rồi trăng hiện lên qua đám mây. Ánh trăng luồn qua kẽ cửa. Tôi thấy dễ chịu hơn, nhưng cũng chỉ được một giây đồng hồ. Khi tôi ngẩng lên, tim thót lại. Một cái mặt nhìn tôi. Đó là mặt một ông già. Ông ta có râu và đội hùm hụp cái mũ. Ông đứng một chỗ và nhìn tôi chẳm chẳm qua cánh cửa. Nhưng cái đáng sợ, đáng sợ kinh khủng là: Áng trăng rọi thấu qua người ông ta.

6

Tôi không thể ra được. Ông ta đứng choán ngay ngoài cửa. Tôi như ngồi trong bẫy. Tôi hốt hoảng hét thật to:

- Dì ơi, dì ơi, cứu cháu với, cứu cháu với, ma, ma!

Hình như cái mặt đó có vẻ sợ và biến mất. Tôi không để phí một giây, đạp cửa và chạy một mạch ra ngoài. Bốp, tôi ngả sấp đập mặt xuống đất. Tôi quên không kéo quần lên. Khi mặc xong quần thì bóng ma biến mất. Tôi ba chân bốn cẳng vừa chạy vừa gọi tên dì tôi.

Nhưng dì Flo không tin tôi, dì biết tôi hay sợ. Dì không thể tưởng tượng ra những điều tôi kể cho dì nghe. Dì nói:

- Vớ vẩn, làm gì có ma. Dì ở đây sáu chục năm trời rồi mà có thấy con ma nào đâu.

Cố lấy lại bình tĩnh, tôi gượng cười. Dì không cười đáp lại, mà hà hốc mồm nhìn tôi rồi kêu lên thất thanh:

- Bob, cháu mất một cái răng.

Tôi đưa tay lên miệng. Không còn nghi ngờ gì nữa, tôi mất chiếc răng cửa, mất rất gọn. Có lẽ lúc nãy tôi sợ quá, răng đánh vào nhau lập cập nên gãy mất đây mà. Thủ phạm gây ra chuyện này chính là con ma. Chính nó đã làm cho tôi sợ hết hồn.

Dì tôi nói:

- Có lẽ do cháu bị ngã lúc nãy.

Bà thay pin đèn. Sau đó hai dì cháu đi tìm cái răng, nhưng không thấy. Và cả con ma cũng không để lại một dấu vết nào.

Ngày hôm sau dì đưa tôi đến chỗ ông nha sĩ. Ông bảo phải làm một miếng gá.

- Răng cháu gãy rồi, cái mẩu còn lại thì bị vỡ.

Tôi hỏi ông:

- Miếng gá là gì ạ?

Ông bảo:

- Đại loại như một cái hàm nhưng cháu chỉ cần một chiếc răng giả. Mà cháu phải chú ý giữ gìn nó vì làm răng giả là tốn tiền lắm đấy. Tối nào cháu cũng phải lấy nó ra để cọ rửa và ngâm vào một cốc nước. Cháu đừng ăn những thứ dai, cứng để tránh làm hỏng.

Tiền làm răng giả hết 200 đô la. Các bạn có tưởng tượng được không. Hai trăm đô la nhé. Dì tôi phải trả tiền. Đấy là một khoảng tiền lớn. Tôi hứa với dì là phải hết sức chú ý giữ gìn cái răng giả. Tối và sáng nào tôi cũng làm vệ sinh cái răng. Khi tôi lên giường đi nằm dì kiểm tra cái hàm giả, nếu chưa ưng ý dì bắt tôi phải cọ rửa lại. Ban ngày dì không cho tôi được lấy chiếc răng giả ra khỏi mồm vì sợ tôi làm mất.

Cái con ma này làm cho dì và tôi biết bao chuyện phiền toái. Tôi mất một cái răng còn dì mất 200 đô la.

7

Chừng một tháng liền tôi không thấy ma. Ban đêm tôi vẫn tránh không vào nhà xí, ban ngày không thấy nó xuất hiện. Tuy vậy khi buộc phải đi bao giờ tôi cũng cố gắng đi thật nhanh.

Tôi suy nghĩ rất nhiều về con ma. Nó là ai? Tại sao cứ lẩn quẩn ở nhà xí? Tôi hỏi dì Flo về ông Old Ned, người đã chết trong nhà xí.

- Dì ơi, ông già ở nhà mình hồi dì bị mất bức tranh ấy, hình dáng ông ta thế nào?

Dì buồn buồn nhìn về nơi bức tranh treo hồi xưa. Sau đó dì nói:

- Ông ấy bao giờ cũng đội một cái mũ cũ và có bộ râu dài màu xám.

Thế là tôi nhận ra ngay con ma đó chính là ông già Old Ned. Tôi cảm thấy thương thương ông ta. Cac bạn cứ thử tưởng tượng mà xem, một năm liền bộ xương phải ngồi trong nhà xí.

Mặc dù vậy tôi vẫn ước giá ông ấy biến đi. Tôi không muốn trông thấy ông một lần nữa. Nhưng rồi việc đó lại xảy ra.

Một đêm nọ tôi lại phải ra đó, tất nhiên các bạn biết để làm gì rồi. Tôi cầm đèn pin, chìm trong bóng tối và đi về phía góc vườn. Tôi cảm thấy sợ thật sự. Răng tôi lại run lập cập, chúng đánh vào nhau khá mạnh.

Tôi nghĩ, không khéo vỡ mất cái răng giả, vì thế tôi lấy nó ra và cầm ở tay. Tôi ngồi, một tay cầm cái răng giả, những cái răng thật thì đánh vào nhau lập cập đủ để dựng người chết sống lại. Tôi để hé cửa. Nếu ông Old Ned xuất hiện tôi sẽ ù té chạy tức thì. Tôi không muốn bị nhốt một lần nữa.

Tôi hoàn thành cái việc phải làm rồi kéo quần lên. Khi tôi dang tay kéo cái dây xích tôi cãm thấy như có ai đó nhìn mình. Hai tay tôi bắt đầu run, run như điên. Cái răng tuột khỏi tay và rơi vào lỗ hố xí. Nó bị nước xối đi.

Khi tôi quay người thì thấy ông già Old Ned đứng lù lù trước mặt. Tôi có thể nhìn thấu qua con người ông xuyên qua cái mũ, bộ râu, bàn tay ông và mặt ông.

Trông ông buồn buồn. Tôi không bỏ chạy. Giờ đây, khi lần đầu tiên tôi nhìn rõ mặt ông, tôi không thấy sợ nữa. Hình như ông muốn nói điều gì, miệng ông mấp máy nhưng không bật ra tiếng. Ông chỉ tay vào cái gì đó, chỉ lên mái nhà xí, tôi ngước nhìn lên nhưng chẳng thấy gì. Chỉ có cái mái nhà cũ kĩ hoen gỉ.

Tôi nghe thấy tiếng của mình:

- Ông muốn gì, tại sao ông cứ luẩn quẩn theo cháu ở đây?

Ông không nghe tiếng tôi nói, tiếp tục chỉ tay lên trên mái nhà xí rồi thoắt cái tôi thấy ông tan dần, tan dần rồi biến mất.

Tôi chậm rãi đi qua vườn và không còn thấy sợ con ma này nữa. Nó thật vô hại. Bây giờ tôi lại sợ về một chuyện hoàn toàn khác. Nếu lúc này mà dì Flo biết tôi bị mất cái răng!

8

Sáng hôm sau tôi dậy rất sớm. Tôi lấy giấy viết mấy chữ cho dì Flo:

Thưa dì

Cháu đi đằng này bằng xe đạp

Đến giờ uống trà cháu về

Bob.

Tôi lên đường đi tìm cái răng. Tôi phải tìm thấy nó trước khi dì tôi biết chuyện. Tôi biết hệ thống xử lí phân ở chỗ nào. Cái răng của tôi bị rơi từ hướng bắc.

Đường đi tới đó vừa bụi, vừa xa lại nắng nóng. Đàn bò nằm nhai lại dưới gốc cây to. Tôi không thể ngồi nghỉ được, tôi phải phóng thật nhanh. Gần trưa, tôi tin rằng sắp đến nơi. Tôi đã ngửi thấy cái mùi nồng nặc khó chịu. Càng đến gần mùi hôi thối càng bốc lên mạnh hơn.

Cuối cùng tôi đã tới trạm chứa và xử lí chất thải. Xung quanh trạm là hàng rào bằng dây thép khá cao. Bên trong có nhiều bể lớn máu nâu. Chính giữa những cái bể đó có một ngôi nhà nhỏ. Tôi thấy một người đang hí húi viết cái gì đó ở trong nhà. Đúng là người đàn ông này phải làm một cái nghề khó chịu nhất thế giới. Ông phải làm việc ở một nơi hôi hám bẩn thỉu kinh khủng. Nhưng hình như cái đó không làm ông khó chịu. Một tay bịt mũi, một tay tôi gõ vào cánh cửa để ngỏ.

Ông nói:

- Mời vào! Tôi có thể làm gì cho cậu?

Đó là một người đàn ông nhỏ bé, hói trán và đeo kính. Ông tỏ ra rất niềm nở. Ông cũng không khó chịu khi thấy tôi bịt mũi.

Tôi nói:

- Xin lỗi bác, bác có trông thấy một chiếc răng giả không? Nó trôi theo nước thải ấy mà?

Bịt mũi mà nói không phải dễ, nghe cứ như là bị ngạt thở.

- Răng giả hả, ở đây có cả đống.

Ông đi ra phía bở tường, ở đó có một loạt giỏ, mỗi giỏ đều có kèm thao tờ phiếu cái thì ghi “bút bi, bút chì”, ở cái giỏ khác thì ghi “đồng hồ”. Rồi ông đặt trước mặt tôi một cái giỏ đấy răng giả.

Tất cả đều cáu bẩn, màu nâu. Ông ta đưa cho tôi một cái kẹp và tôi từ từ lục tìm từng cái một. Tôi nói thật, tôi cảm thấy lộn mửa. Cuối cùng tôi cũng tìm thấy một cái hàm giả có một răng. Nhưng trông nó thật kinh, nâu nâu, nhầy nhầy mà lại còn thối nữa. Từ nay trở đi tôi sẽ luôn luôn bị ám ảnh cái răng đã từng ở đâu và tôi tìm thấy nó ở chỗ nào.

Chẳng biết có lúc nào đó tôi cho nó vào mồm nữa hay không. Tôi gói nó trong chiếc khăn tay, đút vào túi rồi chậm chạp đạp xe trở về. Vừa tới nhà tôi đi ngay vào phòng tắm cọ rửa cái răng giả. Tôi cọ lấy cọ để, chà đi xát lại, nó có vẻ sạch hơn nhưng cái răng không trắng ra được. Tôi cho vào nước đun hồi lâu nhưng nó vẫn còn hơi xam xám. Tôi không thể làm hơn được nữa.

Tôi để cái răng giả lên bàn, nhìn nó chằm chằm rất lâu. Sau đó tôi cầm cái răng, nhắm mắt lại và ấm thật nhanh vào mồm.

9

Ông Old Ned còn nợ tôi mấy câu trả lời. Xét cho cùng ông đã làm cho tôi gặp bao chuyện lôi thôi. Tuy thế tôi vẫn thấy thương ông. Thật chẳng vui sướng gì khi cứ phải quanh quẩn trong nhà xí. Tôi nghĩ, nhưng tại sao lại đúng ở chỗ ấy và tại sao trông ông buồn như vậy. Tôi quyết định đến thăm ông và nói chuyện với ông. Giờ thì tôi không còn sợ ông nữa.

Tôi đợi cho tới khi dì Flo đi ngủ. Sau đó tôi lấy chiếc đèn pin và đi ra nhà xí. Gió to như có bão. Mặt trăng bị mây che lấp, cây cối nghiêng ngả đung đưa. Lá cây như quất vào mặt tôi. Dường như con đường đi tới nhà xí hôm nay thật là dài.

Ngôi nhà nhỏ như trống rỗng. Không hề có một chút dấu vết nào của ông Old Ned. Trời lạnh. Tôi đi vào và ngồi xuống.

Tôi ngồi yên và chờ khá lâu. Gió càng ngày càng thổi mạnh hơn. Cánh cửa đóng sầm lại. Mặt trăng bị mây che khuất. Bốn bề tối om.

Nhà xí bắt đầu chao đảo. Gió giật và gào thét. Lúc đó các bức tường rung rung oằn xuống như muốn ụp lên người tôi. Căn nhà nghiêng ngả rồi đổ nghiêng sang một bên. Tôi hoa cả mắt rồi lịm đi.

Khi tôi tỉnh dậy gió đã lặng xuống. Đầu tôi bị đau. Ngoài ra, mọi cái đều ổn. Tôi không bị gãy xương. Có ai đó cúi xuống gần người tôi. Đó là ông Old Ned. Trông ông vẫn như mọi khi. Tôi có thể nhìn thấu người ông. Nhưng kìa, ông mỉm cười. Ông tỏ ra vui mừng và chỉ vào chỗ mái nhà xí bị vỡ tan. Tôi nhìn quanh. Bên dưới tấm tôn ló ra chiếc khung ảnh. Đó là bức tranh bị mất, bị đánh cắp của dì Flo.

Tôi lấy bức tranh ra và kẹp vào nách. Dì Flo chắc sẽ vui lắm khi nhận lại được bức tranh này.

Tôi đang định nói lời cảm ơn thì đã thấy ông bay từ từ lên trời cao. Trông ông thật thanh thản, dường như ông vui vì được rời khỏi trái đất này.

Ông bay về hướng mặt trăng, nhỏ dần, nhỏ dần. Cuối cùng tôi không còn trông thấy hình bóng ông nữa. Ông đã biến mất. Tôi hiểu rằng ông sẽ không bao giờ quay trở lại nữa.

10

Dì Flo rất mừng vì tìm thấy bức tranh, dì đã khóc vì sung sướng. Dì treo bức tranh vào chỗ cũ và ngắm nhìn nó không biết chán.

Tôi hoàn toàn không kể với dì về ông Old Ned. Vả lại có kể thì dì cũng không tin. Nhưng tôi nghĩ giờ thì tôi có thể hiểu được điều gì đã xảy ra. Ông Old Ned đã lấy cắp bức tranh và giấu trên mái nhà xí. Khi chết linh hồn ông không tìm được sự bình yên và ông không sang được thế giới bên kia bởi vì ông đã làm điều xấu.

Chính vì vậy ông phải luẩn quẩn quanh khu nhà xí và hi vọng dì Flo tìm lại được bức tranh của mình. Dì tìm được bức tranh ông mới được tự do. Ông bay lên trời cao, ông đang trên đường đi đến một thế giới tốt đẹp hơn. Cho dù thế giới đó ở tận nơi nào.

Dì Flo cho làm một buồng vệ sinh mới. Một buồng vệ sinh ở trong nhà. Tất cả các thứ trong đó đều bóng nhoáng và sạch bóng. Xối nước bằng nút. Không có nhện, mạng nhện và không có ma.

Câu chuyện của tôi đến đây gần như kết thúc. Trừ một việc.

Một hôm tôi ngắm nhìn bức tranh của dì Flo. Đây là bức tranh về ngôi nhà của bà khi vừa mới xây dựng xong. Xung quanh chưa có cây cối um tùm như bây giờ. Tít phía sau là nhà xí, cửa để mở. Tôi nhìn cái nhà xí ở trong tranh rất kĩ. Rõ ràng có ai ở trong đó! Ngồi trên bệ hẳn hoi! Tôi lấy chiếc kính phóng đại. Thật không sai.

Người ngồi đó là ông Old Ned với cái mũ và bộ râu dài. Trông ông vui vẻ. ông đang cười, mắt nheo nheo.

Ông nháy mắt với tôi.

Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire