dimanche 21 septembre 2014

LƯU VONG HÀNH Và Những Bài Họa Thơ: Lưu Vong Hành của Nguyễn Kinh Bắc, Diệu Tần, Đỗ Quý Bái, Sài Môn Chủ Nhân

Chuyển Thơ: Lưu Vong Hành của Nguyễn Kinh Bắc và những bài hoạ của Diệu Tần, Đỗ Quý Bái, Sài Môn Chủ Nhân

LƯU VONG HÀNH


Đất mẹ còn xa cách vạn trùng
Ta còn phiêu bạt – đã mười đông
Mười đông – vật vã vì cơm áo
Lòng vẫn chưa nguôi, nhớ chẳng cùng !
Ta nhớ một thời chinh chiến cũ
Học làm tráng sĩ luyện đao cung
Bút nghiên xếp lại, yêu đời lính
Theo gót người xưa sống vẫy vùng
Quân đội trưởng thành trong khói lửa
Dựng cờ đại nghĩa, diệt thù chung
Tình dân đã quyện theo tình nước
Thề quyết xông pha, vượt bão bùng
Bao địa danh ngời trang chiến sử
Đã làm khiếp vía giặc tàn hung
Kontum, Quảng Trị, ...cùng An Lộc
Phất phới cờ bay rợp khí hùng
Rồi đến một ngày kia, súng gãy
Ôi, trời nghiêng ngửa, đất đang rung
Tướng quân tuẫn tiết ngoài biên ải
Sĩ tốt điêu linh giữa khốn cùng
Một lũ bất tài lo tháo chạy
Những vì sao bạc rụng như sung
Bao năm chễm chệ ngồi vơ vét
Bỏ nước ra đi chẳng thẹn thùng
Ta cũng như trăm nghìn chiến hữu
Nổi trôi cùng vận nước long đong
Sa cơ mắc bẫy vòng lao cải
Rừng thẳm rào ngăn vó ngựa hồng
Ôi những ngựa hồng nay chiến bại
Cơ trời chuyển hóa, có thành không!
Đòn thù giáng xuống đâu thương tiếc
Oán hận triền miên mãi chất chồng
Lao động khổ sai, thêm đói rét
Mỗi ngày hai bữa bát ngô lưng
Thân phơi gió lộng đồi heo hút
Xác bỏ đìu hiu giữa mịt mùng
Nhớ lại những ngày đi chiến đấu
Lòng hằng giữ vững chữ kiên trung
Dù cho đã ở trong tay giặc
Đầu ngẩng lên cao, gối chẳng chùng
Đất nước tuy còn, như đã mất
Người người mang một nỗi đau chung
Hỡi ơi, hăm tám năm rồi nhỉ ?
Mà vẫn không chung một chữ “đồng”
Tự buổi lên đường, xa tổ quốc
Làm người tị nạn, sống lưu vong
Những ai nếu vẫn còn tâm huyết
Thấy cảnh nhiều khi cũng nản lòng
Chiến hữu một thời, nay cấu xé
Bạn tù quên hết thuở lao lung
Cai thầu chống Cộng nhân danh hão
Chụp mũ cho nhau chẳng ngại ngùng
Một lũ túi cơm, phường giá áo
Như bầy ngan ngỗng khoác lông công
Học làm con rối lăng xăng múa
Đã nát càng thêm nát cộng đồng
Báo bổ dăm ba tờ lá cải
Tập tành chữ nghĩa viết bung xung
Bôi tro trát trấu người thiên hạ
Vẫn sống dằng dai mới lạ lùng
Văn sĩ nửa mùa khoe múa bút
Phơi bày dâm dật, cũng văn phong !
Xênh xang áo gấm về quê mẹ
Đú đởn ăn chơi cốt thỏa lòng
Chính khứa trở cờ khoe ái quốc
Ngồi chờ đón gió giữa sa lông
Nhìn quanh cũng một phường xôi thịt
Miệng lưỡi còn đang bốc rượu nồng
Đâu xót dân lành đang thống khổ
Đêm ngày rên xiết dưới xiềng gông
Những cô ca sĩ về ăn Tết
Hát “Hậu Đình Hoa” chẳng ngượng ngùng
Ôi, biết bao điều, sao nói hết
Nói càng thẹn mặt với non sông
Gươm cùn, súng gãy từ bao thuở
Bút mực này đây trải mấy giòng
Mái tóc xanh xưa giờ đã bạc
Thù nhà, nợ nước trả nào xong
Chiều nay lặng lẽ nhìn mây phủ
Đất mẹ còn xa cách vạn trùng
        
NGUYỄN KINH BẮC



Bài họa 1 :

ĐÔNG HẢI HÀNH


Quê cha vạn lý sóng điệp trùng
Ngồi đây mà hận chuyện Biển Đông
Được hưởng tự do nơi đất khách
Quá khứ tràn về nhớ khôn cùng
Trải mười năm loạn lạc kiếm cung
Dao định mệnh chia hai Bến Hải
Miền Nam đất nước đẹp một vùng
Thanh bình no ấm nỗi vui chung
Núi rừng đồng ruộng vang tiếng hát
Nào ngờ chiến trận lại nổ bùng
Vì tham vọng chúng gây máu lửa
Du kích nằm vùng thật ác hung
Nga Tàu tiếp vận tăng, hỏa tiễn
Rồi cuộc đổi đời đất chuyển rung
Tháng Tư năm ấy bao uất hận
Quân dân bị đẩy bước đường cùng
"Thủ" Đồng khúm núm dâng biển đảo
Trường Sa Việt Cộng rụng như sung
Hoàng Sa chúng lập thành tỉnh nhỏ
Cộng sản như nhau rúc một thùng
Trả nợ chiến tranh bằng lãnh thổ
Dân nghèo sơ sác chạy long đong
'"Mười sáu chữ vàng" đành nuốt nhục
Lạy lục năm sao máu cờ hồng
Dân Hán tràn qua xây phố thị
Chủ quyền mất trắng, có như không
Phải lập nghĩa trang thờ lính "Tẫu"
Gái Việt phải lấy "chệt" làm chồng
Học sinh nghèo lội sông đi học
Đòi đất, dân oan bị gãy lưng
Công an đạp mặt người chống Hán
Cô giáo vùng cao ngủ không mùng
Cô đói, chia cơm cho trò đói
Trung ương dạy lính phải kiên trung
Trung với đảng quên trung với nước
Lòng dân phản kháng vẫn không chùng
"Sông liền sông", xây đập phá rối
Bô -xít đào lên phá nương đồng
Ngoài khơi tung mười ngàn tàu cá
Ngư dân ta mắc lưới tiêu vong
Ngang nhiên cướp bóc đòi tiền chuộc
Giam tàu, hốt cá thật đau lòng
Sân bay vắt ngang trên các đảo
Lưỡi bò thò xuống chẳng ngại ngùng
Đài truyền tin, ra-đa, cờ quạt
Chúng ngoác miệng khoe mẽ, kể công
Chiến hạm giả danh tàu ngư chính
Dựng ẩu lên bia đá bảng đồng
Cắm cờ đáy biển đòi làm chủ
Coi quốc tế như lũ bung xung
Thật ra chúng lo ăn, thiếu gạo
Nuôi tỷ ba dân, phải kiếm lùng
Vét dầu, vét cá, thu nguyên liệu
Lại thêm kích động lính xung phong
Đề cao bá quyền dân đại quốc
Đứng đầu thế giới mới thỏa lòng
Lãnh thổ gồm thâu Giao Chỉ quận
Chúng rung đùi, dê béo rượu nồng
Đâu chịu hiểu chiến tranh kinh tế
Không đánh bằng súng đạn, xiềng gông
Bất công, đói khổ dân vùng dậy
Biến loạn diễn ra máu ngập sông
Chừng đó triệt năm sao cờ đỏ
Liềm buá tan, thả cuốn theo dòng
Thời cộng sản đã lui, đã lỗi
Hận thù thanh thoả coi như xong
Ngày đó ta lại về làng cũ
Hớn hở quê cha sóng điệp trùng.

DIỆU TẦN
 
 


Bài Họa 2 : VỌNG QUỐC HÀNH

Quê cha, đất tổ cách muôn trùng !
Ta đành ly biệt đã bao đông
Bao đông tính sắp gần hoa giáp
Thương nhớ đầy vơi chẳng tận cùng
Ta nhớ thời còn trong đại học
Mơ đem bút mực thế gươm cung .
Gập phải cai thầu làng báo chí
Tố ta như một kẻ nằm vùng .
Cũng may không vướng vòng lao lý .
"Tam Quý" (*) cùng bàn góp sức chung
Tính đem nhiệt huyết lo cho nước
Hùng khí thanh niên đã nổ bùng :
Quý Biên sốt sắng lo tài chánh .
Quý Nghiêm thề diệt sạch quân hung
Tuyển "Chấn Bốn Cho" làm sát thủ,
Hắn khoe tài sức rất kiêu hùng !
Nhận lãnh tiền nong sau mất dấu ...
Tình hình chính trị chuyển rồi rung .
Quảng Đức cháy tiêu trong khói lửa
Cấm trại quân nhân cực tận cùng !
Sư Sãi, Cha Thầy đua thúc đẩy
Phật tử, con chiên đã nổi sung
Bùi Phát, Ấn Quang lo xách động
Loa vang, trống giục cứ thùng thùng .
Sinh viên học xá buồn thân phận
Tán chuyện tầm phào lấy đấu đong (?)
Ngao ngán nhìn đời không lối thoát ,
Hận mình không thể hoá Chim Hồng
Ôi những Chim Hồng nay biệt tích !
Chỉ là thần thoại có hay không ?
Cố công đèn sách chi cho uổng ?
Đèn sách ngổn ngang chất cả chồng !
Mong ngóng chờ ngày đi Thủ Đức
Tập đeo băng đạn thắt ngang lưng .
Lên đường chiến đấu ngoài rừng rú
Ngủ trên sỏi đá chẳng chăn mùng !
Trai sinh tời loạn thương bè bạn ...
Giữ gìn đất tổ một lòng trung .
Bến Hải, Cà Mau lo đuổi giặc
Gian lao nguy hiểm trí không chùng !
Giận thay cái lũ ham danh lợi
Ích kỉ lăm le miếng đỉnh chung
Cho ngáp phải ruồi vào Quốc Hội
Đồng sàng dị mộng chẳng sao " đồng"
Nhạc Trinh công Sơn vang khắp nẻo
Khơi nguồn cho quốc phá gia vong .
Mươi bà mệnh phụ mê bài bạc
Thúc chồng tham nhũng mới vùa lòng ,
Cứ tưởng ăn trên ngồi trước mãi
Đến nay mất sạch có đau lung ?
Cả bọn nằm vùng giờ lộ mặt
Nhặng sị ta đây chẳng ngượng ngùng !
Tướng tá ngu hèn không biết nhục
Còn dùng hồi ký đặng khoe công
Còn đòi lúc chết cờ vàng phủ :
Ta xưa chống địch vững hơn đồng !
Bao tên quân dịch thường tìm trốn
Nay khoe diệt giặc rất là xung
Lũ Chệt năm nao làm lính kiểng
giờ khoe bắt địch giỏi truy lùng
Làng lưới vài tên "thi sĩ dỏm"
Đòi gìn văn hoá giữ thuần phong !
Chỉ biết gang mồn ra chửi đổng
Tự tôn tự đại mới vui lòng ...
Tị Nạn trở cờ đòi cứu quốc ,
Cãi nhau khản cổ tới xù lông
Anh nào cũng nghĩ mình tay tổ
Mở miệng phà hơi thúi nực nồng
Chẳng xót dân đen đang khổ ải
Quanh năm ỳ ạch với cùm gông
Thương Nữ, MC mê nhí nhảnh
Rên "Hậu Đình Hoa" chẳng ngại ngùng !
Quặn thắt ruột gan đau thế sự
Hận chẳng giữ gìn được núi sông
Nên phải nổi trôi theo vận nước
Cùng bao rác rến chảy chung giòng
Cho lũ lòng tong theo rúc rỉa
Nhìn chúng loay hoay khóc khó xong !
Nhớ giải Lĩnh Nam hình chữ S,
Quê cha đất tổ cách muôn trùng

(*)"Tam Quý" :Quý Biên,Quý Nghiêm &
QUÝ BÁILạc Thủy ĐỖ QUÝ BÁI

Bài Họa 3 :

HẬN TÁT SAO VƠI

Cuối năm gió lạnh thổi trùng trùng
Sắp đến mùa Xuân hết tiết Đông
Hăm chín năm trời xa đất mẹ
Sài Gòn, Hà Nội nhớ vô cùng
Nhớ sao giọt nắng trên hè phố
Khói lửa tuy buồn chuyện kiếm cung
Nhớ tiếng rao hàng khuya vắng vẻ
Nhớ khi còn giặc đất khoanh vùng
Nhớ như là nhớ ta ngày ấy !
Đất nước chung và trách nhiệm chung
Nhớ những anh hùng vừa mới lớn
Câu thơ Chính Khí, tiệc vui bùng
Viết sao cho đủ tình trai trẻ
Đối kẻ thù đầy nét hiểm hung ?
Ai ngược Chu Prong, về Quảng Trị
Có xem trang sử thật hào hùng
Quân ta như thác lưng chừng đổ
Trời đất vì ta cũng chuyển rung
Cứ tưởng lại về vui đất mẹ
Đầu hàng ! - Ban lệnh, tủi khôn cùng !
Bao năm lạc lõng nơi quê tạm
Đâu thể nằm chờ rụng trái sung ?
Đâu thể mỗi người riêng mỗi ý ?
Chỉ biết chờ nghe trống điểm thùng
Lời nào cứu được cơn nguy khốn
Hận tát sao vơi, đấu khó đong
Ta chưa diệt được phường vong bản
Chưa sao xé nát được cờ hồng !
Ta nhìn bằng hữu mà đau đớn
Ta có mà như có vẫn không
Để mẹ tìm con, con gọi bố
Để lòng đau đớn vợ xa chồng
Cúi mình cam phận làm nô lệ
Đạp cổ, tha hồ chúng cỡi lưng
Mùng Một, mùng Hai, mùng mấy nữa
Còn bao nhiêu tháng bấy nhiêu mùng ..
Còn không những tấm lòng son sắt
Còn có còn không chữ Hiếu Trung ?
Sao lại đi về vui với giặc
Dây đàn không lẽ đã cam chùng ?
Chẳng đành hổ thẹn cùng tiên tổ
Ôi chữ giang sơn đất nước chung
Hăm chín năm trời như mới đó
Chưa sao viết được chữ tương đồng
Chia năm xẻ bảy càng đau xót
Chưa thấm ngày nào nhục bại vong
Nhìn đến cháu con thêm ngượng mặt
Hỏi ai có thấy xót xa lòng ?
Sao không nhìn lại gương người cũ
Cứ cứ đêm đêm nghĩ ngợi lung
Gặp nhau quên nhắc câu đoàn kết
Thấy như là ngại, thấy như ngùng
Ngại ngùng khi ngoảnh về quê mẹ
Chỉ thấy điêu tàn, thấy bất công
Chụp mũ nhau chơi cho bõ ghét
Chao ơi ! Toàn những chuyện bao đồng!
Cuối năm, nhớ lại trang hùng sử
Đọc lại câu thơ : Nộ khí xung
Cộng Sản dựng lên nhà cải tạo
Quốc gia tất cả bị săn lùng
Tự do thống nhất là vô nghĩa
Nhìn kỹ quân thù nhớ tác phong
Nhìn lại để đừng quên oán hận
Để con cháu Việt lại chung lòng
Để mùa Xuân tới trong bàn tiệc
Sống chết coi như một cọng lông
Ta rót mời nhau cùng cạn chén
Để xem men rượu ngất ngây nồng
Mùa Xuân nay đến ta vui chứ !
Phá nát nhà tù, bẻ xích gông

LƯU VONG HÀNH


Đất mẹ còn xa cách vạn trùng
Ta còn phiêu bạt – đã mười đông
Mười đông – vật vã vì cơm áo
Lòng vẫn chưa nguôi, nhớ chẳng cùng !
Ta nhớ một thời chinh chiến cũ
Học làm tráng sĩ luyện đao cung
Bút nghiên xếp lại, yêu đời lính
Theo gót người xưa sống vẫy vùng
Quân đội trưởng thành trong khói lửa
Dựng cờ đại nghĩa, diệt thù chung
Tình dân đã quyện theo tình nước
Thề quyết xông pha, vượt bão bùng
Bao địa danh ngời trang chiến sử
Đã làm khiếp vía giặc tàn hung
Kontum, Quảng Trị, ...cùng An Lộc
Phất phới cờ bay rợp khí hùng
Rồi đến một ngày kia, súng gãy
Ôi, trời nghiêng ngửa, đất đang rung
Tướng quân tuẫn tiết ngoài biên ải
Sĩ tốt điêu linh giữa khốn cùng
Một lũ bất tài lo tháo chạy
Những vì sao bạc rụng như sung
Bao năm chễm chệ ngồi vơ vét
Bỏ nước ra đi chẳng thẹn thùng
Ta cũng như trăm nghìn chiến hữu
Nổi trôi cùng vận nước long đong
Sa cơ mắc bẫy vòng lao cải
Rừng thẳm rào ngăn vó ngựa hồng
Ôi những ngựa hồng nay chiến bại
Cơ trời chuyển hóa, có thành không!
Đòn thù giáng xuống đâu thương tiếc
Oán hận triền miên mãi chất chồng
Lao động khổ sai, thêm đói rét
Mỗi ngày hai bữa bát ngô lưng
Thân phơi gió lộng đồi heo hút
Xác bỏ đìu hiu giữa mịt mùng
Nhớ lại những ngày đi chiến đấu
Lòng hằng giữ vững chữ kiên trung
Dù cho đã ở trong tay giặc
Đầu ngẩng lên cao, gối chẳng chùng
Đất nước tuy còn, như đã mất
Người người mang một nỗi đau chung
Hỡi ơi, hăm tám năm rồi nhỉ ?
Mà vẫn không chung một chữ “đồng”
Tự buổi lên đường, xa tổ quốc
Làm người tị nạn, sống lưu vong
Những ai nếu vẫn còn tâm huyết
Thấy cảnh nhiều khi cũng nản lòng
Chiến hữu một thời, nay cấu xé
Bạn tù quên hết thuở lao lung
Cai thầu chống Cộng nhân danh hão
Chụp mũ cho nhau chẳng ngại ngùng
Một lũ túi cơm, phường giá áo
Như bầy ngan ngỗng khoác lông công
Học làm con rối lăng xăng múa
Đã nát càng thêm nát cộng đồng
Báo bổ dăm ba tờ lá cải
Tập tành chữ nghĩa viết bung xung
Bôi tro trát trấu người thiên hạ
Vẫn sống dằng dai mới lạ lùng
Văn sĩ nửa mùa khoe múa bút
Phơi bày dâm dật, cũng văn phong !
Xênh xang áo gấm về quê mẹ
Đú đởn ăn chơi cốt thỏa lòng
Chính khứa trở cờ khoe ái quốc
Ngồi chờ đón gió giữa sa lông
Nhìn quanh cũng một phường xôi thịt
Miệng lưỡi còn đang bốc rượu nồng
Đâu xót dân lành đang thống khổ
Đêm ngày rên xiết dưới xiềng gông
Những cô ca sĩ về ăn Tết
Hát “Hậu Đình Hoa” chẳng ngượng ngùng
Ôi, biết bao điều, sao nói hết
Nói càng thẹn mặt với non sông
Gươm cùn, súng gãy từ bao thuở
Bút mực này đây trải mấy giòng
Mái tóc xanh xưa giờ đã bạc
Thù nhà, nợ nước trả nào xong
Chiều nay lặng lẽ nhìn mây phủ
Đất mẹ còn xa cách vạn trùng
        
NGUYỄN KINH BẮC



Bài họa 1 :

ĐÔNG HẢI HÀNH


Quê cha vạn lý sóng điệp trùng
Ngồi đây mà hận chuyện Biển Đông
Được hưởng tự do nơi đất khách
Quá khứ tràn về nhớ khôn cùng
Trải mười năm loạn lạc kiếm cung
Dao định mệnh chia hai Bến Hải
Miền Nam đất nước đẹp một vùng
Thanh bình no ấm nỗi vui chung
Núi rừng đồng ruộng vang tiếng hát
Nào ngờ chiến trận lại nổ bùng
Vì tham vọng chúng gây máu lửa
Du kích nằm vùng thật ác hung
Nga Tàu tiếp vận tăng, hỏa tiễn
Rồi cuộc đổi đời đất chuyển rung
Tháng Tư năm ấy bao uất hận
Quân dân bị đẩy bước đường cùng
"Thủ" Đồng khúm núm dâng biển đảo
Trường Sa Việt Cộng rụng như sung
Hoàng Sa chúng lập thành tỉnh nhỏ
Cộng sản như nhau rúc một thùng
Trả nợ chiến tranh bằng lãnh thổ
Dân nghèo sơ sác chạy long đong
'"Mười sáu chữ vàng" đành nuốt nhục
Lạy lục năm sao máu cờ hồng
Dân Hán tràn qua xây phố thị
Chủ quyền mất trắng, có như không
Phải lập nghĩa trang thờ lính "Tẫu"
Gái Việt phải lấy "chệt" làm chồng
Học sinh nghèo lội sông đi học
Đòi đất, dân oan bị gãy lưng
Công an đạp mặt người chống Hán
Cô giáo vùng cao ngủ không mùng
Cô đói, chia cơm cho trò đói
Trung ương dạy lính phải kiên trung
Trung với đảng quên trung với nước
Lòng dân phản kháng vẫn không chùng
"Sông liền sông", xây đập phá rối
Bô -xít đào lên phá nương đồng
Ngoài khơi tung mười ngàn tàu cá
Ngư dân ta mắc lưới tiêu vong
Ngang nhiên cướp bóc đòi tiền chuộc
Giam tàu, hốt cá thật đau lòng
Sân bay vắt ngang trên các đảo
Lưỡi bò thò xuống chẳng ngại ngùng
Đài truyền tin, ra-đa, cờ quạt
Chúng ngoác miệng khoe mẽ, kể công
Chiến hạm giả danh tàu ngư chính
Dựng ẩu lên bia đá bảng đồng
Cắm cờ đáy biển đòi làm chủ
Coi quốc tế như lũ bung xung
Thật ra chúng lo ăn, thiếu gạo
Nuôi tỷ ba dân, phải kiếm lùng
Vét dầu, vét cá, thu nguyên liệu
Lại thêm kích động lính xung phong
Đề cao bá quyền dân đại quốc
Đứng đầu thế giới mới thỏa lòng
Lãnh thổ gồm thâu Giao Chỉ quận
Chúng rung đùi, dê béo rượu nồng
Đâu chịu hiểu chiến tranh kinh tế
Không đánh bằng súng đạn, xiềng gông
Bất công, đói khổ dân vùng dậy
Biến loạn diễn ra máu ngập sông
Chừng đó triệt năm sao cờ đỏ
Liềm buá tan, thả cuốn theo dòng
Thời cộng sản đã lui, đã lỗi
Hận thù thanh thoả coi như xong
Ngày đó ta lại về làng cũ
Hớn hở quê cha sóng điệp trùng.

DIỆU TẦN
 
 


Bài Họa 2 : VỌNG QUỐC HÀNH

Quê cha, đất tổ cách muôn trùng !
Ta đành ly biệt đã bao đông
Bao đông tính sắp gần hoa giáp
Thương nhớ đầy vơi chẳng tận cùng
Ta nhớ thời còn trong đại học
Mơ đem bút mực thế gươm cung .
Gập phải cai thầu làng báo chí
Tố ta như một kẻ nằm vùng .
Cũng may không vướng vòng lao lý .
"Tam Quý" (*) cùng bàn góp sức chung
Tính đem nhiệt huyết lo cho nước
Hùng khí thanh niên đã nổ bùng :
Quý Biên sốt sắng lo tài chánh .
Quý Nghiêm thề diệt sạch quân hung
Tuyển "Chấn Bốn Cho" làm sát thủ,
Hắn khoe tài sức rất kiêu hùng !
Nhận lãnh tiền nong sau mất dấu ...
Tình hình chính trị chuyển rồi rung .
Quảng Đức cháy tiêu trong khói lửa
Cấm trại quân nhân cực tận cùng !
Sư Sãi, Cha Thầy đua thúc đẩy
Phật tử, con chiên đã nổi sung
Bùi Phát, Ấn Quang lo xách động
Loa vang, trống giục cứ thùng thùng .
Sinh viên học xá buồn thân phận
Tán chuyện tầm phào lấy đấu đong (?)
Ngao ngán nhìn đời không lối thoát ,
Hận mình không thể hoá Chim Hồng
Ôi những Chim Hồng nay biệt tích !
Chỉ là thần thoại có hay không ?
Cố công đèn sách chi cho uổng ?
Đèn sách ngổn ngang chất cả chồng !
Mong ngóng chờ ngày đi Thủ Đức
Tập đeo băng đạn thắt ngang lưng .
Lên đường chiến đấu ngoài rừng rú
Ngủ trên sỏi đá chẳng chăn mùng !
Trai sinh tời loạn thương bè bạn ...
Giữ gìn đất tổ một lòng trung .
Bến Hải, Cà Mau lo đuổi giặc
Gian lao nguy hiểm trí không chùng !
Giận thay cái lũ ham danh lợi
Ích kỉ lăm le miếng đỉnh chung
Cho ngáp phải ruồi vào Quốc Hội
Đồng sàng dị mộng chẳng sao " đồng"
Nhạc Trinh công Sơn vang khắp nẻo
Khơi nguồn cho quốc phá gia vong .
Mươi bà mệnh phụ mê bài bạc
Thúc chồng tham nhũng mới vùa lòng ,
Cứ tưởng ăn trên ngồi trước mãi
Đến nay mất sạch có đau lung ?
Cả bọn nằm vùng giờ lộ mặt
Nhặng sị ta đây chẳng ngượng ngùng !
Tướng tá ngu hèn không biết nhục
Còn dùng hồi ký đặng khoe công
Còn đòi lúc chết cờ vàng phủ :
Ta xưa chống địch vững hơn đồng !
Bao tên quân dịch thường tìm trốn
Nay khoe diệt giặc rất là xung
Lũ Chệt năm nao làm lính kiểng
giờ khoe bắt địch giỏi truy lùng
Làng lưới vài tên "thi sĩ dỏm"
Đòi gìn văn hoá giữ thuần phong !
Chỉ biết gang mồn ra chửi đổng
Tự tôn tự đại mới vui lòng ...
Tị Nạn trở cờ đòi cứu quốc ,
Cãi nhau khản cổ tới xù lông
Anh nào cũng nghĩ mình tay tổ
Mở miệng phà hơi thúi nực nồng
Chẳng xót dân đen đang khổ ải
Quanh năm ỳ ạch với cùm gông
Thương Nữ, MC mê nhí nhảnh
Rên "Hậu Đình Hoa" chẳng ngại ngùng !
Quặn thắt ruột gan đau thế sự
Hận chẳng giữ gìn được núi sông
Nên phải nổi trôi theo vận nước
Cùng bao rác rến chảy chung giòng
Cho lũ lòng tong theo rúc rỉa
Nhìn chúng loay hoay khóc khó xong !
Nhớ giải Lĩnh Nam hình chữ S,
Quê cha đất tổ cách muôn trùng
Lạc Thủy ĐỖ QUÝ BÁI

Bài Họa 3 :

HẬN TÁT SAO VƠI

Cuối năm gió lạnh thổi trùng trùng
Sắp đến mùa Xuân hết tiết Đông
Hăm chín năm trời xa đất mẹ
Sài Gòn, Hà Nội nhớ vô cùng
Nhớ sao giọt nắng trên hè phố
Khói lửa tuy buồn chuyện kiếm cung
Nhớ tiếng rao hàng khuya vắng vẻ
Nhớ khi còn giặc đất khoanh vùng
Nhớ như là nhớ ta ngày ấy !
Đất nước chung và trách nhiệm chung
Nhớ những anh hùng vừa mới lớn
Câu thơ Chính Khí, tiệc vui bùng
Viết sao cho đủ tình trai trẻ
Đối kẻ thù đầy nét hiểm hung ?
Ai ngược Chu Prong, về Quảng Trị
Có xem trang sử thật hào hùng
Quân ta như thác lưng chừng đổ
Trời đất vì ta cũng chuyển rung
Cứ tưởng lại về vui đất mẹ
Đầu hàng ! - Ban lệnh, tủi khôn cùng !
Bao năm lạc lõng nơi quê tạm
Đâu thể nằm chờ rụng trái sung ?
Đâu thể mỗi người riêng mỗi ý ?
Chỉ biết chờ nghe trống điểm thùng
Lời nào cứu được cơn nguy khốn
Hận tát sao vơi, đấu khó đong
Ta chưa diệt được phường vong bản
Chưa sao xé nát được cờ hồng !
Ta nhìn bằng hữu mà đau đớn
Ta có mà như có vẫn không
Để mẹ tìm con, con gọi bố
Để lòng đau đớn vợ xa chồng
Cúi mình cam phận làm nô lệ
Đạp cổ, tha hồ chúng cỡi lưng
Mùng Một, mùng Hai, mùng mấy nữa
Còn bao nhiêu tháng bấy nhiêu mùng ..
Còn không những tấm lòng son sắt
Còn có còn không chữ Hiếu Trung ?
Sao lại đi về vui với giặc
Dây đàn không lẽ đã cam chùng ?
Chẳng đành hổ thẹn cùng tiên tổ
Ôi chữ giang sơn đất nước chung
Hăm chín năm trời như mới đó
Chưa sao viết được chữ tương đồng
Chia năm xẻ bảy càng đau xót
Chưa thấm ngày nào nhục bại vong
Nhìn đến cháu con thêm ngượng mặt
Hỏi ai có thấy xót xa lòng ?
Sao không nhìn lại gương người cũ
Cứ cứ đêm đêm nghĩ ngợi lung
Gặp nhau quên nhắc câu đoàn kết
Thấy như là ngại, thấy như ngùng
Ngại ngùng khi ngoảnh về quê mẹ
Chỉ thấy điêu tàn, thấy bất công
Chụp mũ nhau chơi cho bõ ghét
Chao ơi ! Toàn những chuyện bao đồng!
Cuối năm, nhớ lại trang hùng sử
Đọc lại câu thơ : Nộ khí xung
Cộng Sản dựng lên nhà cải tạo
Quốc gia tất cả bị săn lùng
Tự do thống nhất là vô nghĩa
Nhìn kỹ quân thù nhớ tác phong
Nhìn lại để đừng quên oán hận
Để con cháu Việt lại chung lòng
Để mùa Xuân tới trong bàn tiệc
Sống chết coi như một cọng lông
Ta rót mời nhau cùng cạn chén
Để xem men rượu ngất ngây nồng
Mùa Xuân nay đến ta vui chứ !
Phá nát nhà tù, bẻ xích gông
Khúc Hậu Đình Hoa không hát nữa
Chẳng ai còn ngại, chẳng ai ngùng
Chỉ còn máu đỏ, da vàng mẹ
Quang phục cùng lo chuyện núi sông
Tôi đọc bài thơ mà thổn thức
Nối điêu cùng thử viết đôi dòng
Tóc xanh, tóc bạc là vô nghĩa
Khi nợ, muôn nhà chửa trả xong
Xứ lạ đêm buồn nhớ cố hương
Cuối năm gió lạnh thổi trùng trùng

SÀI MÔN CHỦ NHÂN
  Khúc Hậu Đình Hoa không hát nữa
Chẳng ai còn ngại, chẳng ai ngùng
Chỉ còn máu đỏ, da vàng mẹ
Quang phục cùng lo chuyện núi sông
Tôi đọc bài thơ mà thổn thức
Nối điêu cùng thử viết đôi dòng
Tóc xanh, tóc bạc là vô nghĩa
Khi nợ, muôn nhà chửa trả xong
Xứ lạ đêm buồn nhớ cố hương
Cuối năm gió lạnh thổi trùng trùng

SÀI MÔN CHỦ NHÂN
 

1 commentaire:

  1. Xin gửi về Cát Bụi bài nhận định sau đây thay cho bài họa





    RỒI SẼ CƯỜI




    Hãy làm cho bạn, một thùng rõ chắc

    Thiết kế cho hay, từng mắc, từng vòng

    Khi xong, cứng cáp ngoài, trong

    Bỏ vào những chuyện đau lòng, kín bưng

    Dấu đi, thất bại lưng chừng

    Chén nào, chén đắng lừng khừng, thêm vô

    Tim đau, khóa chặt, khỏi tô

    Ngồi lên, rồi thả hoan hô, nụ cười

    Đừng bảo ai, thùng ni chi tiết

    Cũng đừng cho ai biết chuyện lòng

    Một khi đã ếm bên trong

    Niềm đau sẽ mãi chôn vào thiên thu







    Trần Trọng Thiện

    RépondreSupprimer