mercredi 24 septembre 2014

Ai là người Trong Thế Giới "Trầm tư" của Đà Lạt Nguyễn Hàng Tình



Trong Thế Giới "Trầm tư" của Đà Lạt Nguyễn Hàng Tình

                                                                   
    

   

    Nay ở Đà Lạt mà nhiều lúc nhớ "Đà Lạt"  vô cùng. Tôi  không mặn mà nữa cho cái phần "thị" riêng có,  đầy thanh lành của những ngày không xa hôm nào của phố núi ngọc ngà cứ biệt xứ;  phố xá xứ lạnh cũng bỗng đua đòi, hung hăng. Cái  thời  rong ruổi miệt mài dưới  duyên hải,  có những  ngày  ngồi ở xứ biển Nha Trang, ngã lưng vào mộ ông Năm Yersin(*)trên đồi Suối Dầu, nhìn  ngược  về phố núi mờ  xa lại  một thế giới khác xứ sở này hiện ra, kéo tôi quay về...



      
      
            Tôi mến quí người giàu sang chân chính, nhưng giao du nhiều hơn với dân cày; chơi với bá tánh cần lao nhiều hơn quan thầy, giới kinh doanh, người lặng lẽ hơn người ồn ào, người vô danh hơn người nổi tiếng. Khi đến miền xứ nào, và ngay ở Đà Lạt cũng vậy.
            Người nơi khác cứ nghĩ về Đà Lạt là những điểm du lịch Thung Lũng Tình Yêu, hồ Than Thở, Thác Prenn, Dinh thự, hay những  dãy phố bên trên hồ Xuân Hương, những biệt thự kiến trúc Pháp, rừng thông. Với tôi, thì thế giới hay “kéo tôi về” là cái phần “vô danh” của xứ du lịch hoa lệ  này.
        Ấy là phần rìa mà mỗi sớm mai những người nông dân mang ủng cao su lên vườn đồi trồng bông, lơghim. Cái phần  rìa tần tảo, phần rìa là môi trường mưu sinh của nông phu Việt ly hương, đầy bùn đỏ; phần rìa mà cư dân còn có tâm trạng chờ mưa đợi nắng, sống bằng giọt mồ hôi thật sự; phần rìa không biết hóng du khách, chờ hội hè lễ lạt. Nơi đó giữ lại hồn hương xứ sở, cái "gen" đồi núi, chất "người Đà Lạt" không phai phôi (không phải ai bây giờ  sinh sống ở Đà Lạt cũng có chất "Đà Lạt ), nhịp sống an nhiên, thong dong, chậm trôi, tự sự. Miền quê, hai mùa nắng mưa cày cuốc, nhưng con người lại phong lưu vô cùng: đi không vội, ăn không nhanh, nói không to, giận không hét. Những cái  tên ấp canh nông hiền khô, này Thái Phiên, Nam Hồ, Trại Mát, Đa Quí, Đa Thọ, Phước Thành, Đa Thành, Sầm Sơn, Vạn Thành, Đa Thiện, Đông Tĩnh, Thánh Mẫu, Cầu Đất, Trại Hầm, sở Lăng... Ô hay, lúc nào cũng mát dịu hoa trái, nồng nàn thảo mộc. Mỗi một mảnh vườn rau, nông dân trồng một loại rau khác nhau, cho một nhan sắc riêng, gợi cảm, man mác tình thôn trang xứ lạnh, đãi cả cho thị giác, chứ không phải khiến nghĩ ngay cho cái dạ dày.

                     
                     *
      
           
            Nơi đó, nhà cửa giản đơn treo đây đó như rải những nốt nhạc bên sườn núi, dưới thung lũng, len theo đỉnh đồi. Những con đường vào thôn ấp nhỏ bé nhưng độ lòng vòng thì chả biết kéo đến đâu trên những dải núi đồi khuất lấp, lớp này chồng lên lớp kia. Nơi đó, những vườn rau bậc thang như cây đàn Accordéon khổng lồ của người nghệ sĩ thiên nhiên say nhạc kéo ra khắp nơi, chơi như một gã điên, không ngừng nghỉ, lang thang mãi, quên đường về. Nhà này, nhà kia có thể sang xin nhau đôi trái sú về luộc, nhúm đậu Hòa Lan về xào, bông Artichoke về hầm, bó hoa salem về cúng, một cành hồng về chưng... Giỗ quảy, cưới hỏi, lễ lạt, người ta còn có thể làm được cái điều rất "nhỏ", mộc mạc cổ xưa  là mang qua nhà kế bên một đĩa xôi, hay vài ba trái chuối laba, trái hồng đầu mùa... Cái chất lưu dân cần mẫn, chịu khổ chịu khó, ngang tàng, bất cần đời, coi thường tiền bạc, trọng nghĩa, khinh tiền, chân thành, rộng lượng, và không hãi sợ trước quyền lực vẫn còn bàng bạc lưu cửu trong các tổ người. Mọi sự hẹp hòi đều không phù hợp với Đà Lạt, những mưu tính, tinh khôn đều không sống lâu dài, không "chơi" được với một "Đà Lạt"  trong sáng thế này. Cư dân là góp, đến đã lâu, nhưng nay mỗi ấp đi qua, chỗ này  tôi vẫn còn nghe được dư âm của giọng Bắc, giọng Nghệ, chỗ kia là giọng Quảng, chỗ nọ là giọng Huế, và xa thêm một tí nữa là tiếng và giọng người Cill, Lạch_bộ phận cư dân hiểu Đà Lạt nhất, cao thượng, chịu cô đơn và nghèo khó giỏi hơn cả lưu dân Việt, là chủ nhân sâu nặng của xứ sở này mà. Già ba phần tư diện tích Đà Lạt là thuộc về phần canh nông hồn hậu đó. Đà Lạt thật là "Đà Lạt" ở chỗ đây, chứ cũng không phải sự chảnh chẹ ở khu Hoà Bình, bùng binh 3/2, chợ Cẩm Đô, ngã tư Phan Chu Trinh, ngã Năm Đại Học, hay Thung Lũng Tình Yêu, thác Cam Ly, hồ Than Thở, Dinh Bảo Đại, Đồi Mộng Mơ, Đà Lạt Sử Quán, hoặc  700 khách sạn hơ hớ chồm ra...

                           *


            Nơi miền ngoại ô vô nhiễm với du lịch và chứng khoán địa ốc ấy, những tiếng chuông chùa, chuông nhà thờ  khi vang lên làm cho núi đồi mênh mông, thênh thang hơn, như  bò lên từng mảnh vườn lơghim, len vào màu xanh hoa trái, sang trọng và huyền nhiệm. Ai bảo đó không phải một thứ "đặc sản" nữa của Đà Lạt, cùng thông xanh, lơgim, sương khói, sự thanh vắng, nỗi buồn, cái lạnh. Cứ lắng lòng, ta sẽ nhận ra tiếng chuông nhà thờ ở Đà Lạt thênh thang phúc âm, tiếng chuông chùa bàng bạc bát nhã, mang vóc dáng khác với tiếng chuông của quê  xứ khác. Tôi nghĩ một người có ý định quyên sinh, sẽ rất khó thực hiện khi vấp phải thứ thanh âm ấy vào buổi chiều tàn.
           Cái phần rìa đấy là phần âm đô thị, phần con gái, so với cái phần con trai_ phần dương phố xôn xao,  bướng bỉnh, nhiều màu, lắm lời ngoài kia. Nó nhắc nhớ  cái gốc gác sơn nguyên, và giữ cho thành phố này khỏi cục cằn thô thỗ, lạc lối, mất mình.

            Những lũng đồi thuần hậu canh nông đó, khi xuất hiện sương thì đúng như những bữa tiệc trời bày. Sương giăng bồng bềnh, nổi trôi, đôi khi có cảm giác về sự gập ghềnh của nhung lụa, tựa kẻ rỗi công kéo những dải lụa trời đi chơi và quên mất mùa màng. Độ mỏng dày, cao thấp, gần xa của làn sương miền thôn ấp  kia làm nhiều khi mường tượng đến cái phần cơ thể của gái trinh.
            Ở những cánh rừng thông Đà Lạt sương đẹp kiểu khác, bị giới hạn; nhưng ở những vùng nhà vườn, sương phủ thật phóng khoáng, nhiệt tình. Khi ngắm nhìn sương nơi rừng thông, ta sợ lạc trong cái phần ngút sâu của cây rừng không thể nhìn thấy. Còn nhìn sương trên vùng nhà vườn ta lại sợ bị trôi đi, lút vào trong sự vô tận của mong manh. "Tác phẩm" sương đó xuất hiện cũng không có qui luật về tạo tác hình hài; mỗi ngày, mỗi mùa, mỗi sớm, mỗi chiều, mỗi ngọn đồi, mỗi thung lũng, mỗi vách núi, mỗi khu nhà vườn, mỗi cánh rừng... từng lúc đều khác nhau.
      Vẻ đẹp chết người của sương chưa giết ai, nhưng nó làm người ta nhớ nó, mà lại là thứ sương ngoại ô này. Nó vừa man dại vừa liêu trai, thoả chí phiêu bồng hoang lạc, sầu mộng và thăng thiên, nhưng  trong lành, và điểm trang cho sự cần lao, vườn tược, cỏ cây, núi đồi. Sương cũng là "sản phẩm" du lịch Đà Lạt kia mà.

      
                        *
      
        Tôi nhớ lắm người bạn Huế lưu vong buổi bần hàn, sống bằng mơ tưởng, nhiều lần một hai giờ sáng đạp cửa rủ nhau phóng xe đi... xem sương, sương ngoại ô. Tôi cũng thề đừng hòng tôi quên những lần uống rượu giữa sương đêm với những thằng bạn kẻ sĩ  giang hồ đúng nghĩa và tiêu dao khinh bạc cả nhan sắc: "Tay vung kiếm chém phân vùng sinh tử/ Thì sá chi một chút má em hồng".  Mà những ai yêu quí, tha thiết, nể trọng, tôi mới "mang" ra giới thiệu họ với sương Đà Lạt, đãi rượu phong sương giữa trời ngoại ô tần tảo này. Đó là thứ rượu pha sương_ một thứ là sáng tạo của con người, còn thứ kia là sáng tạo của thượng đế, đều kiều diễm, ngạo nghễ. Khi uống rượu trong sương, ta thấy cô gái nào cũng thành thiên thần cả.
        Nhắc đến sương Đà Lạt, có ai thèm không nhỉ.

      
                         *
      

        Đôi người bạn của tôi nghêu ngao bỏ đời viên chức về làm vườn, về với phần rìa đô thị này, và họ nói: trồng hoa, trồng lơ ghim cũng là "sáng tác" nghệ thuật. Rằng mỗi lứa hoa rõ là một tác phẩm, liên tục, cuốn chiếu, với đầy đủ cảm xúc hồi hộp, mừng, lo, suy tư, vui, sầu. Bạn tôi nói sương quen thuộc, nhưng có những sớm mai đi làm vườn, chính họ cũng giật mình khi nhìn thấy hình hài, một trạng thái mới của sương.
        Tôi muốn làm người bình thường, như bá tánh cần lao, để được "hành hương về với sương", với miền ngoại ô dễ hiểu của phố núi, để mơ tưởng, để thả trôi mình, để thấy cuộc đời thật dễ thương, và trời đất mênh mang ngay dưới chân, trước mắt môi mình. Những nàng sinh viên miền Trung tâm hồn hơn cả thi ca ấy có thể quên tôi, nhưng chắc khó quên những vườn sú, vườn lơ hư vô thoáng xanh thoáng mất khi tôi chỉ “đày” đến nơi thế này, thay vì ga lăng như các chàng hào hoa đón tới các danh thắng dập dìu.
          Thung sâu, sườn hoa, đồi rau, cái phần thừa, phần “vô danh”, phần ngoại cuộc của du lịch Đà Lạt, nó cứ thầm lặng, trầm tư, lạ hoài.
           Nhưng ở đây vui sầu nó thật.

................................

               (*)Ông "Năm Yersin"_người dân vùng Diên Khánh, Khánh Hoà gọi nhà thám hiểm, bác sĩ A.Yersin một cách thân thương, "Việt hoá" như vậy, cho người đặt nền móng ra đời Trường  Đại học Y Hà Nội, Viện Hải dương học, cùng  hệ thống viện Pasteur ở VN và khám phá kiến nghị xây lập thành phố nghỉ dưỡng Đà Lạt  trên cao nguyên Langbian.

*Ảnh Nguyễn Hàng Tình

Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire