Trong Thế Giới "Trầm tư" của Đà Lạt Nguyễn Hàng Tình | |
Nay ở Đà Lạt mà nhiều lúc nhớ "Đà Lạt" vô cùng. Tôi không
mặn mà nữa cho cái phần "thị" riêng có, đầy thanh lành của những
ngày không xa hôm nào của phố núi ngọc ngà cứ biệt xứ; phố xá xứ lạnh
cũng bỗng đua đòi, hung hăng. Cái thời rong ruổi miệt mài dưới
duyên hải, có những ngày ngồi ở xứ biển Nha Trang, ngã lưng
vào mộ ông Năm Yersin(*)trên đồi Suối Dầu, nhìn ngược về phố núi mờ
xa lại một thế giới khác xứ sở này hiện ra, kéo tôi quay về...
Tôi mến quí người giàu sang chân chính,
nhưng giao du nhiều hơn với dân cày; chơi với bá tánh cần lao nhiều hơn quan thầy,
giới kinh doanh, người lặng lẽ hơn người ồn ào, người vô danh hơn người nổi tiếng.
Khi đến miền xứ nào, và ngay ở Đà Lạt cũng vậy.
Người nơi khác cứ nghĩ về Đà Lạt là những điểm du lịch Thung Lũng Tình
Yêu, hồ Than Thở, Thác Prenn, Dinh thự, hay những dãy phố bên trên hồ
Xuân Hương, những biệt thự kiến trúc Pháp, rừng thông. Với tôi, thì thế giới
hay “kéo tôi về” là cái phần “vô danh” của xứ du lịch hoa lệ này.
Ấy là phần rìa mà mỗi sớm mai những người nông dân mang ủng
cao su lên vườn đồi trồng bông, lơghim. Cái phần rìa tần tảo, phần rìa là
môi trường mưu sinh của nông phu Việt ly hương, đầy bùn đỏ; phần rìa mà cư dân
còn có tâm trạng chờ mưa đợi nắng, sống bằng giọt mồ hôi thật sự; phần rìa
không biết hóng du khách, chờ hội hè lễ lạt. Nơi đó giữ lại hồn hương xứ sở,
cái "gen" đồi núi, chất "người Đà Lạt" không phai phôi
(không phải ai bây giờ sinh sống ở Đà Lạt cũng có chất "Đà Lạt ), nhịp
sống an nhiên, thong dong, chậm trôi, tự sự. Miền quê, hai mùa nắng mưa cày cuốc,
nhưng con người lại phong lưu vô cùng: đi không vội, ăn không nhanh, nói không
to, giận không hét. Những cái tên ấp canh nông hiền khô, này Thái Phiên,
Nam Hồ, Trại Mát, Đa Quí, Đa Thọ, Phước Thành, Đa Thành, Sầm Sơn, Vạn Thành, Đa
Thiện, Đông Tĩnh, Thánh Mẫu, Cầu Đất, Trại Hầm, sở Lăng... Ô hay, lúc nào cũng
mát dịu hoa trái, nồng nàn thảo mộc. Mỗi một mảnh vườn rau, nông dân trồng một
loại rau khác nhau, cho một nhan sắc riêng, gợi cảm, man mác tình thôn trang xứ
lạnh, đãi cả cho thị giác, chứ không phải khiến nghĩ ngay cho cái dạ dày.
*
Nơi đó, nhà cửa giản đơn treo đây đó như rải những nốt nhạc bên sườn núi,
dưới thung lũng, len theo đỉnh đồi. Những con đường vào thôn ấp nhỏ bé nhưng độ
lòng vòng thì chả biết kéo đến đâu trên những dải núi đồi khuất lấp, lớp này chồng
lên lớp kia. Nơi đó, những vườn rau bậc thang như cây đàn Accordéon khổng lồ của
người nghệ sĩ thiên nhiên say nhạc kéo ra khắp nơi, chơi như một gã điên, không
ngừng nghỉ, lang thang mãi, quên đường về. Nhà này, nhà kia có thể sang xin
nhau đôi trái sú về luộc, nhúm đậu Hòa Lan về xào, bông Artichoke về hầm, bó
hoa salem về cúng, một cành hồng về chưng... Giỗ quảy, cưới hỏi, lễ lạt, người
ta còn có thể làm được cái điều rất "nhỏ", mộc mạc cổ xưa là
mang qua nhà kế bên một đĩa xôi, hay vài ba trái chuối laba, trái hồng đầu
mùa... Cái chất lưu dân cần mẫn, chịu khổ chịu khó, ngang tàng, bất cần đời,
coi thường tiền bạc, trọng nghĩa, khinh tiền, chân thành, rộng lượng, và không
hãi sợ trước quyền lực vẫn còn bàng bạc lưu cửu trong các tổ người. Mọi sự hẹp
hòi đều không phù hợp với Đà Lạt, những mưu tính, tinh khôn đều không sống lâu
dài, không "chơi" được với một "Đà Lạt" trong sáng thế
này. Cư dân là góp, đến đã lâu, nhưng nay mỗi ấp đi qua, chỗ này tôi vẫn
còn nghe được dư âm của giọng Bắc, giọng Nghệ, chỗ kia là giọng Quảng, chỗ nọ
là giọng Huế, và xa thêm một tí nữa là tiếng và giọng người Cill, Lạch_bộ phận
cư dân hiểu Đà Lạt nhất, cao thượng, chịu cô đơn và nghèo khó giỏi hơn cả lưu
dân Việt, là chủ nhân sâu nặng của xứ sở này mà. Già ba phần tư diện tích Đà Lạt
là thuộc về phần canh nông hồn hậu đó. Đà Lạt thật là "Đà Lạt" ở chỗ
đây, chứ cũng không phải sự chảnh chẹ ở khu Hoà Bình, bùng binh 3/2, chợ Cẩm
Đô, ngã tư Phan Chu Trinh, ngã Năm Đại Học, hay Thung Lũng Tình Yêu, thác Cam
Ly, hồ Than Thở, Dinh Bảo Đại, Đồi Mộng Mơ, Đà Lạt Sử Quán, hoặc 700 khách
sạn hơ hớ chồm ra...
*
Nơi miền ngoại ô vô nhiễm với du lịch và chứng khoán địa ốc ấy,
những tiếng chuông chùa, chuông nhà thờ khi vang lên làm cho núi đồi mênh
mông, thênh thang hơn, như bò lên từng mảnh vườn lơghim, len vào màu xanh
hoa trái, sang trọng và huyền nhiệm. Ai bảo đó không phải một thứ "đặc sản"
nữa của Đà Lạt, cùng thông xanh, lơgim, sương khói, sự thanh vắng, nỗi buồn,
cái lạnh. Cứ lắng lòng, ta sẽ nhận ra tiếng chuông nhà thờ ở Đà Lạt thênh thang
phúc âm, tiếng chuông chùa bàng bạc bát nhã, mang vóc dáng khác với tiếng
chuông của quê xứ khác. Tôi nghĩ một người có ý định quyên sinh, sẽ rất
khó thực hiện khi vấp phải thứ thanh âm ấy vào buổi chiều tàn.
Cái phần rìa đấy là phần âm đô thị, phần con gái,
so với cái phần con trai_ phần dương phố xôn xao, bướng bỉnh, nhiều màu,
lắm lời ngoài kia. Nó nhắc nhớ cái gốc gác sơn nguyên, và giữ cho thành
phố này khỏi cục cằn thô thỗ, lạc lối, mất mình.
Những lũng đồi thuần hậu canh nông đó, khi xuất hiện
sương thì đúng như những bữa tiệc trời bày. Sương giăng bồng bềnh, nổi trôi,
đôi khi có cảm giác về sự gập ghềnh của nhung lụa, tựa kẻ rỗi công kéo những dải
lụa trời đi chơi và quên mất mùa màng. Độ mỏng dày, cao thấp, gần xa của làn
sương miền thôn ấp kia làm nhiều khi mường tượng đến cái phần cơ thể của
gái trinh.
Ở những cánh rừng thông Đà Lạt sương đẹp kiểu khác, bị
giới hạn; nhưng ở những vùng nhà vườn, sương phủ thật phóng khoáng, nhiệt tình.
Khi ngắm nhìn sương nơi rừng thông, ta sợ lạc trong cái phần ngút sâu của cây rừng
không thể nhìn thấy. Còn nhìn sương trên vùng nhà vườn ta lại sợ bị trôi đi,
lút vào trong sự vô tận của mong manh. "Tác phẩm" sương đó xuất hiện
cũng không có qui luật về tạo tác hình hài; mỗi ngày, mỗi mùa, mỗi sớm, mỗi chiều,
mỗi ngọn đồi, mỗi thung lũng, mỗi vách núi, mỗi khu nhà vườn, mỗi cánh rừng...
từng lúc đều khác nhau.
Vẻ đẹp chết người của sương chưa giết ai, nhưng nó làm người ta nhớ nó, mà lại
là thứ sương ngoại ô này. Nó vừa man dại vừa liêu trai, thoả chí phiêu bồng
hoang lạc, sầu mộng và thăng thiên, nhưng trong lành, và điểm trang cho sự
cần lao, vườn tược, cỏ cây, núi đồi. Sương cũng là "sản phẩm" du lịch
Đà Lạt kia mà.
*
Tôi nhớ lắm người bạn Huế lưu vong buổi bần hàn, sống bằng mơ tưởng, nhiều lần
một hai giờ sáng đạp cửa rủ nhau phóng xe đi... xem sương, sương ngoại ô. Tôi
cũng thề đừng hòng tôi quên những lần uống rượu giữa sương đêm với những thằng
bạn kẻ sĩ giang hồ đúng nghĩa và tiêu dao khinh bạc cả nhan sắc:
"Tay vung kiếm chém phân vùng sinh tử/ Thì sá chi một chút má em hồng".
Mà những ai yêu quí, tha thiết, nể trọng, tôi mới "mang" ra giới
thiệu họ với sương Đà Lạt, đãi rượu phong sương giữa trời ngoại ô tần tảo này.
Đó là thứ rượu pha sương_ một thứ là sáng tạo của con người, còn thứ kia là
sáng tạo của thượng đế, đều kiều diễm, ngạo nghễ. Khi uống rượu trong sương, ta
thấy cô gái nào cũng thành thiên thần cả.
Nhắc đến sương Đà Lạt, có ai thèm không nhỉ.
*
Đôi người bạn của tôi nghêu ngao bỏ đời viên chức về làm vườn, về với phần rìa
đô thị này, và họ nói: trồng hoa, trồng lơ ghim cũng là "sáng tác"
nghệ thuật. Rằng mỗi lứa hoa rõ là một tác phẩm, liên tục, cuốn chiếu, với đầy
đủ cảm xúc hồi hộp, mừng, lo, suy tư, vui, sầu. Bạn tôi nói sương quen thuộc,
nhưng có những sớm mai đi làm vườn, chính họ cũng giật mình khi nhìn thấy hình
hài, một trạng thái mới của sương.
Tôi muốn làm người bình thường, như bá tánh cần lao, để được
"hành hương về với sương", với miền ngoại ô dễ hiểu của phố núi, để
mơ tưởng, để thả trôi mình, để thấy cuộc đời thật dễ thương, và trời đất mênh
mang ngay dưới chân, trước mắt môi mình. Những nàng sinh viên miền Trung tâm hồn
hơn cả thi ca ấy có thể quên tôi, nhưng chắc khó quên những vườn sú, vườn lơ hư
vô thoáng xanh thoáng mất khi tôi chỉ “đày” đến nơi thế này, thay vì ga lăng
như các chàng hào hoa đón tới các danh thắng dập dìu.
Thung sâu, sườn hoa, đồi rau, cái phần thừa, phần “vô danh”, phần
ngoại cuộc của du lịch Đà Lạt, nó cứ thầm lặng, trầm tư, lạ hoài.
Nhưng ở đây vui sầu nó thật.
................................
(*)Ông "Năm Yersin"_người dân vùng Diên Khánh, Khánh Hoà gọi nhà
thám hiểm, bác sĩ A.Yersin một cách thân thương, "Việt hoá" như vậy,
cho người đặt nền móng ra đời Trường Đại học Y Hà Nội, Viện Hải dương học,
cùng hệ thống viện Pasteur ở VN và khám phá kiến nghị xây lập thành phố
nghỉ dưỡng Đà Lạt trên cao nguyên Langbian.
*Ảnh Nguyễn Hàng Tình
|
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire