mercredi 12 novembre 2014

Vì sao du khách nước ngoài chỉ đến VN một lần?


Vì sao du khách nước ngoài chỉ đến VN một lần?

Hải Ninh, phóng viên RFA
000_Hkg3888304-305
Hai khách du lịch nước ngoài đi ngang một Công ty du lịch ở Hà Nội hôm 04/8/2010. Ảnh minh họa.
AFP photo




Dự án về nâng cao năng lực du lịch trách nhiệm ở Việt Nam vừa đưa ra một báo cáo, theo đó, nói rằng chỉ 6% du khách nước ngoài quay trở lại Việt Nam lần hai. Cơ quan này đã đính chính thông tin trên tuy nhiên nó vẫn khiến câu chuyện về du lịch Việt Nam trở lại nóng hổi.

Một đi không trở lại

Dự án Chương trình phát triển năng lực du lịch có trách nhiệm với môi trường xã hội do Liên minh Châu Âu tài trợ vừa đưa ra một báo cáo gây sốc. Theo báo cáo của họ, chỉ 6% du khách nước ngoài cho biết sẽ quay trở lại Việt Nam lần hai. Dự án này thực hiện trưng cầu ý kiến của 3.000 du khách nước ngoài ở 5 điểm du lịch chính là Sa Pa, Hạ Long, Huế, Đà Nẵng và Hội An.
Con số 6% quá thấp này khiến nhiều người Việt Nam và những người quan tâm tới ngành du lịch phải nóng mặt. Chẳng phải Việt Nam vẫn được coi là nơi được ban phát danh lam thắng cảnh tuyệt đẹp hay sao? Trên mạng xã hội và các blog cũng bàn luận sôi nổi về báo cáo trên. Nhiều người bắt đầu đổ lỗi cho những thiếu sót vẫn chưa tìm được cách giải quyết như cơ sở hạ tầng, nạn chặt chém, trộm cướp đến mức công an một thành phố lớn phải rải truyền đơn cảnh báo, vân vân.
Cũng có người bênh vực giới làm du lịch Việt Nam và chỉ ra lỗ hổng của cuộc thăm dò trên, rằng nó thực hiện tại 5 điểm du lịch nổi tiếng ở Việt Nam. Họ nói rằng tất nhiên khi được hỏi có quay trở lại những nơi này nữa hay không, họ sẽ nói không vì đã biết rồi. Hơn nữa, khách phương Tây cũng muốn đi du lịch nhiều nơi khác nhau.
Đối tượng khách châu Á này có nhu cầu về mua sắm, vui chơi giải trí rất cao. Trong khi đó, ở Việt Nam những dịch vụ đó vẫn còn yếu so với Malaysia, Singapore và Thái Lan.
-Chị Phạm Kim
Những người làm du lịch Việt Nam thì khẳng định không có chuyện đa số khách phương Tây không có thiện cảm với Việt Nam tới mức một đi không trở lại như vậy. Ông Nguyễn Việt Dũng, giám đốc công ty du lịch Discovery Indochina, cho hay khách Tây của công ty nếu không quay lại thì cũng giới thiệu cho người thân, bạn bè về Việt Nam. Nhiều khách Tây của công ty ông đến Việt Nam là do được giới thiệu truyền miệng như vậy.
Chị Phạm Kim, hoạt động trong ngành du lịch đến 10 năm nay, cho biết khách hàng của chị có người quay trở lại đến 4-5 lần, có người yêu Việt Nam quá còn quay trở lại cả 9-10 lần. Chị nói:
“Số lượng khách quay lại Việt Nam là nhiều chứ không phải ít. Có những khách không quay lại thì họ giới thiệu cho bạn bè họ.”

Thiếu đủ thứ

Theo số liệu của tổng cục du lịch Việt Nam, khách du lịch nước ngoài đến Việt Nam trong 8 tháng đầu năm nay là gần 6 triệu lượt. Năm ngoái, con số này là khoảng 7,5 triệu lượt khách. Trong số khách du lịch này, phần nửa là khách đến từ các nước châu Á như Trung Quốc, Thái Lan... Những khách này phần lớn là một đi không trở lại.
000_Hkg8121501-250.jpg
Một nhóm du khách nước ngoài đi bộ ở khu phố cổ của Hà Nội vào ngày 21 Tháng 12 năm 2012. AFP PHOTO / HOANG DINH Nam.
Chị Phạm Kim cho hay:
“Đối tượng khách châu Á này có nhu cầu về mua sắm, vui chơi giải trí rất cao. Trong khi đó, ở Việt Nam những dịch vụ đó vẫn còn yếu so với Malaysia, Singapore và Thái Lan. Vì thế, những du khách này chỉ đến một lần thôi và không quay trở lại. Họ đến Việt Nam để xem có những danh lam thắng cảnh. Nếu để đi mua sắm, đi chơi thì họ trở lại những nước khác.”
Trái lại, khách phương Tây rất yêu thích danh lam thắng cảnh Việt Nam thì gặp khó khăn về đi lại. Chị Kim cho biết:
“Chúng ta không có đường bay thẳng sang Việt Nam. Thường thì họ sẽ phải quá cảnh qua Bangkok hay Singapore, Hong Kong. Vậy nên, với họ như vậy là rất không tiện lợi và lại ảnh hưởng tới chi phí cho chuyến đi đến Việt Nam của họ.”
Trong khi đó, chính phủ Việt Nam không có chính sách cởi mở cho du khách. Điển hình là việc cấp thị thực du lịch khá rắc rối và đắt đỏ. Du khách phải trả gần 50 đôla cho một lần vào Việt Nam, cao hơn rất nhiều lần so với các nước láng giềng như Thái Lan hay Singapore. Những người này thường chỉ yêu cầu khách nước ngoài trả từ 20-25 đôla cho một lần vào nước họ. Chị Kim nói:
Các nước như Malaysia, Lào, Thái Lan và Singapore miễn thị thực cho rất nhiều khách của nhiều quốc gia khác nhau nhưng Việt Nam thì rất hạn chế.
-Chị Phạm Kim
“Các nước như Malaysia, Lào, Thái Lan và Singapore miễn thị thực cho rất nhiều khách của nhiều quốc gia khác nhau nhưng Việt Nam thì rất hạn chế. Vì thế họ đã không tạo được điều kiện thuận lợi cho những khách muốn quay lại.”
Ngoài ra, du khách cũng than phiền rằng Việt Nam có nhiều danh thắng mà không biết giữ gìn và khai thác hợp lý. Chị Kim nói:
“Ví dụ như các bãi biển, mình lại cho xây các khu nghỉ dưỡng, khách sạn một cách ồ ạt, dẫn tới việc các bãi biển không còn nguyên sơ nữa. Chẳng hạn như bãi biển Múi Né, cách đây hơn chục năm nó rất đẹp với những hàng dừa xanh trải dài, khách nhìn rất thích. Tuy nhiên, khi du lịch phát triển thì bãi biển Mũi Né chỉ còn các khu nghỉ dưỡng và khách sạn mà thôi. Các công trình xây dựng nó cũng làm mất đi hồ nước tự nhiên ở trên dải đất khô ở Mũi Né.

Các điểm du lịch mới

Chị Phạm Kim cho biết khi trở lại Việt Nam lần hai, các du khách cũng muốn tới những nơi vẫn còn đậm chất văn hoá như vùng núi phía bắc thay vì các thắng cảnh nổi tiếng thế giới. Chị Kim nói:
“Những năm gần đây, Sa Pa bị thương mại hoá nhiều rồi thì du khách lại có xu hướng tìm về những vùng núi cao ở Đông Bắc, Tây Bắc như Hà Giang. Bây giờ điểm thu hút khách mới là Hà Giang.”
Loại hình du lịch cộng đồng, hay tên tiếng Anh là homestay, cũng vì thế cũng phát triển nhanh. Chẳng hạn như ở huyện Nậm Đằm, Hà Giang, nhiều gia đình người dân tộc Dao mở cửa tư gia của họ để đón khách tới thăm thú. Những vị khách này được phụ vụ ăn ngủ. Nếu thích, họ có thể cùng làm việc với gia chủ.
Một người nước ngoài trên mạng Facebook cũng bình luận rằng chỉ cần ra khỏi các đô thị lớn thôi, họ được tiếp xúc với những người dân Việt chân chất, tốt bụng. Chị Kim cho biết đây cũng là một hình thức mới, khiến nhiều du khách thích thú đón nhận.





Du lịch VN: tại sao “một đi không trở lại”?

Tin tức từ quechoa : Du lịch VN: tại sao “một đi không trở lại”? Cùng xem có gì hay nhé.

Gs Nguyễn Văn Tuấn/ FB Nguyễn Tuấn
Khi đọc xong bản tin này (“Chỉ 6% khách quốc tế quay lại Việt Nam”, 1), phản ứng của tôi là nói thầm: “Đáng đời”. Gieo giống nào thì gặt quả đó. Dịch vụ nghèo nàn và văn hoá ứng xử tồi tệ, thì dĩ nhiên khách chỉ đi một lần và không hẹn ngày quay lại là đúng rồi. Thật ra, con số 6% có lẽ còn cao, chứ trong thực tế có thể thấp hơn nữa. Cần nói thêm rằng thống kê cho thấy 55% du khách đến Thái Lan là những người đã từng đi du lịch Thái Lan trước đây. Con số của Thái Lan chắc phải làm cho nhiều người trong kĩ nghệ du lịch VN xấu hổ. 


Tôi là người Việt, cũng thương cái đất nước đó lắm, mà khi đi du lịch thì cũng “một đi không trở lại”. Người Việt mà còn thế, thì chuyện người nước ngoài đến VN chỉ để biết 1 lần duy nhất cũng không phải là điều quá ngạc nhiên. Việt Nam có đủ những yếu tố để xua đuổi khách du lịch, và để họ có lí do để không quay trở lại. 

Có những nơi tôi đi qua và rất muốn quay trở lại, nhưng có những nơi mình thậm chí nghĩ thà đừng đến đó lần đầu làm gì. Một trong những nơi tôi lúc nào cũng muốn quay lại là Thái Lan. Số liệu thống kê nói rằng 55% các du khách đến Thái Lan là những người “returnees” (tức đã từng ghé thăm Thái Lan trước đây). Còn có nơi tôi không muốn quay lại là các nơi ngoài Bắc, đặc biệt là Vịnh Hạ Long, và một số địa điểm trong Nam như Hà Tiên, Vũng Tàu, Mũi Né. Đó là những nơi nguy hiểm cho du khách, những nơi mà đến đó chỉ chuốc lấy phiền phức và sự bất tiện. 

Tôi tự hỏi yếu tố gì làm cho mình thích quay lại hay không muốn quay lại. Ngẫm nghĩ một hồi, tôi tự trả lời những yếu tố mang tính môi trường du lịch như sau: không gian, phẩm chất nước uống và nước dùng, phẩm chất cảnh quang thiên nhiên, phẩm chất không khí, mức độ ồn ào, di sản văn hoá, và mức độ thân thiện của người dân địa phương. Cũng có thể nghĩ đến những yếu tố mang tính kĩ thuật một chút như sự chuyên nghiệp trong tổ chức tour, quảng bá, và phẩm chất “sản phẩm” du lịch. Nếu xét qua những yếu tố trên, tôi nghĩ VN đều ở thế thua thiệt, và Thái Lan ở thế thượng phong. 

Không gian Việt Nam không có nhiều hấp dẫn như Thái Lan. Đến VN, ngay ở các thành phố hay bất cứ khu đô thị nào, là chấp nhận rủi ro. Rủi ro bị xe đụng, rủi ro bị trộm cướp, rủi ro bị chặt chém trong các nhà hàng và khu du lịch. Ở nơi nào mà có du khách không dám băng qua đường vì sợ bị xe cáng chết, và xe thì cũng chẳng buồn tình nhường cho du khách một bước đi. Đó là nơi mà người ta bận bịu đến nỗi chẳng quan tâm đến an sinh của du khách, thì đến đó làm gì cho phiền phức. 

Phẩm chất nước, nói thì đơn giản và chuyện nhỏ, nhưng đối với người nước ngoài thì cả một vấn đề lớn. Chỉ cần dùng nước “bậy bạ” thì bị “Tào Tháo” đuổi, và thế là cả chuyên đi xem như mất vui. Phải nói thẳng là phẩm chất nước ở VN kém quá, kém đến nỗi du khách chỉ dùng nước lọc trong chai. Mà, theo như báo chí phản ảnh, có khi nước lọc trong chai cũng chưa chắc an toàn, bởi vì có những cơ sở dỏm làm nước lọc giả hay nhái thương hiệu. 

Còn vệ sinh ở VN là một cơn ác mộng. Đi tìm cầu vệ sinh đã là khó, mà tìm được thì chưa chắc dùng được. Không dùng được vì quá dơ bẩn. Dơ đến mức độ có người thà chịu đau chứ không dám đi cầu! Ở vài nơi thì người ta tính tiền, hình như là 2000 đồng một lần đi. Thật hiếm thấy nơi nào mà du khách đi cầu tiêu tiểu phải trả tiền. Số tiền chẳng là bao nhiêu, nhưng nó nói lên cái thói thừa cơ hội để chặt chém của kĩ nghệ du lịch VN và đất nước / con người Việt Nam.

Nước thì kém như thế, còn phẩm chất không khí thì cũng đáng nói là tệ. Không khí và bầu trời ở VN tuy chưa xám xịt như ở Bắc Kinh bên Tàu, nhưng ở các thành phố lớn như Sài Gòn và Hà Nội thì đó là một vấn nạn. Ô nhiễm không khí không phải chỉ khói xe, mà còn các hãng xưởng ngày đêm xả khói thoải mái ngay trong nội thành! Du khách nước ngoài, chỉ cần đến Sài Gòn, thấy người ta đeo khẩu trang đã ngạc nhiên, nhưng nhìn thấy xe cộ phun khói mịt mù thì họ hiểu rõ tại sao. Ấn tượng đầu đã không đẹp! 

Mức độ ồn ào là một vấn đề lớn ở VN. Đi đâu, bất cứ nơi nào, tiếng ồn đều theo đuổi du khách. Người ta đi du lịch là để tìm sự thoải mái tinh thần và tìm nơi vắng vẻ, yên tĩnh. Nhưng đến VN thì khó mà có sự yên tĩnh. Ngay cả ở những nơi êm đềm như Hội An mà du khách cũng không được để yên, bởi vì cứ mỗi sáng, trưa và chiều là bị tra tấn bởi cái loa phường. Thật hiếm thấy nơi nào trên thế giới mà người ta “tra tấn” du khách như ở VN. 

Phẩm chất cảnh quang thiên nhiên ở VN phải nói là không cao, nếu không muốn nói là khá tồi tệ. VN chúng ta không có những đền đài hoành tráng như Kampuchea, không có những cảnh thiên nhiên hùng vĩ như Nam Dương, không có những cảnh trí mùa thu đẹp như mơ của Hàn Quốc, không có những bãi biển trong xanh và mê hồn của Thái Lan. Nói chung, VN không có những cảnh thiên nhiên đẹp như chúng ta tưởng. 

Cảnh quang thiên nhiên kém nước khác đã đành, nhưng con người còn làm cho cảnh quang tồi tệ hơn vì … rác. Nhìn rác rưởi trên đường phố thì đã thất kinh hồn vía, nhưng khổ nỗi là đi đâu cũng thấy rác, từ những nơi trong thành phố đến những nơi dành cho du khách đều có rác. Thật ra, nơi nào có nhiều du khách, nơi đó có rác nhiều hơn! Cả nước có thể xem như một thùng rác khổng lồ. Rác đang giết các danh lam thắng cảnh của VN. Có thể nói không ngoa rằng Hà Tiên đã chết, Đồ Sơn đã chết, Vịnh Hạ Long đang chết, Nha Trang đang chết, Phú Quốc đang sắp chết vì rác. 

Còn nói về di sản văn hoá, thì đó là một câu chuyện buồn. Một anh bạn tôi nhận xét rằng Việt Nam đã trải qua ba thời kì đập phá. Thời kì thứ nhất là sau khi mấy ông cách mạng cướp được chính quyền. Lần thứ hai là Cải cách ruộng đất. Lần thứ ba là miền Nam lãnh đủ. Thật ra, phải kể đến lần thứ Tư nữa, đó là phong trào nhân danh “trùng tu” để đập phá đền chùa để xây cái mới. Sau bốn đợt đập phá như thế thì thử hỏi VN còn gì để gọi là “di sản văn hoá”. Thử đi thăm Hoàng Thành ở Huế thì biết người ta trùng tu rất quái đản, mới và cũ chẳng ra thể thống nào cả. Thay vì làm cột bằng gỗ, người ta làm bằng … xi măng giả gỗ! Tương tự, các đền thờ của danh nhân như Nguyễn Trãi cũng làm như thế. Do đó, di sản văn hoá của VN cho du khách coi như không có gì đáng kể hay đáng so sánh với các nước chung quanh. 

Du khách đến VN là chấp nhận sự phiền toái. Phiền toái từ những đội quân bán hàng rong, bán vé số, và những nhóm du côn. Có lần tôi đi chơi bãi biển Vũng Tàu nhân ngày cuối tuần mà không bao giờ nghĩ đến ngày ghé đó lần thứ hai. Ở những khu nổi tiếng thì chỉ thấy người ta ăn nhậu bừa bãi ở ngay bãi biển. Ở nơi xa xa một chút, tưởng rằng sẽ được yên tĩnh, nhưng đâu ngờ cũng bị các nhóm ngoài Bắc vào chiếm dụng. Họ rất hung dữ. Đến nỗi có khách đứng dựa một cây để hóng mát mà cũng bị đuổi vì đó là nơi đã … đăng kí. Còn các nhóm bán cua ghẹ ở biển, toàn dân nói tiếng Bắc, thì kinh khủng quá. Họ tự họ giết chết Vũng Tàu. Và, những đồng môn họ cũng đang giết chết Hạ Long bằng những thủ đoạn chặt chém du khách. Mới năm ngoái , anh bạn tôi tổ chức tiệc cho đoàn do anh ấy bảo trợ trong một nhà hàng có tiếng ở Vịnh Hạ Long, đến khi nhận cái bill tính tiền thì mới biết là bị chặt chém. Còn ra đường phố Hạ Long, dù chỉ uống nước mía hay cà phê, thì chặt chém là bình thường, nhất là du khách nói giọng miền Nam. Còn ở trong Nam, đến hầu như bãi biển nào cũng phải thuê dù che! Ngồi chưa yên đã có một đội quân đến chèo kéo mua hàng. Tuy nhiên, điều an ủi là các đội quân chèo kéo trong Nam có vẻ không hung dữ như ngoài Bắc. Do đó, có thể nói mức độ thân thiện của người dân địa phương là rất rất thấp. 

Đó là những yếu tố mang tính môi trường bất lợi cho du lịch VN, nhưng các vấn đề kĩ thuật và tổ chức còn là những yếu tố làm cho khách “một đi không trở lại”. Sản phẩm du lịch thì nghèo nàn (nhưng có công ti cố gắng làm mới và cải tiến). Cách tổ chức luộm thuộm. Thậm chí có công ti còn bán du khách cho các nhóm khác! Đó là chưa nói du khách còn bị tẩy não, tuyên truyền rất thấp. Đến những địa điểm như viện bảo tàng, nhà tù nổi tiếng, du khách sẽ được nghe hướng dẫn viên ca ngợi công đức trời biển của đảng, hành động anh hùng vĩ đại chỉ có dưới vòm trời Việt, và nghe người ta xuyên tạc chửi bới Mĩ Nguỵ như thế nào. Thử hỏi nếu bạn là người Mĩ mà nghe nói thế thì bạn có muốn ghé thăm VN một lần nữa? Thật là ngây thơ để nghĩ [ai cũng thấp như mình] rằng “mấy thằng Tây nó biết gì đâu”. Nói chung, tính chuyên nghiệp của phần lớn các công ti du lịch rất thấp. 

Với những vấn đề trên, tôi nghĩ chẳng ai ngạc nhiên khi thấy du khách không có ý định đến Việt Nam lần thứ hai. Họ chỉ đi một lần cho biết, sau đó thì âm thầm nói lời tạm biệt. Ngoài ra, còn phải nói thêm về giá cả quá đắt ở VN, làm cho người ta phải so sánh. Đi du lịch ở Thái Lan, người ta được chào đón một cách thân thiện và chuyên nghiệp, mà giá cả lại rất phải chăng, vậy thì tại sao phải đi VN để vướng vào phiền toái mà còn bị nâng giá một cách quá đáng. Đã nghèo, cảnh quang thì dơ bẩn, dịch vụ thì kém chất lượng mà lại làm chảnh bằng cách nâng giá! Kĩ nghệ du lịch VN tự làm khó họ. Thật ra, ngay cả người Việt ở trong nước cũng nói rằng họ đi du lịch ở Thái Lan còn rẻ hơn đi du lịch ở VN. Còn người Việt ở nước ngoài họ chỉ về thăm bà con thân nhân rồi mua các tour đi du lịch Thái Lan chứ không dám đi du lịch ở VN. Nói cách khác, kĩ nghệ du lịch VN đã thua ngay trên sân nhà. Nếu không có một cuộc làm mới và cải cách thì VN sẽ còn thua nữa. 

Theo FB Nguyen Tuan

(1) http://dulich.tuoitre.vn/…/chi-6-khach-quoc-te-…/666247.html

Rất nhiều du khách quốc tế đã xem VN là điểm đến chủ yếu “để cho biết”, nghĩa là tới một lần và không muốn quay trở lại.

Số ngày khách quốc tế lưu lại vịnh Hạ Long rất ngắn
Số ngày khách quốc tế lưu lại vịnh Hạ Long rất ngắn - Ảnh: D.Đ.M
Trent, một thầy giáo người Mỹ đang dạy tiếng Anh ở Trung Quốc, thường dành thời gian để đi du lịch các nước châu Á vào mỗi dịp nghỉ lễ, nghỉ phép. Hồi đầu năm nay, anh dành một tuần tham quan VN, sau đó qua Thái Lan. Đây là lần đầu anh đến VN nhưng đã lần thứ hai tới Thái Lan. Dịp nghỉ tết năm nay, Trent lại có kế hoạch trở lại Thái Lan lần nữa để đi chơi đảo. Hỏi sao không đến VN, vì còn nhiều điểm đến ven biển đẹp không thua gì Thái Lan, Trent nói ở Thái Lan anh được đi du lịch một cách đúng nghĩa. “Thoải mái vui chơi thâu đêm suốt sáng, không lo sợ cướp giật; dịch vụ tuyệt vời, phong cảnh đẹp và đặc biệt cái gì cũng rẻ”, Trent trả lời. Ngoài ra, Malaysia cũng là nước ở Đông Nam Á mà anh đã du lịch hai lần.

Loại hình du lịch phổ biến nhất ở VN hiện nay vẫn là tham quan, ngắm cảnh... Chẳng có khách nào muốn ngắm một khung cảnh nhiều lần. Chưa nói, cảnh quan ngày càng mất vẻ hoang sơ và xuống cấp chứ không phải đẹp hơn

Ông Phạm Văn Du, Giám đốc Công ty du lịch Xuân Nam

Trent là một trong số rất nhiều du khách đến VN một lần sau đó không muốn quay lại. Mới đây, Chương trình Phát triển du lịch có trách nhiệm với môi trường và xã hội (Dự án EU) khảo sát trên 3.000 du khách nội địa và quốc tế ở 5 điểm đến chính của VN, thu hút phần đông du khách là Sa Pa, Hạ Long, Huế, Đà Nẵng và Hội An. Kết quả cho thấy khoảng 90% khách quốc tế lần đầu tiên đến thăm VN; lượng khách quốc tế quay lại các điểm này rất thấp, chỉ khoảng 6%. Thời gian lưu trú của khách quốc tế cũng không cao, ở Đà Nẵng và Hội An trung bình 4,5 đêm; còn ở Huế, Sa Pa và Hạ Long chỉ từ 1,5 đến 2,5 đêm.
Ông Trần Vĩnh Lộc, Giám đốc Công ty du lịch Lạc Hồng Voyages, ví von một quán cà phê hay một nhà hàng khi mở cửa kinh doanh bao giờ cũng mong muốn gặp lại những vị khách quen. Vì thế, khách luôn được tiếp đón và phục vụ tốt nhất có thể để mong họ quay lại lần sau. Tương tự, trong kinh doanh du lịch, đối với nhiều nước trên thế giới, khách đến lần hai, lần ba... rất quan trọng và trở thành một trong những tiêu chí để đánh giá điểm đến đó có hấp dẫn hay không. Mức độ hấp dẫn này bao gồm cả cảnh quan thiên nhiên, môi trường, dịch vụ, sản phẩm du lịch. Nhưng ở VN, ngành du lịch quá tập trung thu hút khách mới đến lần đầu mà không quan tâm đúng tới lượng khách quay trở lại. Do đó, chỉ 6% khách quốc tế quay trở lại VN là một lời cảnh báo cần thiết. Bởi so với các nước trong khu vực, tỷ lệ này là rất thấp. Theo Tổng cục Du lịch Thái Lan, khách quốc tế quay lại nước này lần hai, lần ba... đạt tỷ lệ 13% với thời gian lưu trú trung bình 10 ngày. Riêng khách VN quay lại Thái Lan hơn 14%, thời gian lưu trú 7 ngày.
Ám ảnh hàng rong, nghèo nàn sản phẩm
Ông Phan Xuân Anh, giám đốc một doanh nghiệp lữ hành chuyên đón khách tàu biển quốc tế, cho rằng có quá nhiều nguyên nhân để lý giải vì sao du khách không muốn quay lại VN. Về an ninh trật tự, hàng rong chèo kéo, ăn xin và cướp giật là nỗi ám ảnh với du khách. Ở vịnh Hạ Long, suốt nhiều năm vẫn không giải quyết được nạn hàng rong. Có hôm, khách đang ngồi trên tàu ngắm cảnh thì thuyền chở người bán hàng rong áp vào rồi người bán trèo lên tàu để tiếp cận du khách. Thế nhưng, chủ tàu không dám lên tiếng vì sợ bị trả thù. Người bán hàng rong cứ thế đặt rổ hàng lên đùi khách đến khi nào chịu mua mới thôi. Ở TP.HCM, tại khu vực trung tâm không có chỗ cho xe đậu chờ khách sau khi tham quan. Mỗi khi thả khách xuống, tài xế phải đi thật xa để chờ, còn khách tham quan xong có khi đợi hàng chục phút dưới nắng, thậm chí dưới mưa, để xe tới đón. Khách đứng chờ như vậy sẽ lọt vào tầm ngắm của bọn cướp giật, thành mục tiêu của những người bán hàng rong, đồ lưu niệm...
Vào ban đêm, du khách ở VN thường không có chỗ để đi chơi. Ngay như TP.HCM, thường khách xem chương trình múa rối nước xong là về khách sạn ngủ. Du lịch VN không có nhiều sản phẩm, bao năm cũng chỉ với những “món” đó. Việc quản lý ở các điểm du lịch cũng không tốt, chẳng hạn với một món hàng nhưng chỉ cách nhau vài bước lại bán giá quá khác nhau. Có chỗ như vịnh Hạ Long, thuê cùng một loại thuyền ở trong vịnh để đi tham quan thì giá 20 - 30 USD/người, còn ra ngoài vịnh thuê thì chỉ 6 - 7 USD/người.
“Tất cả những điều tưởng chừng như rất nhỏ nhặt đó lại trở nên to tát vì khách có ấn tượng không tốt về điểm đến. Ngành du lịch VN có chú trọng đến tiếp thị, quảng bá để thu hút du khách quốc tế, nhưng lại không có chiến lược để giữ chân khách ở lại lâu hơn và quay lại nhiều lần hơn”, ông Anh phát biểu. Nhiều chuyên gia về du lịch cũng đồng tình khi cho rằng, điểm đến VN không thuộc dạng “càng ở lâu càng thấy thú vị”. Vì thế, phải làm cho điểm đến trở nên hấp dẫn không chỉ ở cảnh quan mà cả bảo vệ môi trường, đa dạng hóa dịch vụ vui chơi, giải trí; kết nối hàng không thuận lợi; hạ tầng du lịch trong nước đồng bộ và an ninh trật tự đảm bảo.
Còn theo ông Phạm Văn Du, Giám đốc Công ty du lịch Xuân Nam, cho đến nay VN vẫn là điểm đến “đi để cho biết” của du khách quốc tế. “Du lịch các nước trong khu vực đã thoát ra khỏi tình trạng sơ khai này để trở thành một điểm đến của khám phá, nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí, hưởng thụ, chữa bệnh. Như Thái Lan đã phát triển thành một ngành công nghiệp du lịch. Trong khi điểm đến VN chưa đáp ứng được các điều kiện cần thiết để hình thành một nền công nghiệp du lịch dù đã gần 30 năm phát triển”, ông Du nói và phân tích: “Loại hình du lịch phổ biến nhất ở VN hiện nay vẫn là tham quan, ngắm cảnh. Ở các nước, nếu chỉ phát triển loại hình du lịch này thì tỷ lệ quay lại của khách rất thấp, bởi chẳng có khách nào muốn ngắm một khung cảnh nhiều lần. Chưa nói, cảnh quan ngày càng mất vẻ hoang sơ và xuống cấp chứ không phải đẹp hơn”.


Du lịch Việt Nam: Vì sao du khách “một đi không trở lại”?

Du lich Viet Nam Vi sao du khach mot di khong tro lai
Cảnh chèo kéo làm phiền lòng du khách.
Ngày 11/11 vừa qua, vị khách quốc tế thứ 3 triệu trong năm 2005 đã đặt chân đến VN. Như vậy, mục tiêu đón 3,2 triệu lượt khách du lịch quốc tế trong năm nay chắc chắn đạt và rất có thể vượt (đến 3,5 triệu). Tuy nhiên, có đến 70-80% du khách quốc tế không quay trở lại VN lần thứ hai. Vì sao?

Tổ chức Tour không trung thực
Nhiều du khách và ngay cả những hãng lữ hành có tên tuổi đang “kêu trời” về tình trạng hàng loạt công ty lữ hành không phép, hoạt động chui... đã dẫn đến chất lượng tour bị giảm sút.
Hiện nay, trong Luật Du lịch, các quy định xử phạt công ty du lịch về hành vi kinh doanh lữ hành cắt xén hoặc thay đổi hành trình du lịch, phương tiện du lịch và các chế độ phục vụ trái với hợp đồng đã ký còn quá nhẹ.
Nhiều công ty thường xuyên dùng chiêu quảng cáo ở khách sạn 3 sao nhưng đưa khách đến 1 sao, 2 sao...
Trong đơn khiếu nại, một người dân ở Q.1 - TPHCM, phản ánh: Gia đình ông đăng ký đi tour Cà Ná - Vĩnh Hảo - Cù lao Câu thời gian 2 ngày 1 đêm với công ty Du lịch S.N. Trong “chào tour”, khách được tắm biển Cà Ná, tham quan Cù lao Câu, tắm bùn khoáng và tham quan suối Vĩnh Hảo... Thế nhưng hướng dẫn viên đã tự ý thay đổi chương trình tham quan Cù lao Câu bằng tham quan vịnh Vĩnh Hy, cắt hẳn chương trình tham quan suối Vĩnh Hảo, không cho tắm bùn khoáng... Khách thắc mắc thì hướng dẫn viên trả lời: “Phải rút ngắn chương trình tham quan để các bác có thời gian đi mua sắm!”. Cả đoàn ai cũng bực mình, cảm giác như mình bị lừa.
Một số công ty bán tour 5 ngày 4 đêm nhưng khởi hành vào buổi chiều ngày đầu và đi về vào sáng sớm của ngày cuối nên thực chất chương trình tham quan chỉ có 3 ngày... như vậy thực chất là "chặt chém" giá tour.
Một quan chức Tổng cục Du lịch thừa nhận một hiện tượng khác phổ biến hiện nay đó là cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp du lịch. Ngoài ra, cũng liên quan đến các doanh nghiệp đó là dịch vụ kém, ảnh hưởng đến quyền lợi của khách du lịch.
Nhiều nơi, do hiện tượng nâng giá, ép khách du lịch đã bị khách du lịch quay lưng. Đấy là chưa nói đến chuyện các công ty du lịch chưa biết cách bảo vệ khách trước đội quân đeo bám bán hàng rong lừa đảo.
Lễ nhiều, hội ít
Nhắc đến Malaysia là người ta nhớ đến lễ hội "Sắc màu Malaysia", Thái Lan là lễ hội "Tạt nước", Indonesia là những lễ hội dân gian ở đảo Bali xinh đẹp... Nhắc đến Việt Nam, gần như du khách nước ngoài không ai nhớ được cụ thể lễ hội đặc sắc nào.
Khoảng 6 năm nay, kể từ khi Tổng cục Du lịch phát động chương trình hành động quốc gia về du lịch, mỗi năm cả nước diễn ra trên 300 lễ hội lớn nhỏ, (riêng tháng 2 có đến 120 lễ hội). Thế nhưng ngay cả những lễ hội lớn như Nha Trang Festival biển, Festival Tây Nguyên, Giỗ tổ Hùng Vương, Liên hoan văn hóa du lịch Đà Nẵng, Hạ Long, Trái cây Nam Bộ... cũng chưa gây được ấn tượng đặc sắc. Điều này thể hiện qua doanh thu cũng như lượng khách nước ngoài đăng ký tour ở các công ty du lịch còn hạn chế.
Lý giải nguyên nhân, nhiều du khách cho rằng: "Các chương trình lễ hội hiện nay chưa đúng nghĩa lễ hội thật sự, "lễ" thì nhiều mà "hội" chẳng bao nhiêu nên chưa cuốn hút được du khách nước ngoài".
Một người khác thẳng thắn: "Tôi khẳng định chưa có lễ hội nào thật sự mang lại hiệu quả cho ngành du lịch, nó chỉ mới dừng lại ở tầm phục vụ người dân địa phương. Lễ hội cứ diễn ra một cách manh mún, hết nơi này làm đến nơi kia làm, chưa có sự tập trung phối hợp để nâng cao quy mô. Tất cả đều chưa thể hiện tính chuyên nghiệp...”.
Cách mà Malaysia, Indonesia, Thái Lan... tổ chức lễ hội rất bài bản, chương trình được gửi cho tất cả các doanh nghiệp lữ hành các nước từ đầu năm. Gần đến lễ hội, họ gọi điện thoại đến từng công ty "nhắc nhở" đưa các chương trình lễ hội vào tour... Những điều này rất đáng để ngành du lịch nước ta tham khảo.
Hướng dẫn viên “chui”
Ngay sau khi VN miễn thị thực nhập cảnh, lượng khách du lịch Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc đổ vào VN tăng đáng kể. Trong khi đó, số lượng hướng dẫn viên (HDV) có thẻ hướng dẫn tiếng Hàn, Nhật hay Trung lại vẫn quá hiếm.
Theo Tổng cục Du lịch, mỗi năm Tổng cục chỉ cấp không quá 30 thẻ cho HDV tiếng Hàn, trong khi khách Hàn lại chủ yếu dùng bản ngữ. Tương tự, chỉ có 17% HDV du lịch biết tiếng Trung, trong khi lượng du khách đến từ Trung Quốc đang chiếm 27% thị phần du lịch.
Thực tế đó dẫn đến kiểu làm HDV mới gọi là “sitting guide”, được định nghĩa là HDV người Việt có thẻ hướng dẫn tiếng Anh, được các công ty lữ hành thuê để đi cùng tour với khách Hàn (hay Nhật, Trung) và HDV của họ.
Nhiệm vụ của HDV người Việt đơn giản chỉ ngồi một chỗ, không mở miệng, không mua bán. Đến lúc bị kiểm tra, HDV Việt xuất trình thẻ ra là xong. Trung bình HDV Việt nhận 250.000 đồng/ngày, còn lại mọi khoản từ thù lao chính đến phụ phí HDV ngoại làm tất.
Việc bán danh (cho thuê thẻ) nhằm giúp các công ty lữ hành lách luật (Ví dụ: Phải có thẻ HDV tiếng Hàn mới được hướng dẫn đoàn khách Hàn Quốc), đang tạo nên bầu không khí thiếu lành mạnh trong ngành du lịch VN. Điều đáng nói là lẽ ra HDV Việt đóng vai trò chủ đạo và HDV ngoại chỉ là phiên dịch thì ở đây HDV nội lại trở thành người đóng thế bất đắc dĩ.
Một quan chức Tổng cục nói: “Đáng tiếc là chúng ta thực hiện miễn visa cho họ trong khi lại chưa chuẩn bị thật tốt điều kiện trong nước”. Trong cuộc làm việc gần đây cùng Tổng cục Du lịch, Sứ quán Hàn Quốc tại Hà Nội đề nghị cấp giấy phép tạm thời cho HDV Hàn Quốc để họ có thể hoạt động du lịch tại VN.
Tuy nhiên, Tổng cục Du lịch VN khẳng định: Chỉ khi nào một doanh nghiệp Hàn Quốc liên doanh với đơn vị du lịch trong nước thì đội ngũ HDV mới có thể hoạt động danh chính ngôn thuận. Hiện về nguyên tắc HDV Hàn Quốc chỉ đóng vai trò phiên dịch giữa HDV VN và du khách mà thôi.
Bên cạnh vấn đề ngoại ngữ, thì trình độ văn hoá của các HDV du lịch cũng còn yếu. Hiện nay, các điểm du lịch của VN đều gắn với văn hoá dân tộc. Nhưng HDV mới chỉ hoàn thành tốt việc chọn điểm du lịch, khách sạn, giới thiệu món ăn…mà chưa giới thiệu được nét văn hoá độc đáo của các miền. Một nhân viên Cty XNK Du lịch Hồ Gươm đúc rút: “Các HDV du lịch hiện nay nhìn chung rất năng động nhưng hạn chế lớn nhất của họ chính là thiếu kiến thức văn hoá, lịch sử”...
VN được các chuyên gia du lịch thế giới đánh giá có tiềm năng trở thành điểm đến hấp dẫn đứng hàng thứ 4 thế giới vào năm 2010. Để đạt được điều này, theo các chuyên gia du lịch, Tổng cục Du lịch còn phải làm rất nhiều việc, trong đó riêng với các lễ hội, phải đầu tư trọng tâm nhằm mục tiêu thu hút du khách nước ngoài chứ không nên dàn trải như hiện nay.
Chương trình lễ hội trong năm cần được lên kế hoạch và tiến hành quảng bá rộng rãi cho khách du lịch nước ngoài biết từ đầu năm thông qua website, báo chí... Du khách nước ngoài rất kỹ tính, họ luôn có kế hoạch trong năm rõ ràng là đến đâu, làm gì và xem gì.
Nguyễn Hiền

Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire