mardi 28 avril 2015

Vì sao có Boat People Việt Nam?



 Từ Bỏ Nước đến  các Tỵ Nạn Việt Nam.

Muốn hiểu tại sao có Boat People người Việt thì hãy cùng tác giả Mường Giang ôn dòng lịch sử nhé.

Caroline Thanh Hương

2014 Nhớ lại Sài Gòn


qua cuộc đổi đời!



Mường Giang 



            Sau khi VNCH bị sụp đổ, chẳng những tất cả Quân, Công, Cán, Cảnh của Miền Nam bị trả thù, cọng sản Hà Nội còn tận tuyệt hủy diệt các tầng lớp tư sản qua tội danh gán ghép, chụp mũ, bịa đặt cho mọi người là bóc lột, mại bản, ngụy dân.. Tại Ðại Hội đảng lần thứ IV vào tháng 5-1975, Lê Duẩn đã vênh váo tuyên bố rằng: “từ nay người VN sẽ đi trên thảm vàng, đồng thời đuổi kịp rồi qua mặt Nhật Bản trong vòng 15 năm tới”. Trên thực tế ai cũng biết trước tháng 4-1975, Bắc Việt chỉ có hai công trình vĩ đại nhất là Lăng Hồ Chí Minh tại Ba Ðình Hà Nội và Khách sạn quốc tế trên bờ Hồ Tây, do Fidel Castro của Cu Ba xây tặng. Trong lúc đó tại VNCH, đâu đâu cũng có những cơ sở kỹ nghệ nặng và nhẹ, đều được trang bị máy móc mới và tối tân, nhất là các ngành dệt, điện, lắp ráp các loại hàng sản xuất tiêu thụ. Khi VC vào, đã tận tình vơ vét máy móc đem về Bắc, ra lệnh cho nhiều nhà máy ngưng hoạt động hay biến thành quốc doanh, hữu danh vô thực.


            Song song với kế hoạch trả thù và tận diệt các tầng lớp trên, VC còn bày thêm quốc sách kinh tế mới vào cuối năm 1975, để đuổi hết số gia đình có liên hệ tới chế độ VNCH, đang sống tại Sài Gòn và các tỉnh thành, đi lao động canh tác tại rừng sâu, núi cao, ma thiêng nước độc. Kế hoạch thâm độc này, vừa tống khứ được những thành phần còn lại mà VC đã xếp loại nguy hiểm, sau khi chồng con thân nhân của họ đã bi đảng gạt vào tù. Có như vậy, VC mới chiếm được nhà cửa ruộng vườn và các tiện nghi của Miền Nam, để phân phối cho cán bộ miền Bắc, lúc đó chỉ có súng đạn, tăng pháo và mớ lý thuyết của Mác-Lê-Mao-Hồ mà thôi.


            Ai đã từng là tù nhân của VC dù có ở trong các trại tù tại miền Nam hay bị đầy ải ra vùng biên giới Việt Bắc, đã bị giặc cầm giam lâu hay mau, chắc hẳn sẽ chẳng bao giờ quên nỗi những đau đớn về vật chất và nhất là sự tủi nhục tinh thần, khi bị bọn VC gọi chúng ta là ngụy quân, ngụy quyền, là những đống rác bẩn thỉu, cặn bã của xã hội, đánh giặc thuê cho Mỹ, Pháp, Nhật..


            Ai đã từng bị VC cướp của, cướp nhà, đày đoạ lên tận miền rừng núi để phát triển kinh tế mới. Ða số đã ngã quỵ vì không chịu nổi mưa nắng, cùng cảnh ma thiêng nước độc, bệnh sốt rét rừng, ghẻ lở, kiết lỵ… mà không có thuốc uống. Cuối cùng những người còn sống, kiệt sức vì đói bệnh, nên đã bỏ rừng chạy ngược về thành. Họ đã trở nên vô gia cư và ở bất cừ nơi nào, kể cả nghĩa địa, gầm cầu, chùa miễu.. ăn sống, phó mặc cho định mệnh và bọn công an, tới hốt bắt, đưa lên lại vùng kinh tế mới, rồi họ lại về.Rốt cục huề cả làng, và càng ngày càng có nhiều người vô gia cư sống khắp mọi nẻo đường đất nước, trong xã nghĩa thiên đường.


            Chắn chắn những thành phần trên, nếu may mắn bằng mọi lý do gì, nay tới được bến bờ tự do và được sống tạm trên mọi nẽo đường thế giới, chẳng ai có thể vô tâm để quên kiếp đời ‘Tị Nạn Việt Cộng’ trăm đắng ngàn cay, biển hờn trời hận, chỉ có thể đầu thai lần khác, họa chăng mới xóa nổi vết nhơ của Dân Tộc VN trong giòng lịch sử cận đại. Bởi vậy những năm về trước, VC đã dùng quyền lợi để yêu cầu chính quyền Mã Lai, Nam Dương.. phá bỏ các Tượng Ðài kỷ niệm Thuyền Nhân VN, bỏ mình trên biển Ðông, khi trốn chạy khỏi thiên đàng xã nghĩa, tại các trại Tị nam Việt Cộng. Hành động dã man này của bọn đầu sõ Bắc Bộ Phủ, chẳng những không làm ai khiếp sợ, trái lại còn bị Cộng đồng Người Việt Tị Nạn Cọng Sản khắp thế giới thêm khinh ghét, khiến chúng đi tới đâu cũng bị mọi người tẩy chay và biểu tình đã đảo.


