jeudi 7 janvier 2016

Tưởng rằng sẽ hóa biết đâu rồi không hóa. Tưởng là sẽ không hóa biết đâu là mình đã hóa ...

Nhân dịp nói về quan niệm sống, vô tình tôi đọc thấy bài này và sưu tầm thêm về nhân vật lịch sử Trần Tung.Afficher l'image d'origine

Trích ra đây 3 bài thơ với ý tưởng của ông, không biết ở thời đại chúng ta đang sống, nó còn có hữu ích gì không?

Kính mời các anh chị hãy suy ngẫm trước khi đọc thêm tiểu sử cuả ông và cuối cùng là đọc

Về Với Đạo
Nam Hoa Kinh - Trang Tử
Phóng Cuồng Ngâm - Trần Tung

Theo Wikipédia, thì bài hãy còn sơ khai, quý anh chị nào có thêm tài liệu sử hoc hay có thể viết thêm về chủ đề này, xin bổ túc thêm.

Caroline Thanh Hương

Tuệ Trung Thượng Sĩ

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bước tới: menu, tìm kiếm
Thiền sư Việt Nam
Tam.jpg
Sơ khai
Thiền phái Tì-ni-đa-lưu-chi
Thiền phái Vô Ngôn Thông
Thiền phái Thảo Đường
Thiền phái Trúc Lâm
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士; 1230[1] - 1291[1]) tên thật là Trần Tung (陳嵩, hay Trần Quốc Tung), là một thành viên trong hoàng tộc nhà Trần với tước hiệu Hưng Ninh Vương và là một thiền sư Việt Nam. Ông là người hướng dẫn vua Trần Nhân Tông vào cửa Thiền và có nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng của vị vua sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.


Tiểu sử[sửa | sửa mã nguồn]

Ông là người Tức Mặc, phủ Thiên Trường, nay thuộc tỉnh Nam Định. Ông là con trưởng của An Sinh vương Trần Liễu (nguyên tác chép An Ninh vương)[2], anh ruột của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và Hoàng hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm húy Thiều, vợ vua Trần Thánh Tông[3].
Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần 2 (1285) và lần 3 (1287-1288), ông đều trực tiếp tham gia [4]. Sử chép rằng ngày 10 tháng 6 năm 1285, ông cùng với Hưng Đạo Vương đem hơn hai vạn quân giao chiến với tướng nhà Nguyên là Lưu Thế Anh và đuổi Thoát Hoan chạy dài đến sông Như Nguyệt (sông Cầu). Trong cuộc kháng chiến lần thứ ba, ông còn được giao những nhiệm vụ ngoại giao quan trọng, từng đến đồn trại đối phương vờ ước hẹn trá hàng, làm cho họ mất cảnh giác, sau đó cho quân đến đánh phá[cần dẫn nguồn].
Sau khi kháng chiến thành công, ông được phong chức Tiết độ sứ cai quản phủ Thái Bình. Nhưng không lâu sau ông lại lui về ấp Tịnh Bang (nay ở huyện Vĩnh Bảo, ngoại thành Hải Phòng) lập Dưỡng Chân trang để theo đuổi nghiệp thiền.
Năm 1291, Tuệ Trung thượng sĩ mất, thọ 61 tuổi.

Thiền sư[sửa | sửa mã nguồn]

Thời trẻ, ông không thích công danh, chỉ ham nghiên cứu về Thiền. Sau, ông học đạo với thiền sư Tiêu Dao, vừa thực hành giải thoát tâm trong đời sống gia đình theo hình thức cư sĩ, vừa đảm trách các công việc xã hội mà triều đình giao phó. Ông được vua Trần Thánh Tông nể vì do kiến thức uyên bác về nội ngoại điển, được vua tôn làm đạo huynh. Ông sáng tác nhiều thi, kệ; một số được kiết tập trong "Thượng sĩ ngữ lục" (Ngữ lục của Thượng sĩ) rất nổi tiếng[cần dẫn nguồn].

Tư tưởng[sửa | sửa mã nguồn]

Do sinh ra trong một gia đình có nhiều nghịch cảnh, sớm được theo học thiền sư Tiêu Dao và lại trực tiếp tham dự vào những thời khắc quyết định vận mệnh đất nước nên ông nhận rõ chân tính cuộc đời và chọn lối sống hòa ái, tự tại. Tư tưởng chính của Tuệ Trung Thượng Sĩ thể hiện qua lời đáp dành cho câu hỏi tông chỉ thiền là gì của vua Trần Nhân Tông: "Hãy quay về tự thân mà tìm lấy tông chỉ ấy, không thể đạt được từ ai khác" [5].

Thơ[sửa | sửa mã nguồn]

Hiện thơ ông còn lại 49 bài, được xếp trong bộ Thượng sĩ ngữ lục[6]. Trích giới thiệu ba bài:

Giai thoại[sửa | sửa mã nguồn]

Một hôm, hoàng thái hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm mở tiệc trong cung điện. Trên bàn có cả thức ăn mặn và thức ăn chay. Tuệ Trung Thượng Sĩ gắp thức ăn không phân biệt chay hay mặn. Hoàng thái hậu hỏi: "Anh tu Thiền mà ăn thịt cá thì làm sao thành Phật được ?" Ông cười đáp: "Phật là Phật, anh là anh. Anh không cần thành Phật. Phật cũng không cần thành anh. Em không nghe các bậc cổ đức nói: Văn Thù là Văn Thù, giải thoát là giải thoát đó sao?" Trong bữa tiệc này có vua Trần Nhân Tông; vua rất thắc mắc về việc này và chưa hiểu rõ ý nghĩa câu trả lời của Tuệ Trung Thượng Sĩ, nhưng chưa tiện hỏi[1].

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Thông tin thêm[sửa | sửa mã nguồn]

  • Sách Hoàng Việt Văn Tuyển nói Tuệ Trung Thượng Sĩ là Hưng Ninh Vương Trần Quốc Tảng, con lớn của Trần Hưng Ðạo. Sự thực thì tuy Tuệ Trung thượng sĩ có tước hiệu là Hưng Ninh Vương, nhưng ông không phải tên là Trần Quốc Tảng, cũng không phải là Trần Hưng Ðạo, và tên ông là Trần Quốc Tung.[5]
  • Thượng tọa Thích Tuệ Sỹ, một học giả Phật học uyên bác tại Việt Nam thời nay tự đặt pháp hiệu là "Tuệ Sỹ" do muốn theo gương ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ.[7]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a ă â www.quangduc.com
  2. ^ Đại Việt Sử ký Toàn thư, quyển VI, Kỷ nhà Trần Minh Tông hoàng đế, trích dẫn: Sử thần Ngô Sĩ Liên nói:Vua vốn nhân hậu với họ hàng, nhất là đối với bậc bề trên mà hiển quý lại càng tôn kính. Kẻ thần hạ hễ ai cùng tên (với họ hàng nhà vua) đều phải đổi cả, như Độ đổi thành Sư Mạnh vì là cùng tên với thượng phụ, Tung đổi thành Thúc Cao vì là cùng tên với Hưng Ninh Vương (con trưởng của An Ninh vương)...
  3. ^ Đại Việt Sử ký Toàn thư - Bản kỷ - Quyển V - Kỷ nhà Trần: Thái Tông hoàng đế, xem năm Thiệu Long 1 (1258)
  4. ^ Theo GS. Nguyễn Lang, Việt Nam phật giáo sử luận (tập 1, tr. 301) và PGS. TS. Nguyễn Đăng Na (Văn học thế kỷ X-XV, tr. 547), Trần Tung trực tiếp tham gia chống quân ngoại xâm chỉ có 2 lần.
  5. ^ a ă http://cusi.free.fr/lsp/suluan/vnpgsuluan1-11.html
  6. ^ GS. Nguyễn Huệ Chi, mục từ "Trần Tung" in trong Từ điển văn học (bộ mới). Nxb Thế giới, 2004, tr. 1812.
  7. ^ “Error”. Truy cập 6 tháng 10 năm 2015.
    Cùng trong mạch văn truyện trò với người quá cố, sách Nam Hoa Kinh, của Trang Tử, chương XVII, tựa đề Chí Lạc, bản dịch của Nhượng Tống, chép truyện sau đây:
    Thầy Trang sang Sở, thấy cái đầu lâu rỗng, có hình trọc lốc, xâu bằng chiếc roi ngựa, nhân mà hỏi rằng:
    - Kìa ngươi tham sống mất lẽ, mà đến nỗi này chăng? Hay ngươi có truyện mất nước, có tội búa rìu mà đến nỗi này chăng? Hay ngươi có nết chẳng hay, thẹn nỗi để xấu cho cha mẹ vợ con mà đến nỗi này chăng? Hay ngươi chết đói chết rét mà đến nỗi này chăng? Hay vì xuân thu ngươi đã đáng thế này chăng?
    Nói thế rồi, với chiếc đầu lâu làm gối mà nằm. Nửa đêm đầu lâu hiện lên trong chiêm bao mà rằng:
    - Lời ngươi nói giống như kẻ biện sĩ.. Phàm những truyện ngươi nói, đều là lụy cho đời người. Chết thì không có những cái ấy. Ngươi muốn nghe thuyết chết chăng?
    Thầy Trang đáp:
    - Phải!
    Đầu lâu nói:
    - Chết thì không vua ở trên, không tôi ở dưới. Cũng không có truyện bốn mùa. Theo đó lấy trời Đất làm Xuân Thu. Dù cái sung sướng của kẻ ngoảnh mặt sang Nam mà làm vua cũng không thể hơn được.
    Thầy Trang không tin hỏi:
    - Tôi sai thần Tư Mệnh lại làm sống lại hình người, cho ngươi nẩy ra xương thịt da dẻ; trả lại cho cha mẹ, vợ con, làng xóm kẻ quen biết cho ngươi, ngươi muốn thế chăng?
    Đầu lâu cau mày, nhăn trán mà rằng:
    - Tôi sao có thể bỏ cái sung sướng của ông vua quay mặt sang nam, mà lại chịu cái khó nhọc ở nhân gian.
    Trang Tử tên là Trang Châu, theo truyền thuyết sống trong thời Chiến Quốc, khoảng 369-289 trước Công Nguyên. Tư Mã Thiên dành một chương trong sách Sử Ký viết về Trang Tử, nói rằng Trang Tử người xứ Mông, nhưng không ghi là người nước nào. Sau này nhiều học giả viết về Trang Tử, có người nói xứ Mông thuộc nước Lương, có người nói thuộc nước Tống, cùng thời với Mạnh Tử, Huệ Tử tại Trung Quốc và với Aristote, Zénon, Epicure tại Âu Châu.

    Sự tích Trang Tử rất mơ hồ, chỉ biết là ông sống trong cảnh thanh bần, gần như cơ hàn, nhưng luôn luôn thanh thản trong cảnh tiêu dao, không chịu bó thân ra làm quan. Ông đánh bạn với Huệ Tử người nước Tống, dầu tư tưởng hai người trái ngược nhau rất xa. Trang Tử để lại bộ Nam Hoa Kinh gồm 33 thiên. Quách Tượng chia làm ba phần: nội thiên gồm 7 thiên, ngoại thiên gồm 15 thiên và tạp thiên gồm 11 thiên. Căn cứ trên mạch văn thì 7 nội thiên biểu thị những nét trọng yếu của học thuyết Trang Tử, ngoại thiên và tạp thiên phần nhiều bàn rộng những vấn đề đã phô diễn trong nội thiên. Nhiều người cho rằng ngoại thiên và tạp thiên do nhiều người khác viết . Tuy nhiên cũng có nhiều đoạn có tư tưởng cùng văn phong không kém gì nội thiên. Bản Nam Hoa Kinh do Quách tượng để lại la bộ cổ nhất nay con sót lại.

    Cái học của Trang Tử bắt nguồn từ sách Đạo Đức Kinh của Lão Tử. Nhưng cũng có nhiều điều khác biệt. Sách của Lão Tử phổ thông tại Trung Quốc ngay từ thời Tiền Hán (206 TCN-9SCN) và sách của Trang Tử mãi tới đời Hậu Hán (25-220) mới được phổ biến. Đến cuối đời Hán, học thuyết của Lão Tử và Trang Tử gồm chung thành kinh sách Lão Trang. Người nay phân tách thấy rằng sách của Lão Tử dành cho các nhà cầm quyền trị nước đương thời với giải pháp vô vi , và sách của Trang Tử giúp con người thoát khỏi truyện giàng buộc chốn nhân gian. Chỗ tương đồng giữa Lão và Trang là cùng có nhiều điểm tương phản với những học thuyết đương thời.

    Ngày nay, sách của Trang Tử không những vẫn là nguồn cảm hứng của văn thi sĩ Đông Á mà còn là nguồn cảm hứng của giới văn nghệ sĩ Âu Mỹ trong dòng văn học tục tiền tiến, muốn sáng tác ngoài lề lối phép tắc của triết học, khoa học, xã hội cũng như tôn giáo. Cách thức đọc sách Trang Tử vì thế thay đổi nhiều để hợp với ước mong kể trên.

    Lời Trang Tử đối thoại với đầu lâu đối chiếu với bài văn tế của Nguyễn Du và bài thơ của Tản Đà cho thấy là Trang Tử, quả như lời Lê Quý Đôn viết trong Vân Đài Loại Ngữ , thực là ông tổ thi văn Đông Á.

    Điểm đáng chú ý là kết luận của ba bản văn hướng theo ba ngả khác hẳn nhau.

    Bắt đầu là kết luận của đoạn văn trò truyện với đầu lâu của Trang Tử.

    Các nhà bình Nam Hoa Kinh danh tiếng như Quách Tượng thời thế kỷ IV cũng như Tân Điền Tả Hữu Cát, Tsuda Saukichi, đời nay đều cho là truyện này không phải do Trang Tử sáng tác, vì lẽ nội dung câu truyện xa lạ so với toàn thể Nam Hoa Kinh. Ngoài ra trong đoạn cuối người viết sơ suất cho chiếc đầu lâu xương khô còn cả lông mày đễ nheo mắt, cũng như còn lưỡi để nói và còn khả năng hưởng thụ niềm vui của cái sống gắn liền với cái chết.

    Nhưng nếu để những nhận xét thực tế đó sang bên, như Trang Tử thường làm trong việc sáng tác Nam Hoa Kinh, và chỉ đọc riêng câu truyện, người đọc chợt thấy rằng chính mình mang suốt đời trên cổ chiếc đầu lâu của mình. Chính mình nheo cặp lông mày, và chính mình đang sống lúc này và vẫn mang theo cái chết bên mình. Như vậy người đọc tự giải thoát khỏi giàng buộc của sách vở cổ kim bàn về Trang Tử .

    Điều phê phán sách Trang Tử trên đây cũng hoàn tất một chức năng khác: nhận xét căn cứ trên thực tế khiến người đọc nhận thấy mạch văn trong truyện tách rời thực tế. Việc tách rời thực tế này phải chăng là ý muốn của tác giả muốn nói với người đọc về những điều vượt ra ngoài thực tại?
    Quan điểm vui cái sống gắn liền với cái chết là điều Trang Tử nhiều lần bàn tới. Ngoại thiên Chí Lạc chép truyên quen thuộc sau đây, thường gọi là truyện Trang Tử gõ bồn:
    Vợ thầy Trang chết. Thầy Huệ sang thăm, Thì thầy Trang ngồi xổm, gõ bồn mà hát. Thầy Huệ hỏi:
    - Bác ở cùng người ta mãi đến lúc mình già, chết không khóc, cũng đủ rồi! Lại gõ bồn mà hát, chẳng cũng quá lắm sao?
    Thầy Trang đáp:
    - Không phải thế, riêng tôi đâu có thể không ngậm ngùi. Nhưng xét ban đầu hắn vốn không có sống...Chẳng những không có sống, mà còn vốn không có hình... Chẳng những không có hình, mà còn vốn không có khí. Lẫn ở giữa khoảng lờ mờ, biến mà có khí. Khí biến mà có hình. Hình biến mà có sống. Nay lại biến mà sang chết. Những cái đó cùng nhau làm Xuân, Thu, Đông, Hạ, bốn mùa thường đi. Người đương nằm khểnh ngủ ở trong nhà lớn, mà ta lu loa theo mà khóc lóc, tôi tự cho thế là chẳng hiểu về mệnh, cho nên thôi. 
    Thiên XXII, Trí Bắc Du, chép:
    Sống là bạn của chết. Chết là đầu của sống [...] Cái sống của người ta là sự họp lại của khi. Họp lại thì là sống. Tan ra thì là chết. Nếu sống chết là bạn, ta lại lo gì
    Như vậy theo quan điểm của Trang Tử thì sống chết cùng một thể, thế nên cứ vui sống cái sống gắn liền với cái chết.
    Chiếc đầu lâu có cặp lông mày sống với trời đất, lấy trời đất làm Xuân Thu, sung sướng như ông Vua trên ngai vàng. Đó là cái vui của đầu lâu trong cuộc sống thực tại mà Trang Tử nhận ra. Đến đêm Trang Tử dùng đầu lâu làm gối, niềm vui của đầu lâu truyền sang Trang Tử, tạo ra cuộc trò truyện trong mơ giữa Trang Tử và đầu lâu. Cuộc trò truyện này là cuộc trò truyện giữa cái ta của đầu lâu với niềm tư duy hóa cùng muôn vật của Trang Tử. Cuộc đối thoại này cũng tương tự như cuộc đối thoại giừa Tử Tự, Tử Dư, Tử Lai chép trong thiên VI, Đại Tông Sư trong nội thiên sách Nam Hoa Kinh:
    Ai có thể lấy "không" làm đầu, lấy sống làm lưng, lấy chết làm xương cùng? Ai biết sống chết, còn mất là một thì Ta sẽ cùng họ là thể lấy
    Bốn người nhìn nhau cười, không ai thấy nghịch trong lòng, đoạn cùng nhau đánh bạn.
    Cuộc đối thoại này là cuộc độc thoại giữa tự ngã với tự ngã và cũng là sự cộng hưởng giữa tự ngã với đại ngã.
    Người người đêm đêm đi ngủ ai chẳng gối lên đầu lâu của mình. Cuộc đối thoại giữa đầu lâu và Trang Tử như vậy thành cuộc đối thoại chung cho mọi người với chính mình. Hình ảnh niềm vui của đầu lâu trong cuộc đối thoại này tương đồng với cái vui làm bướm của Trang Châu.

    Chiếc đầu lâu khô khốc và rỗng tuếch này có nhiều lý do khiến không có ai đoạt nổi để đầu lâu vui làm đầu lâu. Vốn là cái đầu lâu lăn lóc bên đường, nhưng khác với mọi chiếc đầu lâu vô chủ khác, chiếc đầu lâu này là của riêng một người, chiếc đầu lâu này là đầu lâu của Ta. Nay đã khô khốc, chiếc đầu lâu không còn sợ diều hâu, chó sói hay dòi bọ tới làm rầy. Chiếc đầu lâu rỗng tuếch, không còn cách nào rỗng hơn được nữa. Chiếc đầu lâu rỗng tuếch đó là cái Ta cùng kỳ lý.
    Chiếc đầu lâu khô khốc, không còn thịt da, không còn mạch máu, nên không còn già đi hơn được nữa, cái đầu lâu sống làm đâu lâu trong cái chết, có cái niềm vui lấy trời đất làm Xuân Thu.

    Lấy trời đất làm Xuân Thu này là lời dịch câu:
    dĩ thiên địa vi Xuân Thu
    Câu này dùng điệp ngữ quen thuộc: dĩ [a] vi [b], có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau.
    Trước hết, điệp ngữ này rất thông dụng trong thi văn Á Đông. Bài văn quen thuộc dùng điệp ngữ này là Bài Tửu Đức Tụng của Lưu Linh, một trong Trúc Lâm Thất Hiền, người đời Tấn, Trung Quốc. Lưu Linh mở đầu bài tụng rượu này năm câu sau:
    Hữu đại nhân tiên sinh
    Dĩ thiên địa vi nhất triêu
    [Dĩ] vạn kỳ vi tu du
    [Dĩ] nhật nguyệt vi kinh dũ
    [Dĩ] bát lưu vi đình cù ...
    Trong sách Cổ Học Tinh Hoa, Nguyễn Văn Ngọc và Trần Lê Nhân dịch là:
    Có một vị đại nhân
    Lấy giời đất làm một buổi
    Lấy muôn năm làm một chốc
    Lấy mặt trời mặt trăng làm cửa ngõ
    Lấy thiên hạ làm sân đường ....
    Trong bài Côn Sơn Ca, Nguyễn Trãi cũng dùng điệp ngữ này trong hai câu mở đầu:
    Côn Sơn hữu tuyền [...] ngô dĩ vi cầm huyền
    Côn Sơn hữu thạch [...] ngô dĩ vi đạm tịch
    dịch là:
    Núi Hun có suối [...] ta nghe thay đàn huyền
    Núi Hun có đá [...] ta lấy làm chiếu ngồi
    Như vậy điệp ngữ dĩ [a] vi [b] hiểu là lấy [a] làm [b] hay là coi [a] như [b].

    Watson dịch câu này thành:
    Our springs and autumns are endless as heaven and earth.
    Trên thực tế không thể lấy Trời Đất làm Xuân Thu như lời đầu lâu được: trời đất là không gian, xuân thu là thời gian. Nhưng lời đầu lâu nói không hẳn là sai vì trời đất thay đổi theo mùa, khiến nhìn trời đất thay đổi có thể đoán được thời gian. Hiểu như vậy thời cách vừa dịch vừa giảng của Watson, một dịch giả Nam Hoa Kinh và nhiều tác phẩm văn học Trung Quốc, không phải là sai.

    Cách ghi thời gian như vậy là cách đám người di tản vào Đào Nguyên tránh nạn Tần Thủy Hoàng ghi nhận thời gian trong áng thơ Đào Nguyên Ký của Đào Tiềm, người nhà Tấn, Trung Quốc:
    Thảo vinh thức tiết hòa
    Mộc suy tri phong lệ
    Tuy vô ký lịch chí
    Tứ thời tự thành tuế
    dịch là:
    Cỏ tươi biết tiết tốt trời
    Cây vàng biết gió đến hồi lạnh căm
    Chẳng dùng lịch cũ ghi năm
    Bốn mùa một tuổi chẳng nhầm chẳng sai
    Trong kinh Pháp Hoa, phẩm Thọ Lượng Như Lai, Phật thích Ca dùng hình ảnh không gian để biểu thị thời gian trải qua từ thuở Phật chứng quả Vô Thượng Chánh Giác như sau:
    Này, thiện nam tử, ta thành Phật đến nay đã lâu đến số trăm ngàn vạn ức vô lượng vô biên kiếp rồi. Giả tỷ có người nghiền nát vô số năm trăm ngàn vạn ức thế giới ba ngàn này thành hột bụi, giả tỷ người ấy đi qua phương đông đặt một hột bụi ấy ở một nước, và cứ thế lần lượt đặt phương đông tất cả hạt bụi trong khắp vô số trăm ngàn vạn ức vô lượng vô biên nước. Này thiện nam tử, các ông nghĩ thế nào? Có ai suy nghĩ, tính toán, ước lượng được con số của toàn thể thế giới ấy không ?

    Bồ Tát Di Lặc cùng đại chúng bạch Phật rằng:
    Thế Tôn, không ai tính biết số thế giới vô lượng vô biên ấy được [...]

    Phật bèn nói với đại chúng Bồ Tát rằng:

    Các thiện nam tử, này ta nói rõ cho các ông nghe. Những thế giới ấy mà người kia đặt một hạt bụi, tất cả những hạt bụi ấy, mỗi hạt bụi ví như một kiếp, ta thành Phật từ ấy đến nay còn nhiều hơn số trăm ngàn vạn ức vô lượng vô biên ấỵ
    Thiền sư Nhật bản Bạch Ẩn viết về thời gian đứng thẳng đơn giản như sau:
    Mười phương thế giới thu vào một điểm hiện tiền; quá khứ hiện tại, vị lai tụ trong một niệm đương thời.
    Có người hiểu lấy trời đất làm Xuân Thu
    là coi không gian đồng nhất với thời gian. Wu Kuang Ming đưa ra hình ảnh không gian bốn chiều của Einstein làm thí dụ cho mối tương quan giữa trời đất và xuân thu của Trang Tử . Dầu ngày nay đã có nhiều phim ảnh giải thích không gian bốn chiều này, nhưng cũng còn quá trừu tượng với những người không có ý niệm về vật lý lý thuyết.
    Đằng khác, theo ngôn ngữ giới nghiên cứu về tôn giáo, ý niệm thời gian đứng thẳng, temps vertical, nối liền những hình ảnh đã xẩy ra trong quá khứ với những hình ảnh sẽ tới trong tương lai tại hai địa điểm khác nhau về cùng một thời điểm ở cùng một địa điểm . Đó là hình ảnh Biến Hình trong Kinh Thánh, Luca 9:28-31:
    28các ông Phêro, Gioan và Giacôbê.29 Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo người đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà. 30Và kià, có hai nhân vật đàm đạo với người, đó là ông Môsê và Êlia. 31Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem.
    Hai ông Môsê và Êlia là những nhân chứng của Cựu Ước, trước ngày chúa Giêsu đem ba môn đệ lên núi hàng ngàn năm. Câu truyện trao đổi giữa hai nhân chứng Cựu Ước với Chúa Giêsu là truyện sẽ xẩy ra trong tương lai tại thành Giêrusalem.
    Như vậy, trong khoảng khắc tại núi Tabor, những hình ảnh hàng ngàn năm trước,biểu thị bởi hình ảnh hai nhà tiên tri tại Ai Cập, liên kết cùng với nhưng viễn ảnh sẽ xẩy trong tương lai tại Giêrusalem: thời gian và không gian đồng nhất, đó là thời gian đứng thẳng. Thời gian dó ở ngoài không gian thời gian khác biệt của chúng ta trên trái đất này.
    Phải chăng thời gian đứng thẳng là thông số định nghiã vấn đề siêu hình trong cả ba tôn giáo: Đạo Giáo, Phật giáo cũng như Công Giáo?
    Trở về cái vui của đầu lâu trong cõi chết, trong truyện của Trang Tử. Niềm vui này Trang Tử nhiều lần nhắc tới trong Nam Hoa Kinh, hoặc bằng ngụ ngôn, hoặc bằng trùng ngôn hoặc bằng chí ngôn. Dụ ngôn thường được nhắc nhở tới là truyện nàng Lệ Cơ trong thiên Tề Vật Luận mà Nguyễn Duy Cần dịch như sau:
    Lệ Cơ, con gái của một vị phong nhân xứ  Ngại, gả cho vua nước Tần. Khi về nhà  chồng, lụy ướt dầm bâu. Kịp khi đến hoàng cung, cùng vua đồng sàng, nếm mùi sô  hoạn, rồi lại hối giọt lệ ngày xưa.
    Rồi Trang Tử kết luận:
    Ta biết đâu kẻ chết lại không hối hận vì mình đã mong được sống thêm?
    Hiểu như vậy thì cái chết hiện hình trong chiếc đầu lâu bên đường của cái sống. Cái chết kề bên như trời che như đất chở, và hiện cái sống trải dài ngày này qua ngày khác, Xuân này sang Thu kia. Như vậy cái sống của ta kề bên cái chết, và thế thì sao còn ham sống, sao còn ghét chết?
    Biết đâu chẳng đúng như lời đầu lâu nói với Trang Tử trong mộng: chết còn vui sướng hơn sống nữa. 

    Thế là vượt ra ngoài câu truyện sống chết ngang nhau.
    Tiếp đó Nam Hoa Kinh chép truyện thầy Liệt nói với đầu lâu:
    Thầy Liệt đi chơi, ăn ở giữa đường, chợt thấy chiếc đầu lâu trăm tuổi, vạch cỏ bồng chỉ vào nó mà rằng:
    - Chỉ tôi với bác là biết: ta chưa từng chết, chưa từng sống. Bác quả yên chăng? Tôi quả vui chăng?
    Thế là quên hẳn cả cái sống cùng cái chết. Đó là về tới đạo. Đó là đạt được thuật chí lạc.
    Đạt được chí lạc, về tới Đạo và quên hẳn cái sống và cái chết là hình ảnh của Trần Tung trong bài ngâm sau đây:
    Phóng Cuồng Ngâm
    Thiên địa diếu vong hề hà mang mang
    Trượng phu ưu du hề phương ngoại phương
    Hoặc cao cao hề vân chi sơn
    Hoặc thâm thân hề thủy chi dương
    Cơ tắc xan hề hòa la phạn
    Khốn tắc miên hề hà hữu hương
    Hứng thời xuy hề vô khổng địch
    Tĩnh xứ phần hề giải thoát hương
    Quyện tiểu phại hề hoan hỉ địa
    Khát bão xuyết hề tiêu dao thang
    Quy Sơn tác lân hề mục thủy cổ
    Tạ tam đồng chu hề ca Thương Lương
    Phỏng Tào Khê hề ấp Lữ Thị
    Yết thạch đầu hề sài Lão Bàng
    Lạc ngô lạc hề Bố Đại lạc
    Cuồng ngô cùng hề Phổ hóa cuồng
    Đốt đốt phù vân hề phú qúy
    Hu hu quá khích hề niên quang
    Hồ vi hề quan đồ hiểm trở
    Phả nại hề thế thai viêm lương
    Thâm tắc lệ hề thiểm tắc yết
    Dụng tắc hành hề xả tắc tàng
    Phóng tứ đại hề mạc bả trọc
    Liễu nhất sinh hề hưu bôn mang
    Thích ngã nguyện hề đắc ngã sở
  8. Sinh tử tương bức hề ư ngã hà phương.
    dịch là:
    Phóng Cuồng Ngâm 
  9.  
    Ngắm nhìn trời đất hề sao thênh thang
    Chống gậy ngao du hề phương ngoài phương
    Hoặc vời vợi hề mây đầu non
    Hoặc thăm thẳm hề nước ngàn trùng

    5Đói thì ăn hề hòa la phạn
    Mệt thì ngủ hề hà hữu hương
    Gặp hứng hề thổi sáo không lỗ
    Chốn tĩnh hề đốt giải thoát hương

    Mỏi ta nghỉ hề đất hoan hỉ
    10Khát ta uống hề tiêu dao thang
    Cùng hội Quy Sơn hề chăn trâu nước
    Cùng thuyền Tạ Tam hề hát khúc Thương Lương

    Thăm Tào Khê hề lậy Lữ Thị
    Viếng thạch đầu hề bạn Lão Bàng
    15Vui hề niềm vui Bố Đại vui
    Cuồng hề cái cuồng Phổ Hóa cuồng

    Hỡi ôi mây nổi hề cảnh phú qúy
    Ô hô năm tháng hề ngựa qua song
    Nói chi hiểm trở đường mây
    20Đà quen hề ấm lạnh thói thường

    Nông thì vén hề sâu thì lội
    Dùng thì làm hề xả thì tàng
    Buông hình hài hề không nắm giữ
    Rồi một đời hề chẳng đi hoang

    25Thỏa nguyện ta hề đúng chỗ ta
    Sống chết ép dồn hề ta đâu ngại ngùng.
  10. Trần Tung (1230-1291) là con trưởng Trần Liễu, anh ruột Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Khi ông qua đời, vua Trần Thánh Tông phong tước cho ông là Hưng Niên Vương. Trong ba cuộc chinh chiến chống quân Nguyên, ông đều góp công lớn. Khi giặc tan, ông không tham dự việc triều chính. Ông theo học thiền sư Tiêu Dao cuối đời nhà Lý, sau đó ông theo học thiền sư Tức Lự. Ông học Phật và học cả Lão, nhưng suốt đời không xuất gia. Ông để lại bộ Thượng Sĩ Ngữ Lục.
    Phóng Cuồng Ngâm là một trong những áng thơ đậm mầu Thiền và sắc Đạo. Bốn câu mở đầu mở ra cảnh tiêu dao khoảng khoát mà người đọc thơ thường gặp trong thơ Việt Âm. Từ câu thứ năm tới câu thứ mười sáu, mỗi câu dường như một hình ảnh rút từ sách Nam Hoa Kinh hay từ kinh sách Thiền Tông. Lần lượt thi liệu trong sáu câu đầu là những hoạt động thông thường trong đời sống hàng ngày. Đói ăn, khát uống, mệt ngủ, mỏi nghỉ, vui thổi sáo, tĩnh niệm hương. Nhưng hòa la phạn chẳng phải là cơm mà là tiếng phiên âm chữ phạn pravarana, nghĩa là lời sám hối vào dịp cuối khóa hạ; hà hữu hương chẳng phải câu hỏi làng nơi đâu mà là thuật ngữ Đạo học chỉ cõi Đạo; hoan hỉ địa là chốn nào chẳng ai hay, vì đó là hạnh Bồ Tát cần đạt tới để lợi tha; giải thoát hương, theo sách Lục Tổ Bảo Đàn là trạng huống tự tâm không vướng mắc bất kỳ nơi chốn nào, không niêm điều thiện không niệm điều ác; sáo không lỗ chưa từng có ai được thưởng thức, bởi đó là hình ảnh rút từ thơ Ngu Tập gửi Trừng Trạm Đường:
    Kỳ đáo Tây Trúc vô khổng địch
    Xuy thành động địa thái bình ca.
    dịch là:
    Từ tới Tây Trúc sáo không lỗ
    Khúc Thái Bình rung đất động trời.
    Còn tiêu dao thang chẳng ai từng được uống, bởi tiêu dao là hình ảnh chữ tự do Trang Tử bàn tới trong chương mở đầu sách Nam Hoa Kinh.
    Sáu câu tiếp theo, Trần Tung lần lượt nói tới truyện làm láng giềng với Quy Sơn chăn trâu nước, chung thuyền cùng Tạ Tam hát khúc Thương Lương, về chùa Tào Khê lậy Lục Tổ, tới Thạch đầu thăm Lão Bàng, vui niềm vui Bố Đại, cuồng cái cuồng Phổ Hóa.
    Thiền sư Quy Sơn, tên thật là Triệu Linh Hựu (771-853), thuộc thế hệ thứ ba dòng Thiền Tông Tào Khê, cùng đồ đệ là Tuệ Tĩnh tức Ngưỡng Sơn lập ra phái Quy Ngưỡng. Tào Khê là một địa danh thuộc Thiều Châu, có chuà Bảo Lâm xây từ đời nhà Đường, nơi Lục Tổ Huệ Năng (?-713) người họ Lữ đất Lĩnh Nam, được Ngũ Tổ Hoãng Nhẫn Trao y bát.
    Tạ Tam là một nhân vật đến nay chưa ai rõ tông tích, Thương Lương là tên một khúc sông Hán Thủy. Khúc Thương Lương chép trong sách Mạnh Tử, thiên Ly Lâu, là một khúc hát có câu quen thuộc:

  11. Nước Thương Lang trong ta giặt giải mũ.
    Nước Thương Lang đục ta rửa chân.
    Nên có thể nghĩ rằng Tạ Tam là người cùng hội cùng thuyền với Trần Tung trước cửa Khổng.
    Bốn nhân vật Thạch Đầu, Lão Bàng, Bố Đại và Phổ Hóa, là bốn nhân vật tiêu biểu cho những triết giả Phật học. Thạch Đầu là tên hiệu của thiền sư Hy Thiên (700-790) dựng am trên núi Hành Sơn. Lão Bàng, tức cư sĩ Bàng Uẩn , tác giả sách Đạo Nguyên vốn là nhà nho, sau theo học Phật. Thoại kể rằng khi ngộ đạo, Lão Bàng mang hết của cải ném xuống hồ Động Đình, có người hỏi sao không mang của ra bố thí, thì Lão Bàng trả lời: ta từng lụy về bố thí, nên nay đem của mà dìm đi. Bố Đại là một vị hòa thượng, hàng ngày mang túi vải đi hành khất, rồi đem chia cho con trẻ. Phổ Hóa là một thiền sư ngông cuồng cổ quái trong Thiền Tông Trung Quốc. Hàng ngày sư ra chợ đánh mõ rao: Sớm mai đánh mõ, đầu hôm đánh mõ. Một hôm ông đánh mõ rao là mình sắp chết. Thiền sư Lâm Tế đem cho một cỗ áo quan. Sư đánh mõ mời làng xóm ra xem sư chết ở cửa Đông. Nhưng sư không chết, hẹn tiếp hôm sau ở cửa Tây, sư vẫn không chết, rồi cửa Nam, tới cửa Bắc. Đúng ngày thứ tư, sư đánh mõ, vào nằm trong áo quan, đậy nắp lại. Thiên hạ tới mở nắp áo quan ra thì không thấy sư đâu nữa, chỉ nghe tiếng mõ mỗi lúc một xa

  12. Điểm đáng chú ý là hành động của ba nhân vật nhắc trên đây biểu thị hình ảnh nhiều câu trong Nam Hoa Kinh.
    Lão bàng không mang của ra bố thí mà mang dìm xuống hồ phải chăng là thuận với một câu trong chương Đại Tông Sư:
    quên người để hòa theo Đạo riêng của mình.
    Truyện Bố Đại đi hành khất rồi mang của Bố thí chia cho con nít là hành động biểu thị cho câu chép trong chương Ứng Đế Vương:
    Nhận mọi thứ thụ lãnh từ trời mà chẳng giữ gì riêng cho mình.
    Câu truyện cuồng của Phổ Hóa cũng nhắc lại một đoạn trong chương Đại Tông Sư:
    Tưởng rằng sẽ hóa biết đâu rồi không hóa.
    Tưởng là sẽ không hóa biết đâu là mình đã hóa ...Sắp đặt sẳn sàng rồi mà quên mất sự sinh hóa mới vào được cõi trời vắng lặng.
    Hình ảnh này phải chăng có liên quan tới những triết thuyết bên trời Tây, đứng trước cái chết, đẩy hiện tại vào quá khứ hay buộc hiện tại vào tương lai, là điều để cho những nhà nghiên cứu triết học đối chiếu giải đáp.

  13. Trong mười câu cuối bài Phóng Cuồng Ngâm, Trần Tung luận giải về nghịch lý khéo nuôi cái sống là khéo liệu lo cái chết mà Trang Tử nhiều lần đề cập tới trong Nam Hoa Kinh. Trần Tung nhắc tới lời Trang Tử viết trong chương Thu Thủy: cuộc sống muôn vật ngắn ngủi như bóng ngựa qua khe cửa. Ý niệm coi hoạn đồ là hiểm trở là câu truyện Trang Tử từ chối ra làm quan mà chỉ muốn sống kiếp rùa lê đuôi trong bùn bến sông Bộc. Hai câu kế tiếp Trần Tung cho thấy nếp sống dửng dưng trước đổi thay thời thế.

  14. Bốn câu kết luận bài ngâm là kinh nghiệm sống buông bỏ của Trần Tung: chẳng nắm giữ cả hình hài ắt thỏa nguyện, không còn bị lẽ sống chết bức bách. 

Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire