lundi 22 septembre 2014

Đỉnh Sóng dịch bài Kịch bản Chợ Trời Mỹ-Tàu-DoThái


Kịch bản Chợ Trời Mỹ-Tàu-DoThái
(Alliance Between China and Zionism) - Phỏng theo K R Bolton  và Daily Stormer

* "It is an obvious fact that the Jews control America. In foreign nations, where the media and academia are still run by gentiles, this fact is widely known and discussed. Jews in America and other Western nations are often alarmed at this frankness, but at the same time they are flattered when their dominance is admired." – Daily Stormer
(Hiển nhiên là Do Thái điều khiển nước Mỹ. Ở ngoại quốc, khi truyền thông và đại học hãy còn trong tay những người không phải là Dó Thái, sự kiện trên được rộng rãi nhìn nhận và bàn tán. Người Do Thái ở Mỹ và ở những quốc gia Tây Phương khác thường được báo động về thực trạng  đó, nhưng đồng thời họ cũng hài lòng khi sự thống trị của họ được khâm phục.)
* "The world's wealth is in Americans' pockets; Americans are in Jews' pockets." – A Chinese Newsweekly headline
(Của cải thế giới nằm trong túi người Mỹ; người Mỹ nằm trong túi người Do Thái.)
* "They have our soul, who have our bonds." - Jonathan Swift.
(Ai nắm trái phiếu của chúng ta, người đó nắm linh hồn của chúng ta.)
  
Trong New York Post, 3/30/1997,  Uri Dan cho biết, vào năm 1979, Thủ tướng Do Thái Menachem Begin nhận được sự chấp thuận của Mỹ cho phép Shaul Eisenberg tiến hành một hiệp thương 10 năm trị giá 10$ tỉ dollars để hiện đại hóa quân đội Trung Quốc (TQ). Uri Dan mô tả hiệp thương nầy như là "một trong những hiệp thương quan trọng nhất trong lịch sử Do Thái," và "Trung Quốc nhấn mạnh phải giữ bí mật tuyệt đối."
Do Thái đóng vai trò chính trong việc cung ứng vũ khí cho TQ, kể cả những trang bị quân sự tối tân do Mỹ sản xuất; và vai trò nầy nhiều lần đã trở nên một vụ tai tiếng công cộng trong thập niên vừa qua.
Trong năm 1999, tờ New York Times phúc trình: "Do Thái từ lâu đã có một quan hệ quân sự mật thiết và bí mật với TQ. Các chuyên gia vũ khí cho biết những quan hệ nầy đã đưa đến những vụ bán vũ khí trị giá lên đến hàng tỉ dollars trong những năm gần đây và đã gây nên nhiều quan ngại ở Hoa Kỳ." Xin ghi nhận: tờ New York Times  nói rằng những quan hệ giữa  Do Thái và TQ là mật thiết, bí mật, và lâu dài.
Elta, một chi nhánh của Israeli Aircraft Industry, đã thiết kế hệ thống radar tối tân Phalcon cho không lực TQ.
Năm 1999, Howard Phillips phúc trình:
Do Thái là nguồn cung ứng vũ khí lớn thứ nhì cho TQ. Một báo cáo gần đây của Kenneth W. Allen và Eric A. McVadon thuộc Trung Tâm Henry L. Stimson Center, một tổ chức nghiên cứu ở Washington, cho biết Do Thái đã cung ứng cho TQ một loạt những vũ khi, kể cả những thiết bị điện tử cho xe tăng, truyền tin và trang bị quang học, phi cơ và hỏa tiễn, trong một quan hệ đã có ít nhất từ hai thập niên trước.
Trong khi đó, mãi đến năm 1997 quan hệ ngoại giao chính thức mới được thiết lập. Bản báo cáo viết tiếp:
Cả TQ lẫn Do Thái đều tỏ ra hưởng lợi về quân sự và chính trị từ quan hệ mua bán vũ khì và chuyển giao kỹ thuật. Ngoài việc kiếm tiền từ TQ, một số viên chức Do Thái ngụy biện rằng việc bán vũ khí và chuyển giao kỹ thuật quân sự cho TQ sẽ buộc TQ cam kết không bán vũ khí cho những kẻ thu của Do Thái ở Trung Đông.
Như thế quan hệ bí mật về mua bán vũ khí và chuyển giao kỹ thuật quân sự đã được tiến hành từ thập niên 1970.
Những phản đồi  của Mỹ đối với việc Do Thái chuyển giao những hệ thống quân sự tối tân cho TQ chỉ là trống rỗng. Những phản đối giả vờ đó của một quốc gia bợ đỡ Do Thái chỉ là trò nhảm nhí, vì chính Mỹ lúc đó đã dấn thân vào cùng một quan hệ tương tự với TQ (cũng như đã từng chấp thuận những hiệp thương của Eisneberg với TQ).
  
Nghi án Bill Clinton
Một phúc trình khác vào thời đó nói về chính quyền  Bill Clinton:
Không như những người tiền nhiệm của ông, Cộng hòa hay Dân chủ, Clinton đã chuyển quyền luật định tối cao từ Bộ Ngoại Giao vốn lo quan tâm về anh ninh sang Bộ Thương Mại vốn quan tâm về chính trị; và quyền luật định đó là chấp thuận xuất khẩu những giấy phép về kỹ thuật tối tân của Hoa Kỳ. Việc chuyển quyền như thế có mục đích tạo điều kiện dễ dàng cho việc xuất khẩu nói trên.
Clinton cũng là tổng thống đầu tiên  và duy nhất đã chập thuận miễn trừ để cho phép hai công ty— Loral Space and Communications and Hughes Electronics —được quyền xuất khẩu những bí mật kỹ thuật giữa lúc hai công ty nầy đang bị điều tra hình sự về những vi phạm xuất khẩu trước kia. Đích thân Clinton đã chấp thuận cho hai công ty nầy xuất khẩu sang TQ những dữ liệu của họ liên quan đến kỹ thuật phóng vệ tinh và hỏa tiễn bất chấp sự phản đối của ngoại trưởng Mỹ thời đó, của Ngũ Giác Đài , và những cơ quan khác.
Sau khi một vụ đi đêm giữa TQ và Do Thái bại lộ và bị hủy bỏ, những nhà ngoại giao Do Thái và TQ gặp nhau để giải quyết những khó khăn. Một tờ báo Do Thái thuật lại:
JERUSALEM – Bộ Trưởng Quốc Phòng Binyamin Ben-Eliezer đã họp với Đại Sứ TQ Pan Zhanlin ở Tel Aviv hôm Thứ Hai để bàn về việc hủy bỏ dự tính của Do Thái bán hệ thống radar tối tân Phalcon. Ben-Eliezer đánh giá những quan hệ giữa hai nước và nhận xét sự vụ như sau: "Chúng ta phải thấy đó như là một trục trặc trong gia đình chứ không phải là một khủng hoảng giữa hai quốc gia."
Ben-Eliezer hứa sẽ cố gắng để tăng cường mối quan hệ với Bắc Kinh. Zhanlin nói với Ben-Eliezer, "Tôi tin TQ biết cách giải quyết những khó khăn và tăng cường mối quan hệ, TQ chuẩn bị đầy đủ để hợp tác với Do Thái."
Vụ đi đêm bị hỏng vì những lo ngại của dân chúng Hoa Kỳ
  
Tóm lại:
- Đây có phải là hậu quả tất yếu của quan hệ con nợ/chủ nợ? Con  nợ là nhân dân Hoa Kỳ trong khi chủ nợ, không chỉ có Trung Quốc, mà cà tập đoàn tài phiệt Do Thái.
- Chú Sam chung qui chỉ như tay cao bồi bị đám tài phiệt Do Thái xỏ mủi dắt đi và trói chặt ở Trung Đông để chống lưng cho chúng.
- Các quốc gia Á Châu hãy sớm từ bỏ hoang tưởng về chiêu bài chuyển trục sang Thái Bình Dương của Mỹ. Tốt nhất nên tự lo lấy thân. Á Châu nói chung và TQ nói riêng là vùng đất làm giàu của Do Thái và của các tập đoàn Mỹ-DoThái, ở đó sẽ không có chiến tranh hay đối đầu đích thực mà chỉ có sách nhiễu để những tập đoàn nầy thừa nước đục thả câu, bán chiến cụ vũ khi để làm giàu thêm, thế thôi. 
- Việt Nam chẳng là cái gì trong kịch bản Chợ Trời Mỹ-Tàu-DoThái nầy. Đảng Cộng sản VN chẳng qua cũng chỉ là một quái thai của tập doàn chợ trời tay ba Mỹ-Tàu-DoThái. Bao lâu còn đảng Cộng sản trên đất nước Việt Nam, bấy lâu dân tộc Việt Nam còn chịu ách thống trị của tập đoàn quốc tế nham hiểm đó.
- Không có thứ "hợp tác đối tác chiến lược" nào "toàn diện" hơn loại hợp tác chợ trời mang đầy đủ những sắc thái xã hội đen như thế. Đến lúc cần xét lại những "danh ngôn" như "Theo Tàu thì mất nước, theo Mỹ thì mất đảng." Theo bên nào cũng đi về âm phủ cả. "De deux côtés le maleur est infini." Tránh tên trọc phú gặp thằng sở khanh. Hiện cảnh đó có thể được xem như một định đề bao lâu các tập đoàn tài phiệt Do Thái còn ngự trị Hoa Kỳ và, như  một tham vọng bá chủ thế giới, cố tình bành trướng chủ nghĩa Judaism sang các lục địa khác, trong đó có TQ.
- Những người cộng sản, nếu thích, cứ tiếp tục ôm não trạng vọng Mỹ và cầu Mỹ với những lời phán ra như sấm, "Liên minh quân sự với Hoa Kỳ là mệnh lệnh của thời đại." Nhưng đừng để đến gần sáng mới biết mình đi trong mộng du.
- Đỉnh Sóng




Năm Điều Cần Biết về Kinh Tế Trung Quốc




Keith Fitz-Gerald


Chuyển ngữ:  Lương Tấn Lực


(Quan điểm của tác giả không nhất thiết phản ảnh quan điểm của người chuyển ngữ)





Bill Gross, Giám Đốc một cơ quan đầu tư lớn nhất thế giới, tuyên bố một ngày nào đó Trung Quốc sẽ phải đối phó với cái bong bóng do chính họ tạo ra, vì sự phát triển kinh tế của nước nầy có thể bị ngưng trệ vì mất đi nhu cầu tiêu dùng từ những quốc gia đối tác như Hoa Kỳ.  Nói cách khác, quốc gia nầy hướng đến một chính sách xuất cảng nhưng lại không tìm được khách hàng tiêu thụ, đây là vấn đề thực sự đối với họ.  Hiểm họa có tính cách hệ thống xuất phát từ hiện tượng bong bóng tài chánh mới nẩy sinh trên kinh tế và thị trường toàn cầu đang gia tăng do việc Quỷ Dư Trử Liên Bang giữ lải suất ở mức thấp kỹ lục.  Tổ chức Phát Triển và Hợp Tác Kinh Tế và các giới chức hàng đầu của Á Châu cũng đang báo động về hiện tượng bong bóng trong vùng.





Tuy nhiên, kết cuộc sẽ xảy ra thế nào và lúc nào thì không ai rõ.





Do đó, khi nói về Trung Quốc chúng ta cần phải nắm vửng những sự kiện. 





Năm tiền đề kinh kế dưới đây của TQ không những chĩ đánh đổ những huyền thoại phổ biến rộng rải về đầu tư nước ngoài (như vừa nêu trên), chúng còn đưa đến một kết luận duy nhất:  Nếu muốn đầu tư dài hạn thì người ta không thể làm ngơ TQ.





TIỀN ĐỀ 1 – Phát sinh của xu thế tiêu dùng: Theo tài liệu thống kê quốc gia TQ, chi tiêu bán lẻ toàn quốc tăng 16.2% trong tháng Mười và sẽ đạt từ 15% đến 19% toàn năm 2009.  Nếu con số thống kê là đúng thì khi năm 2009 kết thúc tổng chi tại TQ sẽ tăng lên hơn cả tổng chi của cả Hoa Kỳ, Liên Hiệp Âu Châu, và Nhật Bản gộp lại.





Tất cả các kích tố thích hợp đã được thực hiện.  Những chương trình kích cầu của chính phủ - gồm việc giảm giá trên những mặt hàng điện tử gia dụng và giảm thuế đối với những loại xe xả khói ít – đã giúp số lượng xe bán ra tại TQ tăng 43.6% trong tháng Mười.  TQ ngày nay là thị trường mua bán xe lớn nhất thế giới, qua mặt Hoa Kỳ từ đầu năm nay.  Máy móc gia dụng bán ra cũng tăng vọt, tăng hơn 35%.  Ngay cả kinh doanh địa ốc cũng đang phục hồi, đặc biệt tại những tỉnh miền Tây TQ.





Mặt khác, chĩ trong ba tháng cuối năm, chi tiêu nhà nước và sản xuất điện kỹ nghệ tăng gần 20%.  Trong thập niên vừa qua tiêu thụ điện tại TQ đã tăng gấp đôi.  Để bắt kịp đà tiến, TQ xây dựng một nhà máy điện có khả năng, trong một ngày, có thể cung ứng điện sữ dụng cho 9 ngày đối với một thành phố như Kansas City hay 30 ngày đối với một thành phố như Philadelphia.





Vì mối tương quan giửa tiêu thụ điện và tăng trưởng kinh kế, sự phát triển rầm rộ những nhà máy điện  là bằng chứng cho thấy rõ TQ đang phát triển - chứ không phải khựng lại.  Bắc kinh muốn đảm bảo sẽ tránh được những lần mất điện kéo dài khiến gây trở ngại cho tăng trưởng kinh tế.





Text Box:  TIỀN ĐỀ 2 – Phát triển dịch vụ:  Khu vực dịch vụ của TQ ngày nay tăng nhanh gấp hai lần so với các khu vực xây dựng và hạ tầng.  Theo đồ biều bên cạnh, hơn 30% công nhân TQ làm việc trong khu vực đệ tam (dịch vụ). Và đó chĩ là mới bắt đầu phát triển thôi:  Bắc Kinh đã khôn khéo điều dụng phần lớn những chương trình kích cầu của họ vào lảnh vực dịch vụ.  Đó là một phần kế hoạch của Băc Kinh nhằm thúc đẩy nhu cầu nội địa, một sáng kiến nhằm giảm thiểu sự lệ thuộc vào xuất cảng qua một Phương Tây đang suy yếu và biến TQ thành một nền kinh tế độc lập, cường thịnh hơn.





Phẩm chất của các công việc dành cho công nhân TQ cũng trên đà tăng tiến.  Ví dụ, trong khu vực đệ nhị (kỹ nghệ), các công ty tư doanh sữ dụng hơn 70 triệu công nhân trong năm 2008, theo con số mới nhất.  Con số nầy tương đương với khoảng 80% tổng số lực lượng lao động toàn quốc.





Kế tiếp, thực tế TQ đã tạo ra  7.57 triệu việc làm trong tám tháng đầu năm.  Con số đó tượng trưng cho 84% chỉ tiêu nhà nước trong năm 2009. Theo đà phát triển hiện nay, TQ có thể tạo được khoảng 9.01 triệu việc làm vào cuối năm nay.  Chúng ta thử so sánh với kinh tế Hoa Kỳ, một nền kinh tế đang đối phó với tình trạng thất nghiệp, cũng như tỷ lệ thất nghiệp  lên đến 10.2% và còn dự kiến sẽ tồi tệ hơn nữa trước khi được cải thiện.  Chĩ mới ngày hôm qua thôi , chẳng hạn,  các công ty tư nhân đã bãi bỏ 169 ngàn việc làm trong tháng Mười Một.  Co số đó còn tồi tệ hơn con số 150 ngàn mà các kinh tế gia đã dự kiến trước đây.





TIỀN ĐỀ 3 - Những nguồn lợi tức lớn hơn xuất cảng - Một trong những huyền thoại lớn nhất về TQ là nước nầy sống chết bằng xuất cảng.  Thực tế, Bill Gross cho biết rằng nổi lo sợ của ông về các bong bóng tài chánh  đã bắt nguồn từ  e ngại là TQ đăng nhắm đến một thị trường xuất cảng  trong đó sẽ không có nhiều người mua.  Nhưng cụ thể mà nói, xuất cảng ròng chĩ chiếm khoảng 20% tăng trưởng sản lượng nội địa.  Đầu tư vốn và hạ tầng chiếm 80%.  Nói cách khác, quốc gia nầy khó lòng suy tàn hay chết đi nếu Phương Tây ngưng mua hàng, mặc dù nhiều người tin tưởng ngược lại.





Huyền thoại kinh tế nầy không đứng vững dù chĩ mới xem qua thôi.  Trước tiên, thị trường TQ cơ bản khép kín. Cho nên khi những nhà lý luận Phương Tây cho rằng xuất cảng giảm sẽ đánh chìm kinh tế TQ, những số liệu khách quan không chứng minh được điều đó.





Có chăng chúng ta đang tiếp cận một tình thế nguy hiểm trong đó sự mua hàng của Phương Tây  trở nên không liên quan gì đến  sự tăng trưởng không ngừng của TQ.  Hoa Kỳ và các cường quốc Phương Tây khác có thể cần đến TQ, nhưng vì sức mạnh tiêu thụ của TQ gia tăng, càng lúc càng có thể là con Rồng Đỏ và những khách hành tiêu dùng của nó sẽ không cần chúng ta.





Điều khiến các giới chức Bắc Kinh ban đêm không ngủ được là làm thế nào nhập cảng được xăng dầu để giúp tăng trưởng lợi tức quốc gia.  TQ nhập gần 90 cents để có được $1 xuất cảng.  Điếu đó có nghĩa là , tối đa, chĩ có 10 cents thặng dư trong kinh tế TQ.





Do đó, câu hỏi thực sự đối với các nhà đầu tư là TQ thu về cho nước mình được bao nhiêu, chứ không phải là họ xuất cảng ra được gì.  Xuất cảng có thể gần như một phản ứng hậu cuộc (afterthought) trong một giai đoạn của trò chơi . . . không phải một chiến lược đúng nghĩa như những năm cuối thập niên 1980 hay 1990.





TIỀN ĐỀ 4 - Chiến lược giải nguy: Không giống như đối tác Hoa Kỳ, TQ có một chiến lược giải nguy với những sáng kiến kích cầu nhằm đối phó với cơn khủng hoảng tài chánh toàn cầu, và sữ dụng chi phí đầu tư tư nhân để giải quyết những khó khăn tạm thời.





Ngược lại, Hoa Kỳ bị kẹt cứng trong bải mìn kinh tế do chính Washington tự tạo ra.  Nhưng TQ nay đã thực tế hơn và đã thực hiện những bước để ra khỏi các chương trình kích cầu đang có kết quả.  Chẳng hạn, Băc Kinh đã nâng mức vốn đòi hỏi đối với các ngân hàng, nâng tiêu chuẩn vay tiền và nói chung hạn chế những khỏan tiền vay dễ dãi.  Nói thế không có nghĩa là không có vấn đề, nhưng trên căn bản chung TQ đã ra khỏi khúc ngoặc.  Bắc kinh còn thực hiện những bước để làm cho mọi việc chậm lại - đạp thắng kinh tế, có thể nói như vậy – và có thể tăng sản lượng quốc gia 9% hay hơn thế ngay cả sau khi phung phí tiền bạc một cách dễ dãi.





Biểu mẫu chi phí cũng kinh qua một thay đổi.  Ví dụ, trước kia chi phí đầu tư trong khu vực công cộng và các xí nghiệp quốc doanh hơn hẵn đầu tư tư doanh.  Nhưng ngày nay, hai hình thức đã hoán chuyển với nhau và đầu tư tư doanh đã cao hơn đầu tư quốc doanh và nhà nước.  Đó là một hoán chuyển có ý nghĩa. Sức mạnh và phương hướng của đầu tư tư doanh có thể là biện pháp tốt nhất  cho sự vững chải của một nền kinh tế, vì nó biểu hiện sự tin cậy của nhà đầu tư đối với hệ thống tài chánh của một quốc gia.  Rõ ràng đã có nhiều tin cậy như thế tại TQ – và tin cậy đó đang phát triển.








TIỀN ĐỀ 5 - Trử tệ dồi dào:  $2.3 ngàn tỷ ($2.3 trillion).  Hầu như không cần phải giải thích việc nầy.  TQ đã để dành $2.3 ngàn tỷ phòng khi trái gió trở trời.  Bây giờ họ có thể tiêu tiền bao nhiêu cũng được nếu các nhà lảnh đạo thấy thích đáng.  Không giống như Hoa Kỳ, một nước có lẽ đang phiêu lưu vào quên lảng, chính phủ TQ không cần đánh bạc với tương lai chĩ để tồn tại qua hiện tại. Họ có thể chi tiền cho các dự án, vồ lấy những tài sản quý giá của người bán đang khát vốn, và thực hiện những đầu tư có khả năng sẽ duy trì mức tăng trưởng tốt trong tương lai.  Đó là một khác biệt khổng lồ.





Tác giả bài nầy không có ý bất kính đối với ông Bill Gross, nhưng trọng tâm vấn đề là:  Kế hoạch kích cầu của Bắc Kinh và ảnh hưởng lớn lao của nhà nước đã thực sự xác định lại giá trị, tăng tốc đầu tư tư doanh và tăng tốc lưu lượng tiền tệ.  Và nếu điều đó tạo ra một bong bóng thì cái gì cứ đến.





Từ 40 năm nay, Tây phương đã tiên đoán TQ sẽ chết.  Nhưng trong 40 năm đó, TQ không những chĩ từ chối quay lại hay từ chối bỏ cuộc, họ còn thực sự tăng trưởng với một nhịp độ trung bình hằng năm là 9.28% phản ảnh qua tổng sản lượng quốc gia.


1 commentaire:

  1. Đỉnh Sóng xin cám ơn Caroline Thanh Huong đã giúp một tay phổ biến bài viết

    Kịch Bản Chợ Trời Mỹ-Tàu-DoThái

    và xin chia xẻ với các thân hữu khác của hai diễn đàn.

    ĐS

    RépondreSupprimer