            Những ngày còn sống trong nước, bất cứ nghe ai hát lén bài hát đầu tiên từ hải ngoại vọng về quê hương VN đang quằn quại ngoi ngóp trong địa ngục đỏ, khiến ai cũng phải khóc. Ðó là bài ‘Vĩnh Biệt Sài Gòn’ của Nam Lộc, trước năm 1975 là một nhạc sĩ tài tử, chuyên môn giới thiệu hầu hết các chương trình ‘Nhạc Trẻ của Sài Gòn’ trong thập niên 60-70. Thiên hạ chưa kịp khô hết nước mắt hận hờn, thì Việt Dũng lại làm cho người người thét lên thành tiếng, khi anh viết ‘Một Chút Quà Cho Quê Hương’:


‘Em gửi về cho anh dăm bao thuốc lá

anh đốt cuộc đời mòn trên ngón tay

gởi về cho mẹ dăm chiếc kim may

mẹ may hộ con quê hương quá đọa đày

con gởi cho cha một manh áo trắng

cha mặc một lần khi ra pháp trường phơi thây..”


            Những lời ca thắm thiết của một người vừa khuất, nghe hoài vẫn thấy đứt ruột.


1- SÀI GÒN ĐẸP LẮM SÀI GÒN ƠI!


            Ngay khi thu hồi được nền độc lập từ thực dân Pháp, chính phủ VNCH đã nổ lực chỉnh trang và mở rộng thành phố Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Ðịnh, để giải quyết tình trạng gia tăng dân số. Thành phố được mở rộng khắp nơi, ngoại trừ phía bên Thủ Thiêm vì sự ngăn cách bởi con sông Sài Gòn quá rộng, không có cầu bắc ngang sông và vùng bên đó có nhiều ao hồ, trũng thấp nên thường bị lụt. Nhiều cầu mới được bắc ngang kênh Tàu Hũ và Kinh Ðôi, cùng với đường xe lửa và nhiều đường xá chạy song song với hai con kênh trên, khiến ranh giới giữa Sai Gòn-Chợ Lớn, được thu hẹp. Trong giai đoạn này, đã có nhiều xóm nhà bình dân mọc lên ở vùng ven biên, gồm khu nhà sàn và nhà ghe dọc theo hai bờ kinh Tàu Hũ, từ Cầu Quây tới Chợ Quán, dọc theo bến Hàm Tử, Bình Ðông và bến Phạm Thế Hiển (kinh Ðôi).


            Ðể giải quyết nạn nhân mãn tại thủ đô, ngoài việc hồi hương của quân viễn chinh Pháp và người Việt có quốc tịch nước này. Tổng thống Ngô Ðình Diệm đã ban hành các Dụ số 7 (1955), Dụ số 57(1956), nhằm mục đích khuyến khích nông gia có ruộng trở về tiếp tục canh tác, nếu bỏ hoang sẽ bị truất hữu để phân phối cho người khác. Ðạo luật trên, cũng nhằm thực hiện chính sách cải cách điền địa của Chính phủ Quốc Gia, giúp tá điền trở thành chủ điền, bằng chính sách tịch thu ruộng của những chủ điền có trên 100 mãu tây.


             Ruộng này được bán lại cho tá điền, qua hình thức Tín Dụng, trả góp cho chính phủ trong 12 năm. Ngoài ra còn có Chính Sách Dinh Ðiền và Khu Trù Mật, dành cho đồng bào Di Cư Miền Bắc và Ðồng Bào nghèo ở Miền Trung cũng như trên các tỉnh Cao Nguyên Trung Phần.. Tại các Khu Dinh Ðiền mới này, nông dân ngoài ruộng được cấp tùy theo nhân khẩu ( từ 1-2 mẫu), còn có quyền khẩn hoang tới 5 mẫu đất. Còn Khu Trù Mật thì dành riêng cho các gia đình sống rãi rác ở những vùng xa xội các trục giao thộng, quận, tỉnh.., được dồn về đây sinh cơ lập nghiệp. Ðây là một địa điểm chuyển tiếp, giữa nông thôn và thành thị, nên có đủ cơ sở hạ tầng, trường học, chợ búa và bệnh xá. Tất cả miễn phí, nhà có điện và đất vườn trồng các loại cây ăn trái. Tóm lại chỉ trong 3 năm (1955-1957), chính phủ đã thiết lập được 72 Khu Dinh Ðiền + Trù Mật ở Cao Nguyên Trung Phần, 37 ở Miền Trung và 97 Khu tại Nam Phần. Nhờ vậy đã giảm bớt 250.400 người tại Sài Gòn (80.325 đồng bào miềnBắc di cư + 70.075 dân Miền Trung + số dân Ðô Thành tình nguyện).

           

            Ngoài ra Chính Phủ còn thực hiện nhiều công trình chỉnh tranh thành phố như dẹp bỏ thiết lô Sài Gòn-Mỹ Tho và hệ thống đường xe lửa điện trong thành phố, mở rộng các đại lộ chính, xây hai cầu Phan Thanh Giản và Thị Nghè, để mở rộng thành phố ra Xa lộ Biên Hòa.. Một hệ thống xe buýt công cộng, nối liền trung tâm thủ đô với các quân ven biên Tân Bình, Bình Thạnh, Phú Nhuận, khiến cho dân số vùng này, từ 64.700 (1951) tăng lên 236.000 (1959).


            Ngày 20-12-1960 Hồ Chí Minh và cọng sản Hà Nội, lại phát động cuộc chiến tranh xâm lăng VNCH, qua bình phong MTGPMN, theo chiến thuật cố hữu ‘ lây nông thôn bao vây thành thị ‘, gây bất ổn đời sống của đồng bào khắp nơi, khiến cho nhiều người lại bỏ hết tài sản, ruộng vườn, để chạy ngược về Sài Gòn lánh nạn.Rồi thì chính biến 1-11-1963, Anh em Tổng Thống Ngô Ðình Diệm bị sát hại dã man trên chiếc Thiết Vận Xa, từ Chợ Lớn về Bộ Tổng Tham Mưu. Dương văn Minh lên nắm quyền Chủ Tịch Hội Ðồng QLVNCH, ra lệnh đình chỉ chương trình chỉnh trang thủ đo, đồng thời giải toả và dẹp bỏ các Khu Dinh Ðiền và Trù Mật của Tổng Thống Ngô Ðình Diệm. Sự kiện trên đã làm hỏng chiến lược giãm dân thành phố và trên hết cô lập Việt Cộng trà trộn sống bám vào dân, tạo cơ hội cho cọng sản trở lại nằm vùng và len lõi vào dân đang sống tại các Ấp Ðời Mới (Tân Sinh), sau khi bỏ hết các vòng rào chiến lược, phòng thủ.


            Sau 3 năm (1963-1966) xáo trộn chính trị vì nạn loạn tướng, kiêu tăng và cha cố ông trời, làm cho tình hình cả nước cũng như tại thủ đô nát bét vì sự tranh dành quyền lực của mọi phe nhóm, tạo cơ hội cho VC hồi sinh, đánh phá khắp nơi, khiến cho dân chúng nông thôn bồng bế chạy về các thị trấn, tỉnh lỵ và thủ đô lánh nạn, làm cho vật giá leo thang, thất nghiệp trầm trọng, nẩy sinh nhiều tệ đoan xã hội như trộm cướp, giết người, hút xách, đĩ điếm, lấy Mỹ và quân đội Ðồng Minh có mặt tại VNCH. Tháng 7-1967, Nguyễn Văn Thiệu đắc cử Tổng Thống Ðệ Nhị nền Cộng Hòa Miền Nam. Từ đó Ông lại tiếp tục sự nghiệp phát triển Thủ Ðô như mở mang hệ thống giao thông vận tải, thực hiện chương trình làm đẹp thành phố, xây cát cư xá, nhà ở.


            Ngoài ra còn xây dựng nhiều xí nghiệp tại Thủ Ðức và Khu Kỹ Nghệ Sài Gòn-Biên Hòa. Về quân sự, để đối phó với cọng sản miền Bắc đang xâm lăng Miền Nam, Tổng Thống Thiệu tiếp tục chiến lược dang dở của Cố Tổng Thống Diệm, qua Chiến Dịch Phượng Hoàng (1969-1970), sau trận Mậu Thân (1968) để bình định nông thôn. Nhờ vậy QLVNCH đã đẩy lui VC trở lại rừng núi, mật khu, đồng thời kiểm soát hầu hết dân chúng Miền Nam VN tại Cao Nguyên cũng như miền Ðồng Bằng từ Quảng Trị vào tới Hà Tiên. Tăng cường an ninh tại khu Trù Mật, Dinh Ðiền, Ấp Ðời Mới với các lực lượng Ðịa Phương Quân + Nghĩa Quân + Nhân Dân Tự Vệ và Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn.. Cuối cùng Chính Phủ lại tiếp tục chương trình cải cách điền địa còn dang dỡ của Tổng Thống Diệm nhưng vấp phải sự lấn đất dành dân của cọng sản. Do trên Chính Phủ lại phải xây dựng nhiều làng mạc mới trên các Quốc Lộ, để định cư dân chúng trong các vùng xa xôi bị giặc tạm chiếm, khiến đồng ruộng thôn xóm lại bị bỏ hoang, vì nhiều người về các thành phố sinh sống, lánh nạn.


            Tóm lại từ ngày độc lập (tháng 7-1954) cho tới cuối tháng 4-1975, dù bị Hồ Chí Minh và cong sản đệ tam quốc tế xâm lăng phá hoại không ngừng nhưng chính phủ VNCH, cũng đã cố gắng kỷ nghệ hóa đất nước, mở rộng các xí nghệp khắp nơi tại thủ đô, nhất là ngành dệt và chế biến thực phẩm, hóa học, dược liệu, điện và các loại máy móc.. với số lượng thống kê là 8132 cở sở lớn nhỏ.


             Sài Gòn cũng là nơi tập trung tất cả cơ quan đầu não của chính phủ như các bộ, quốc hội, tòa đại sứ của các phái bộ ngoại giao. Tính đến cuối tháng 4-1975, thủ đô ( Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Ðịnh) với tổng số trên 4 tiệu dân, là một trong những thành phố đẹp đẽ tráng lệ nhất thế giới, là một thị trường tiêu thụ to lớn nhất VN vì có một đại giang cảng thuận lợi, với số hàng hóa xuất nhập lên tới 7,5 triệu tấn hằng năm, đó là chưa kể tới Tân Cảng và Giang Cảng nhập Xăng Dầu tại Nha Bè. Thủ đô Sài Gòn còn có phi cảng quốc tế Tân Sơn Nhất, vô cùng tấp nập với hơn 1.070.000 hành khách đi về (năm 1970) với đầy đủ các hãng hàng không quốc tế, nên được mệnh danh là Chicago Châu Á. Riêng Hàng Không VN đãm trách các đường bay quốc nội, tại các phi trường tối tân vừa được thiết lâp ở Huế, Ðà Nẳng, Qui Nhơn, Pleiku, Ban Mê thuộc, Ðà Lạt, Nha Trang, Tháp Chàm, Phan Thiết, Biên Hòa, Vũng Tàu, Cần Thơ, Phú Quốc, Mỹ Tho..


            Sài Gòn là vậy đó, VNCH là vậy đó, thảm thay tất cả bị sụp đổ hoàn toàn vào trưa ngày 30-4-1975, qua lệnh đầu hàng của “Tổng Thống” Dương Văn Minh.



2- THÀNH HỒ TỪ SAU 1-5-1975 CÁI GÌ CŨNG CÓ:


            Ngay khi Sài Gòn vừa lọt vào tay giặc, tháng 5-1975 VC lập Ủy ban quân quản thủ đô và Ủy ban cách mạng tại các tỉnh, ra lệnh phong tỏa ngân hàng và chiếm đoạt tất cả các xí nghiệp cả nước, công hay tư, từ lớn tới nhỏ. Bắt đầu từ đó, các xí nghiệp được điều hành bởi một thành phần quản ly mơi, gồm toàn cán bộ cọng sản miền Bắc hay tập kết. Riêng chủ nhân thực sự của xí nghiệp thì giữ vai trò ‘cố vấn kỹ thuật’. Ðồng thời ra lệnh kiểm kê hết các cơ sở công nghiệp nhỏ và nhà buôn. nhưng ác liệt nhất vẫn là hai đợt cướp của, qua cái danh từ mỹ lệ: Ðánh Tư Sản Mại Bản.


            Vào tháng 9-1975, VC ra lệnh bắt giam hay quản thúc tại nhà, tất cả đại kỷ nghệ gia, thương gia, chủ cao ốc, khách sạn, nhà hàng, nhà in, tiệm sách báo.. tất cả hơn 100 người. Họ bị đuổi ra khỏi cửa, sau khi toàn bộ tài sản gồm nhà cửa, xí nghiệp, xe cộ, tiền bạc vàng ngọc.. bị đảng trấn lột hết. Ðồng lúc là đợt đổi tiền đầu tiền. Cũng từ đó đồng bạc VNCH không còn giá trị và được đổi thành tiền Mặt Trận, tối đa mỗi gia đình được 200 đồng (tương đương 100.000 tiền VNCH). Theo VC, miền Nam lúc đó có hai loại tư bản là Tư sản thương nghiệp bao gồm đại thương gia, trung thương gia, chủ tiệm ăn. được đảng gán tội bóc lột nhân dân, đầu cơ tích trử để trục lợi, nên phải có tội.Còn giới buôn bán nhỏ và các tiểu công nghệ.. là thành phần sản xuất có ích cho xã hội chủ nghĩa nhưng cũng phải được cải tạo để theo đúng đường lối của chế độ đề ra.


            Từ thàng 3 -5/1978, để tiêu diệt và xóa sổ những gì còn lại của nền kinh tế VNCH trước năm 1975, VC lại đánh tư bản miền Nam đợt 2 vào ngày 23-3-1978, vô cùng qui mô và ác liệt, chẳng những tại thủ đô Sài Gòn, mà ở khắp các thành thị từ vỉ tuyến 17 vào tận Cà Mâu, Rạch Giá, Hà Tiên. Lần này coi như vĩnh tuyệt, vì tất cả tài sản của người miền Nam, từ tiền bạc, vàng ngọc, nhà cửa, cơ sở thương mại, lều nước mắm, nhà máy xay lúa, ghe thuyền đánh cá, xe đò, xe vận tải và các loại xe nhỏ.. đều bị đảng cướp giựt, tịch biên một cách công khai.


             Tàn nhẫn hơn, đảng còn ra lệnh cho những nạn nhân tay trắng này, trong vòng một tháng phải ra khỏi Sài Gòn, để đi kinh tế mới. Riêng tại Sài Gòn, tính đến ngày 3-5-1978 đã có hơn 30.000 người, bị đuổi khỏi mái ấm gia đình và nơi chôn nhao cắt rốn, để vất vưởng tha phương tới các vùng gọi là kinh tế mới, được thiết lập sát biên giới Việt-Miên trong các tỉnh Tây Ninh, Bình Long, Phước Long, An Xuyên, An Giang, Ðồng Tháp Mười, Châu Ðốc Lâm Ðồng.. hay gần hơn nếu còn chút tiền chạy chọt, sẽ được đưa tới các nông trường tập thể Lê Minh Xuân, Nhị Xuân, Thái Mỹ, Phạm Văn Cội 1 và 2, ở Củ Chi và Hậu Nghĩa.


            Tóm lại ở đâu đồng bào cũng lâm vào tuyệt lộ, dù là công nhân tại các nông trường với đồng lương chết đói. Riêng chủ nhân xe đò, ghe bầu, tàu đánh cá, xe vận tải.. được xem là thành phần tư sản dân tộc nên trở thành xí nghiệp công tư hợp doanh nhưng do nhà nước quản lý, cán bộ đảng làm giám đốc, còn người chủ thật sự, thì lên chức cố vấn kỷ thuật. Tuy nhiên giới này còn được chút an ủi, là được cho phép ở lại thủ đô, có hộ khẩu tem phiếu và hưởng qui chế công nhân viên nhà nước, từ 60-85 đồng bạc Hồ. Có một ít được lãnh lương đồng hóa chuyên viên, lương 105 đồng. Nhưng lở hết rồi, có không muốn cũng đành chịu. Sau rốt là những người buôn bán nhỏ, được đảng cho hành nghề trong các khu vực tập trung, với giá cả đã có sẳn.


            Ngày 25-4-1978, thủ tướng VC Phạm Văn Ðồng đã ký một nghị định tuyệt mật, mang số 78, quyết định thống nhất tiền tệ cả nước và được thi hành bắt đầu ngày 3-5-1978. Cũng Phạm Văn Ðồng ký thêm một nghị định ngày 31-3-1978, bãi bỏ tư thương chuyễn vận hàng hóa từ nông thôn ra thành thị. Chính sách bế quan tỏa cảng, phong tỏa thành phố này, với mục đích làm tê liệt giao thông giữa các tỉnh, chia các vùng đất ở miền Nam của VNCH thành các quốc gia riêng biệt.


            Tất cả theo đúng đề cương định hướng của Lê Duẩn, muốn biến mỗi huyện là một đơn vị kinh tế thời bình và là một Sô Viết Nghệ Tĩnh, một đơn vị chiến đấu trong thời loạn. Nhưng trên hết là phải cô lập thủ đô Sài Gòn với các tỉnh miền Nam, qua thiên la địa võng kiểm soát trên bộ cũng như đường thủy. Tóm lại chỉ mới mấy năm Sài Gòn bị mất tên, VC đã đạt được mục đích cách mạng, là bần cùng hóa giới tư sản thủ đô, ăn mày hóa cả miền Nam, hủy bỏ nên kinh tế thị trường đẻạ thay thế bằng chính sách kinh tế hoạch định quốc doanh đem từ miền bắc vào. Kết quả tất cả hàng hóa và sản phẩm tại các tỉnh thị ngoài Sài Gòn, bị ứ đọng vì không xuất tỉnh được nên cuối cùng phải bán tháo đổ, rẽ mạt cho NHÀ NƯỚC. Từ đó đảng lại chở những thứ này về Sài Gòn, bày bán trong các cửa hàng, xí nghiệp, khu chợ của đồng bào vừa bị tịch biên, với sự độc quyền


            Nhưng võ quít dầy có móng tay nhọn, kẻ cướp luôn gặp bà già, đó là một chân lý. VC độc ác, bất lương, bạo tàn nhưng lại quá ngu si, luôn tưởng mọi người im lặng trước hành động thảo khấu của đảng và cán bộ, là đã đồng tình và sợ chúng. Vì vậy chúng lại càng tham lam, hấp tấp, đem các luật lệ rừng rú thú vật của cái gọi là xã hội chủ nghĩa, cùng với chính sách tập thể hóa cưởng bách đất đại, để khống chế và nắm độc quyền kinh tế của người miền Nam ở thành thị cũng như nông thôn.


             Tức nước vỡ bờ, VC bị dội ngược vào tường, vì gặp phải sự chống đối của toàn thể đồng bào VNCH, chẳng những tại Sài Gòn-Chợ Lớn mà ngay cả nông thôn miền Nam. Hậu quả nông dân không bán nông sản cho đảng theo gia rẽ mat, khiến cho hệ thống thương nghiệp quốc doanh xập tiêm vì khan hiếm nhu yếu phẩm, làm cho giá cả tăng vọt. Một sớ lớn nông dân tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, nại lý do sưu cao thế nặng, nên tự ý bỏ ruộng đất hoang không thèm canh tác. Do trên nạn chợ đen, chợ trời phát triển khắp nơi với tình trạng lạm phát, dù khắp nơi đầy nghẹt các trạm kiểm soát nhưng hàng chui từ ngoài vẫn đổ về Sài Gòn, đủ cả gạo thịt cá rau quả, vì đã móc ngoặt, hối lộ, bỏ chân với công an và cán bộ địa phương..


            Tình trạng dân đói lại càng bi thảm hơn, trước thảm cảnh của những gia đình bị đuổi lên vùng kinh tế mới, nhất là ở các chốn ma thiêng nước độc sát biên giới Việt-Miên, do đói rách, tật bệnh, nên lại liều chết quay về Sài Gòn, sống cảnh đầu đường xó chợ. Trong số này, phần lớn là thành phần quân, công, cán, cảnh và cả thương phế binh VNCH. Vì CS Hà Nội luôn coi Miền Nam như một thuộc địa, nên khi vào được Sai Gòn nhờ may mắn, đã vơ vét hết các chiến lợi phẩm về Bắc, kể cả những nguyên vật liệu rất cần thiết cho sự phát triển nền công kỷ nghệ VN. Từ sau năm 1977, hầu hết các cơ sở công kỷ nghệ luyện kim, dệt, chế biến thưc phẩm tại Sài Gòn và vùng phụ cận, lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng vì nguyên liệu đã kiệt quệ. Ðây cũng là thời gian VC bị thế giơi bên ngoài, từ Mỹ, Trung Cộng, Nhật, các nước trong Hiệp Hội Ðông Nam A.. cho tới Ấn Ðộ, Liên Âu.. tẩy chay và quay mặt, trước những hành động thực dân trong nước, cũng như đã công khai làm nô lệ cho Liên Bang Sô Viết tại Châu Á.


            Ngày 9-6-1980, Trương Như Tảng bộ trưởng ma trong chính phủ dỏm, của cái mặt trận ba làng GPMN, chạy thoát ra ngoài, tới Ba Lê họp báo, tố cáo cọng sản Hà Nội tham tàn bạo ác, ngu dốt rừng rú, nên chỉ mới một thời gian ngắn cai trị Miền Nam, đã làm cho Sài Gòn sụp đổ toàn diện về kinh tế, thiếu thốn lương thực và tệ nạn tham nhũng bất công cửa quyền, đã khiến cho hầu hết các công ty hợp doanh còn lại khánh tận vì thuế theo luật rừng. Cũng nhờ đảng quyết tâm cải tạo kinh tế, mà dân nghèo càng nghèo, bất công bất bình đẳng xã hội càng trầm trong gấp trăm lần trước ngày 30-4-1975, vì sự ham muốn hưởng thụ vất chất tiện nghi, của cán bộ đảng từ trên xuống dưới, nghĩa là chỉ cần có tiền đút lót, thì việc gì cũng tốt, cũng xong.


            Ðể lấy lại nềm tin cứu đảng, ngày 3-2-1980, nhân kỷ niêm thành lập 50 năm đệ tam cọng sản quốc tế, tổng bí thư Lê Duẩn đòi diệt trừ nạn tham nhũng, hối lộ, lạm quyền và hứa tận diệt, qua chính sách ‘ ba lợi ích’, lại tạo cơ hội thêm cho cán đảng tham ô lộng quyền, móc ngoặt với gian thương đem hàng hóa trong các cửa hàng quốc doanh bán ra thị trường chợ đen. Ba Tàu Chợ Lớn lại trổi dậy, đóng vai trung gian các nghiêp vụ mua bán chui, giữa các Ba Tàu Hồng Kông, Ðài Loan, Thái Lan, Tân Gia Ba, Mã Lai, bằng cách chở hàng hóa bằng thuyền tàu tới tận hải phận VN, để đổi chác vàng, mỹ kim hoặc các thổ sản VN như gạo, tôm cá đông lạnh.. Nhờ các dịch vụ chui béo bở này, mà các cán đảng giàu to nhanh chóng, trở thành những tư bản đỏ, trong xã nghĩa thiên đường. Cuộc dành ăn, đã khiến hai phe đảng giáo điều và đảng canh tân, thanh toán công khai đẳm máu tại Sài Gòn, làm Bắc Bộ Phủ phải xét lại vì đã nóng mặt, trong cảnh trâu cột nhìn trâu ăn, cũng thấy thèm.


- Chiến Cuộc Ðẵm Máu, Giữa Tư Bản Ðỏ Hà Nội Và Sài Gòn:


            Cuộc đối đầu giữa hai nhóm tư bản đỏ Hà Nội và Sài Gòn, thật sự đã bùng nổ, sau kỳ đại hội đảng lần thứ V (27-31/3/1982), qua nhiều thay đổi chính trị nội bộ, khiến thủ tướng Phạm Văn Ðồng, lại phải cải tổ nội các lần thứ ba (1980-1982), có 6 cán bộ trung ương đảng bị loại khỏi bộ chính trị, trong số này có Nguyễn Lam, Trần Phương, Ðinh Ðức Thiện,Nguyễn Thành Thơ và Võ Nguyên Giáp. Riêng Võ Văn Kiệt bị bứng gốc Thành Ủy Thành Hồ, về Hà Nội ngồi chơi sơi nước, trong chức vụ phó thủ tướng kiêm chủ tịch ủy ban kế hoạch nhà nước, kể cả tướng công an Mai Chí Thọ (mới theo bác về chầu tổ Mac-Lê) cũng bị lung lay địa vị.


            Phó thủ tướng Ðổ Mười được đảng giao thi hành chính sách sửa sai tại thành Hồ, với nhiệm vụ đánh tư sản thương nghiệp, trừng trị cán đảng hủ hóa tham ô, bắt đầu thi hành vào tháng 5-1983. Mục đích cũng chỉ là triệt tiêu các cửa hàng IMEX tại các quận trong thành Hồ, vì lúc đó tất cả hàng hóa xuất nhập đều do cửa hàng trung ương IMEX tại đưởng Nguyễn Huệ độc quyền. Cùng lúc Hà Nội ban hành nhiều sắc thuế nặng nề, đánh vào giới tiểu thương tại Chợ Bến Thành và các khu thương mại trong Quận Nhất, khiến cho nhiều cơ sở phải xập tiệm như Nhà Hàng Chí Tài, Tài Nam, Paris, Cola.., đành hiến cho đảng, sau đó thành công ty hợp doanh.


             Ðộc hiểm hơn, Ðổ Mười còn mở chiến dịch đánh giới tư thương bán lẽ, hàng rong trên vệ đường, viện cớ chỉnh trang thành phố. Ðối với đồng bào có thân nhân nước ngoài, Ðổ Mười ban lệnh hạn chế số quà cáp và qui định tiền nhận được, phải bỏ vào quỹ tiết kiệm. Hành động quái quỉ này, khiên cho ngoại viện của “Việt kiều” tụt giảm trầm trọng, vì không ai muốn của mồ hôi nước mắt, lọt vào tay đảng. Trong dịp này Ðổ Mười đã thanh toán được nhiều ngàn tư bản đỏ, trong đó cộm nhất có giám đốc xí nghiệp liên hiệp Cửu Long,bị tịch thu trên 20 ký lô vàng ròng. Cùng với nhiền cán đảng cao cấp tham ô trong các cửa hàng IMEX như Cholimex, Sidimex,Gidimex..


            Mặc kệ cho đồng bào cả nước bất mãn vì sưu cao thuế nặng, lạm phát, khan hiếm thực phẩm, thất nghiệp và tham ô càng lộng hành, Hà Nội vẫn theo đúng đường hướng TÂN CHÍNH SÁCH (NEP) của Liên Xô đề ra, ban hành nghị quyết của bộ chính trị trong phiên họp ngày 17-12-1984 để tập thể hóa đất đai miền Nam và kiểm soát tư thương. Thêm vào, là nghị quyết số 8-1985,bãi bỏ chế độ bao cấp, ấn định lại giá hang quốc doanh gần bằng giá tại thị trường.


            Cuối cùng là ÐỔI TIỀN MỚI lần thứ ba, vào ngày 14-9-1985, làm cho tiền Hồ lần nữa bị phá giá tới 90%, so với tiền trước. Ðây cũng là cơ hội để đảng Việt Cộng có cơ hội vàng ròng, đẽ ra chính sách buôn bán nô lệ mới trong thế kỷ XX, một mặt đảng đầy ải đồng bào mạt rệp vì bị cướp cạn tài sản qua ba đợt đánh tư sản và đổi tiền, tới các vùng đất ma thiêng nước độc, trên cao nguyên và sát biên giới để mở các đồn điền cao su, trà, cà phê.được trả bằng lương công nhân viên chết đói. Nhưng quan trọng nhất là xuất người làm vật lao động, để đổi lấy ngoại tệ tại các nước Liên Xô, Ðông Ðức, Tiệp Khắc.. mà theo thống kê đã có tới cả trăm ngàn người. Tuy nhiên tất cả kế hoạch của đảng hầu như thất bại hoàn toàn, dân chúng nghèo Sài Gòn vẫn bám trụ tại chổ, mua hàng chui tại chợ trời chợ đen để sống, mà không cần vào tem phiếu tại cửa hàng quốc doanh. Nền kinh tế chợ trời-chợ đen phát triển lên tận mây xanh, giúp cho người nghèo tại thủ đô cũng như các thành phố lớn khác của miền Nam, khồng thèm đi kinh tế mới, mặc cho công an bộ đội hù dọa, bắt bớ và khủng bố.

           


3- PHONG TRÀO VƯỢT BIỂN, TỊ NẠN CỌNG SẢN TÌM TỰ DO:


            Ðầu tháng 4-1975, Người Mỷ đã bắt đầu chạy khỏi Nam VN bằng chuyến bay định mệnh, đưa 250 trẻ mồ côi và 37 nhân viên của Dao đi theo săn sóc. Nhưng chiếc C5 đó đã bị tai nạn, chỉ còn 175 em sống sót với một số người lớn may mắn. Tai nạn này đã báo trước những thảm kịch sắp tới cho làn sóng người bỏ nước ra đi vì không muốn sống chung với rợ Hồ, giết người cướp của.


            Ngày 15-4-1975, thượng viên Hoa Kỳ thông qua đạo luật, cho phép 200.000 dân tị nạn Ðông Dương, được vào sống trên đất Mỹ. Song song, chính phủ Mỹ cũng mở chién dịch Frequent Wind tại Sài Gòn, để di tản các công dân Mỹ và 17.000 người Việt có liên hệ. Máu lệ và thảm kịch VN đã khơi nguồn từ đó, vào những ngày cuối tháng 4-1975, khi ngàn ngàn vạn vạn người với đủ mọi phương tiện, tiến ra biển Ðông, để mong được Ðệ Thất Hạm Ðội cứu vớt những chỉ tới ngày 2-5-1975 thì chấm dứt. Tóm lại từ tháng 5-1975 tới bây giờ, người Việt bỏ nước ra đi để tìm tự do và đất sống, hoàn toàn chấp nhận may rủi “ một sống chín chết “, trong hoàn cảnh bơ vơ tự cứu. Do trên hầu hết những người đến được bờ đất hứa, đã phải trả một giá thật đắt, trong đó một dạo có hằng trăm ngàn câu chuyện, bi thảm não nùng của thuyền nhân VN, bị HẢI TẶC THÁI LAN cướp giết, trôi giạt vào hoang đảo và đã ĂN THỊT NGƯỜI lẫn nhau để mà sống.


            Sau khi cưỡng chiếm xong VN, đảng Hồ và đảng Mao trở mặt, nên VC đã quy tội cho Ba Tàu Sài Gòn-Chợ Lớn là mối đe dọa, rồi đòi Trung Cộng phải qua hốt hết 1,2 triệu người Việt gốc Hoa về nước. Sự kiện được Tàu Cộng chấp nhận, phái hai chiến hạm tới các hải cảng VN để nhận người. Nhưng đến cho có mặt, chứ Tàu Cộng đâu có ngu, lãnh đám dân nghèo này về nước để nuôi ăn, vì vậy nửa đêm nhổ neo rút cầu, âm thầm về nước. Sáng ngày 24-3-1978 trên khắp các nẻo đường Sai Gòn-Chợ Lớn, bỗng xuất hiện rất nhiều xe vận tải, chở công an, bộ đội và hằng ngàn thanh niên nam nữ đeo băng đỏ trên tay áo. Theo đài phát thanh của VC thông báo, thì đây là chiến dịch “Ðánh Tư Bản ố Diệt Thương Gia”. Trước đây vào sáng ngày 20-3-1978, tại Chợ Lớn, cũng đã có một cuộc xô xát, giữa trăm người Hoa và công An VC phản đối bắt bắt lính, bắt đi kinh tế mới và đòi được trở về Tàu, sống với Trung Cộng. Nhưng lần này, cuộc bố ráp qui mô không phải để bắt người Hoa chống đối hôm trước, mà là xộc vào từng nhà, cùng các cửa tiệm, để kiếm tiền đôla và vàng cất dấu, cũng như kiểm kê tất cả hàng hóa kể cả cây chổi, ngoại trừ hình “bác” và lá cờ “đảng”, máu đỏ sao vàng. Nghe nói lần đó, đảng đã hốt của Người Hoa gần 7 tấn vàng và cả mấy chục bao bố tiền đô Mỹ, khiến cho mấy chục người uất hận phải tự tử chết. Vậy là đảng đã ba bước nhảy vọt, chiến thắng tư bản chủ nghĩa, bước lên thiên đàng xã nghĩa ưu việt. Cũng từ đó đã có trên 250.000 Hoa kiều phải bỏ nước ra đi và theo thống kê của Cao Ủy Tị Nạn năm 1983, trong số này có trên 50.000 đã chết trên biển vì sóng gío và hải tặc Thái Lan.


            Sau ngày 30-4-1975 khi Miền Nam bị VC Hà Nội cưỡng chiếm, thì Biển Ðông đã trở thành cửa ngỏ để đồng bào vượt thoát tìm tự do. Nhưng đồng thời biển cũng đã biến thành hỏa ngục và trên hết, đảng VC đã thưc hiện được công trình vĩ đại nhất trong Việt Sử. Ðó là KỸ NGHỆ XUẤT CẢNG NGƯỜI, từ cho thuyền nhân vượt biển chính thức, tới các chương trình ra đi có trật tự (ODP), hồi hương con Mỹ Lai và Mua Vợ Bán Chồng giả. Tất cả các nghiệp vụ trên, đều giúp cho tập thể lãnh đạo đảng giàu to nhờ thu vào được nhiều vàng, tính tới cuối năm 1989, đảng thu vào chừng 3.000 triệu mỹ kim, con số nhìn vào thấy rởn tóc gáy nhưng lại là sự thật. Bởi vậy đâu có ngạc nhiên, khi biết xã nghĩa VN, là một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới, lại có nhiều tỷ phú đứng hàng đầu nhân loại.


            Theo sử liệu thì năm 1978 là năm VC chính thức trục xuất người Hoa ra biển. Ðây cũng là thời gian đảng xuất cảng người nhiều nhất, mà theo thống kê của Cao Uỷ Tị Nạn, số người tạm trú tại các Trại khắp Ðông Nam Á, lên tới 292.315 người. Cũng theo tài liệu của Hồng Thập Tự Quốc Tế, thì từ năm 1977-1983 đã có khoảng 290.000 người đã chết hay mất tích trên biển Ðông.


            Ngày 15-1-1990 khi mà Mỹ chuẩn bị bãi bỏ lệnh cấm vận và lập bang giao với VC, thì tại vùng biển Nakhon Si Thammarat, có 11 thi thể PHỤ NỮ VIỆT NAM, tất cả đều trần tuồng thê thảm, trôi tắp vào bờ. Theo Thiếu tá cảnh sát Thái Chumphol, người có trách nhiệm lập biên bản khám nghiệm, cho báo chí biết, thì tất cả các nạn nhân, có tuổi từ 18-20. Họ bị giết sau khi bị hải tặc Thái Lan hãm bức nhiều làn. Ðây cũng chỉ là một trong ngàn muôn thảm kịch máu lệ của thân phận VN, từ khi VC cưỡng chiếm được đất nước. Ðã có hằng triệu người chết trong lòng biển, khi tìm tới những địa danh Songkhia,, Pulau Tanga, Pulau Bidong, Galang.. Có nhiều cái chết của thuyền nhân thật tức tưởi và oan khiên, mà không bút mực nào viết cho nổi, chẳng hạn như Tàu của Chủ Khách Sạn “ Lộc Hotel “ ở An Ðông, chở trên 500 người, đi bán chính thức nhưng khi tới Gò Công thì bị gài bom nổ, chết sạch chỉ có tài công và 3 người may mắn sống sót. Tàu Lập Xương di bán chính thức ngày 22-1-1979, chở 200 người, cũng bị gài bom nổ ngoài biển, chỉ còn một vài người may mắn sống sót được Tàu Panama cứu đem vào trại Tị Nạn. Ðây cũng chỉ là một vài chuyện nhỏ trong ngàn muôn thảm kịch mà thuyền nhân, đã chịu từ khi phong trào vượt biển bùng nổ vào d0ầu năm 1977-1989.


            Người vượt biển tìm tự do, ngoài sóng gió bão tố bất thường không biết trước, còn chịu thêm cảnh săn đuổi của công an, bộ đội biên phòng và ghe tàu đánh cá quốc doanh có trang bị súng máy và súng cá nhân. Nhưng hãi hùng nhất vẫn là Nạn Hải Tặc Thái Lan. Bọn này rất hung ác, tàn bạo, sau khi chận bắt thuyền vượt biển, chúng cướp giựt hết tất cả tài sản, đánh đập mọi người, hãm hiếp phụ nữ và bắn bỏ những ai muốn trốn hay chống lại. Sau đó để phi tang, chúng đốt thuyền cho chìm, giết hết đàn ông và bắt đem theo phụ nữ, hành lạc cho tàn tạ và đem về đất liền bán cho các động đĩ.


            Câu chuyện của một chiếc tàu vượt biển lênh đênh sau 32 ngày bị hải tặc Thái Lan đánh cướp, chỉ còn có 52 người sống sót, thì gặp được Chiến Hạm USN. Dubuque, do Ðại Tá Alexander chỉ huy, nhưng bị từ chối không cứu vớt, khiến cho số người trên chết gần hết. Những người sống sót phải ăn thịt bạn bè để cầu sinh. Viên Ðại Tá Mỹ vô nhân đạo trên, bị Bộ Hải Quân Mỹ lột chức và truy tố ra Tòa Quân Sự.


            Cũng do hằng ngàn câu chuyện đứt ruột của người vượt biển tìm tự do, mà nhân loại ngày nay có thêm một danh từ độc đáo “Boat People”, giống như trước kia người Do Thái, qua cuộc hành trình tìm đường về đất hứa, cũng đã làm nảy sinh danh từ “ Holocaust “.Tuy nhiên, nếu đem so sánh, kể cả chuyện người Do Thái bị Ðức Quốc Xã tàn sát trong thế chiến 2, thì thảm kịch vượt biển của người VN trên biển Ðông, vẫn bi đát hơn nhiều.


            Năm 1945, VC núp trong Mặt Trận Việt Minh, lợi dụng nạn đói năm Ất Dậu, để tuyên truyền và cướp chính quyền từ trong tay người Quốc Gia, nhờ vào súng đạn của người Mỹ. Từ năm 1955-1975 VC gây nên cuộc chiến Ðông Dương lần thứ hai, và đã cưỡng chiếm được VNCH, nhờ Nixon-Kissinger dàn dựng lên Hiệp định ngưng bắn 1973, hợp thức hóa sự chiếm đóng của cọng sản Hà Nội trên lãnh thổ Miền Nam.


             Ngày nay, VC lại đem tình thương nhớ quê hương VN ra khuyến dụ người tị nạn, mong mọi người hòa hợp hòa giải, xóa bỏ hận nước thù nhà. Nhưng VC đã lầm, cho dù đã có nhiều người tị nạn trở về VN nhưng thực tế hầu hết chỉ vì gia đình. Sau đó ai cũng quay lại miền đất tự do, để chờ một ngày chính thức được theo sau gót voi của Quang Trung Ðại Ðế về giải phóng Thủ Ðô Sài Gòn-Huế-Hà Nội. Ngày đó chắc không xa, vì hiện nay cả nước đều biết chế độ cọng sản đã sụp đổ toàn diện, từ ý thức hệ, lãnh đạo, kể cả huyền thoại Hồ Chí Minh, cho tới đời sống tinh thần, kinh tế, xã hôi. Chính sự xét lại của đảng, đã minh chứng sự sụp đổ trên.


            Thân phận người Thuyền Nhân VN là thế đó, tại sao ngày nay lai có một số người đòi bỏ danh từ ‘Tị Nạn Việt Cộng’?, để đồng hóa chúng ta thành kẻ di dân vì miếng cơm manh áo, trong lúc đó thật sự chúng ta chỉ bỏ nước ra đi để tị nạn chính trị, vì không thể nào sống nổi dưới chế độ cầm thú bất nhân vô tổ quốc của VC.


Xóm Cồn Hạ Uy Di

Giêng 2014 – Mường Giang

Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire