mercredi 22 avril 2020

Phạm Văn Chung và bài Cờ Bay Trên Cổ Thành Quảng Trị.


Đại tá Phạm Văn Chung đã viết bài Cờ Bay Trên Cổ Thành Quảng Trị để nhớ về những trận chiến mà quân đội Việt Nam Cộng Hoà đã giành và giữ được đến những năm vận nước không do miền Nam quyết định.
Không bi thương vì một cuộc chiến đã tàn nhưng người Việt Nam cũng còn có thế hệ hậu duệ muốn nước Việt Nam còn hay không trên bản đồ thế giới.




Cờ Bay Trên Cổ Thành Quảng Trị

 


Cờ Bay Trên Cổ Thành Quảng Trị
Cờ Bay Trên Cổ Thành Quảng Trị

I- Sơ lược bối cảnh dẫn đến trận Quảng Trị
Phía Hoa Kỳ:
Chiến thuật lùng diệt địch áp dụng tại cuộc chiến Việt Nam rất hiệu quả, lối đánh chủ động này là tìm kiếm địch bất cứ ở đâu, từ đồng bằng đến cao nguyên, ngay cả mật khu Việt cộng nằm giữa rừng rậm cũng xông vào. Những đoàn trực thăng đổ quân ngay trên đầu địch để giao chiến, các đơn vị chính quy Cộng sản Bắc Việt bị săn đuổi thiệt hại nặng nề, chạy tan tác. Không còn chỗ nào an toàn, bổ xung dưỡng quân nữa phải dạt sang lãnh thổ Cam Bốt và Lào để sinh tồn. Lẽ dĩ nhiên suốt ngày tìm địch mà đánh thì thương vong phải nhiều, người viết nhớ có tuần cao nhất là hơn 3OO lính Mỹ hy sinh làm rúng động quần chúng. Sự chịu đựng của dân chúng Hoa Kỳ thường thường giới hạn, thêm vào sự thiên tả của giới truyền thông báo chí đã phóng đi những hình ảnh mô tả tin tức chiến sự một chiều, gây ảnh hưởng xấu về cuộc chiến bảo vệ Tự do tại miền Nam Việt Nam. Phong trào phản chiến cũng phát động rầm rộ tại các trường đại học, sinh viên tuần tự biểu tình chống chiến tranh Việt Nam khắp Hoa Kỳ.
Bắt mạch rõ tâm lý quần chúng, nhất là nhu cầu tranh cử hứa cố gắng chấm dứt chiến tranh, khi tái đắc cử Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon một mặt cố gắng bắt tay Trung cộng, một mặt ra lệnh rút dần các đơn vị tham chiến Mỹ, Đồng minh khỏi Việt Nam, chỉ để lại sĩ quan cố vấn các đại đơn vị Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, một phái bộ yểm trợ tiếp vận tại Saigon đồng thời tuyên bố Việt Nam hóa chiến tranh.
Miền Nam Việt Nam:
Miền Nam phồn thịnh giả tạo nhờ hơn nửa triệu quân Mỹ, Đồng minh trú đóng, nên khi đoàn quân này rút đi, những khó khăn về kinh tế bắt đầu. Các phong trào đối lập chính trị với chính phủ nền đệ II Cộng hòa quấy phá mạnh mẽ gây nhiều xáo trộn xã hô.i. Một số quần chúng chỉ lo làm giàu nhờ chiến tranh, còn đa số không thấu triệt lắm về Cộng sản, đã thờ ơ với cuộc chiến đấu tự vệ sống còn này, gần như giao khoán trên vai những người lính của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Miền Bắc Việt Nam:
Như trên đã trình bày, các đơn vị chính quy Cộng sản Bắc Việt bị săn đuổi thường xuyên, mất địa bàn hoạt động. Tiếp đến trận Tổng công kích Tết Mậu Thân năm 1968 hy vọng dân chúng miền Nam nổi dậy theo, đã hoàn toàn thất bại. Tại miền Nam mọi hạ tầng cơ sở, những đơn vị du kích địa phương hậu cần, mật khu gần như bị tiêu diệt hoặc phá vỡ tan hoang, không thể hướng dẫn, yểm trợ tiếp vận những đơn vị từ Bắc vào được nữa. Cũng suốt thời gian này quân Việt Nam Cộng Hòa và Đồng minh tiếp tục săn đuổi truy lùng tiêu diệt, vượt sang cả lãnh thổ Cam Bốt và Hạ Lào. Vì vậy chiến trường miền Nam yên lặng trống vắng suốt từ 1968 đến 1971. Về nội tình miền Bắc sức chịu đựng của dân chúng gần như kiệt lực. Kinh tế suy thoái trầm trọng, các cơ sơœ kinh tế hạ tầng vừa nhen nhúm đã bị không quân Mỹ oanh tạc tàn phá. Bắc Việt cảm thấy không thể thắng được, nhất là không thể nào xây dựng lại cơ sở hạ tầng để tiếp tục cuộc chiến nửa du kích nửa chính quy mà người Cộng sản gọi là “cuộc chiến có mức độ” trong miền Nam được nữa. Có nhiều mâu thuẫn trong hàng lãnh đạo Cộng sản Bắc Việt, nhưng rồi họ quyết định phải giải quyết cuộc xâm chiếm miền Nam dù thắng hay bại bằng chính quy chiến liên hợp với thủ thuật chính trị, dốc toàn lực vào trận chiến cuối cùng.
Dựa vào những yếu tố chính trị, quân sự thuận lợi cho họ như Mỹ bắt tay Trung cộng, miền Nam Việt Nam không còn là nút chặn Cộng sản về phía Nam nữa, quần chúng Mỹ bị giới truyền thông báo chí thiên tả hướng dẫn sai lạc về cuộc chiến Việt Nam, thấy rõ ý đồ của Mỹ chỉ muốn rút chân khỏi vũng lầy Việt Nam và sẽ không trở lại bất cứ tình huống nào.
Trong hơn 3 năm chuẩn bị như mở rộng đường mòn Hồ Chí Minh làm đường tiếp vận chính, có khả năng chịu đựng được sự vận chuyển của chiến xa hạng nặng Nga, pháo cùng cơ giới, dụng cụ chiến tranh khác do Nga sô mới viện trợ, hoàn tất hệ thống ống dẫn dầu, xăng vào chiến trường vùng I, II của Việt Nam Cộng Hòa. Chuẩn bị, bí mật chuyển quân đã xong.
Thực hiện mưu đồ:
Như những bài trước đã viết, vào ngày 3O/3/1972 hồi 12 giờ trưa Cộng sản Bắc Việt khai diễn chiến dịch Nguyễn Huệ, tung hàng chục sư đoàn, hàng ngàn chiến xa, đại pháo, hỏa tiễn ồ ạt tấn công vào lãnh thổ vùng I, II, III miền Nam. Ý đồ muốn chiếm một tỉnh nào đó để có đất có dân hầu đặt chính phủ do họ nặn ra (Giải phóng miền Nam) như Ban Mê Thuột, Bình Long hay Quảng Trị. Mở màn được ít tuần, cả 3 mũi tiến chiếm đều bị chặn, phản công kịch liệt của quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Thấy khó đạt ý định chiếm Ban Mê Thuột hay Bình Long là tỉnh ở gần Saigon thủ đô miền Nam có nhiều lợi điểm chính trị, gây tiếng vang quốc tế nhiều hơn. Ban chính trị Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam quyết định đổi diện thành điểm, nhắm vào tỉnh Quảng Trị gần hậu phương Bắc Việt, tiện bề tăng viện, yểm trợ đồng thời tung thêm 2 sư đoàn trừ bị cuối cùng vào trận Quảng trị.
Khi khởi đầu tại vùng hỏa tuyến, Bắc Việt xua 5 sư đoàn tác chiến, 2 trung đoàn pháo, 1 trung đoàn phòng không cùng các đơn vị thuộc mặt trận B5 (Quảng Tri.-Thừa Thiên) gồm: 2 trung đoàn tác chiến, 1 trung đoàn pháo, 1 trung đoàn tên lưœa (hỏa tiễn), 1 trung đoàn đặc công, như vậy là hơn 1 sư đoàn nữa. Họ dùng chiến thuật bộ binh hợp đồng chiến xa, chia nhiều mũi nhỏ, tiền pháo hậu xung các cứ điểm hay hỏa lực của ta suốt dọc phía Nam vĩ tuyến 17 từ bờ biển lên đến biên giới Lào.
Bất ngờ bị một lực lượng đông hơn 4, 5 lần tấn công nên Sư đoàn 3 Bộ binh cùng một số lực lượng Tổng trừ bị cầm cự lui dần tuần tự bỏ thị trấn Đông Hà, căn cứ Ái Tử bản doanh của Sư đoàn 3 Bộ binh, qua sông Thạch Hãn, thị xã Quảng Trị, về hẳn phía Nam sông Mỹ Chánh. Tại con sông này, đà tấn công ồ ạt, hung hãn của quân Cộng sản Bắc Việt đã bị Lữ đoàn 369 Thủy Quân Lục Chiến chận đứng vào ngày 3/5/1972. Đây là đường ranh Nam Bắc phân tranh tạm thời cho đến khi Quân lực Việt Nam Cộng Hòa đứng lên tiến vào tái chiếm thị xã Quảng Trị vào ngày 16/9/1972.
Trung tướng Ngô Quang Trưởng
Trung tướng Ngô Quang Trưởng
II- Công cuộc tái chiếm
Vào khoảng 1 giờ trưa ngày 5/5/72 Trung tướng Ngô Quang Trưởng cùng Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh, Đại tá Lê Văn Thân (sau thăng cấp Chuẩn tướng), Đại tá Phạm Văn Phô trưởng phòng 2 Quân đoàn, đáp trực thăng bất ngờ thăm viếng Bộ chỉ huy Lữ đoàn 369 tại quận lỵ Phong Điền tỉnh Thừa Thiên. Sự thăm viếng này gây ngạc nhiên cho chúng tôi vì hiện ông đang là Tư lệnh Quân đoàn 4. Vẻ mặt đăm chiêu suy nghĩ Trung tướng Trưởng chậm rãi nói:
– Tôi vừa được Tổng thống chỉ định thay thế Trung tướng Hoàng Xuân Lãm, Chung cho tôi rõ tình hình bây giờ ra sao ?
Sau khi nghe trình bày sơ qua tình hình bạn, địch xong, trên đường trở lại bãi đáp, Trung tướng Trưởng vẫy tay để đoàn tùy tùng đi trước, riêng ông đứng lại để có dịp nói riêng với tôi. Ông không dùng uy phong của một vị Tư lệnh Quân đoàn để hỏi một Đại tá Lữ đoàn trưởng dưới quyền, tôi cảm thấy từ lời nói, ánh mắt như biểu lộ tình huynh đệ chân thành, tình chiến hữu giữa trận mạc cùng nhau chia xẻ nhiệm vụ nặng nề, ông nói:
– Chung đừng ngần ngại gì hết, cứ nói thật ” ông nhấn mạnh chữ nói thật ” cho tôi biết, liệu mình có giữ được không ? ” ý ông muốn hỏi còn có thể chịu đựng được những đợt tấn công sắp tới không? “.
Tôi trả lời:
– Mình giữ được Trung tướng.
Nghe tôi trả lời chắc nịch, dứt khoát như vậy, mắt ông bừng lên ánh lửa quyết tâm. Ông trầm ngâm một chút rồi hỏi thêm:
– Chung có yêu cầu gì ở tôi không?
– Xin Trung tướng chú trọng đặc biệt tới Bộ Tham Mưu Quân đoàn hơi kém và lực lượng Địa Phương Quân Thừa Thiên cứ muốn rút đi.
– Tôi hứa với Chung sẽ chấn chỉnh Bộ Tham Mưu Quân đoàn đồng thời chỉ thị cho Đại tá Tôn Thất Khiên, Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng ngay về các đơn vị Địa Phương Quân.
Về phía Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, ngoài sự thay đổi Tư lệnh Quân đoàn 1, tuần tự kế tiếp trong tháng 5/72 Đại tá Bùi Thế Lân, Tư lệnh phó lên thay Trung tướng Lê Nguyên Khang Tư lệnh Sư đoàn Thuœy Quân Lục Chiến, Tướng Khang về Phụ tá Hành quân Tổng Tham Mưu trưởng Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Đại tá Lân sau đó thăng cấp Chuẩn tướng. Đại tá Lê Quang Lưỡng thăng cấp Chuẩn tướng thay Trung tướng Dư Quốc Đống, Tư lệnh Sư đoàn Nhảy Dù, tháng sau đó. Về nội bộ Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến: Đại tá Nguyễn Thành Trí thay Đại tá Lân làm Tư lệnh phó Sư đoàn, Trung tá Nguyễn Thế Lương sau thăng cấp Đại tá được chỉ định Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 369 thay Đại tá Phạm Văn Chung giữ nhiệm vụ Tham mưu trưởng Hành quân Sư đoàn.
Tướng Ngô Quang Trưởng là vị Tướng trận mạc, ông có thói quen sau khi nhận nhiệm sở mới thường bay một vòng quan sát, tự tai nghe các sĩ quan Chỉ huy mặt trận trình bày để phối kiểm các điều sĩ quan trong Bộ tham mưu cung cấp cho ông. Ông nhận thấy 3 điểm chiến lược quân sự, chính trị cần phải làm ngay:
1. Tái bổ xung, trang bị các đơn vị bị tổn thất vừa qua, tái phối trí lực lượng còn lại ngay để có thể ngăn chận âm mưu địch tiến chiếm thị xã Huế từ hướng Bắc (vượt tuyến Mỹ Chánh), hoặc phía Tây (từ thung lũng Ashau – Alưới).
2. Tái chiếm lại những phần đất vừa lọt vào tay quân Cộng sản Bắc Việt.
3. Vãn hồi trật tự xã hội, gây lòng tin cho quân dân cán chính vùng địa đầu giới tuyến.
sd phamvan chungTRANS
Đại tá Phạm Văn Chung
Những năm trước đó Tướng Trưởng đã giữ chức Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh nên ông rành rẽ nhân văn địa thế toàn vùng. Đây là lợi điểm để ông dễ dàng khôi phục lại lòng tin của mọi người. Song song việc thi hành điểm chiến lược 1, ông nghĩ ngay đến việc tái chiếm thị xã Quảng Trị (người viết đoán vì tình hình chính trị hồi đó, Tổng thống Thiệu đã phần nào thôi thúc ông). Ông chỉ định Đại tá Lê Văn Thân (là một sĩ quan Pháo binh giỏi, đi cùng ông từ vùng 4 chiến thuật ra) làm Trưởng ban thiết kế kế hoạch tái chiếm Quảng Trị gồm:
– Quân đoàn 1: Đại tá Phạm V. Nghìn Trưởng phòng 3, Đại tá Phạm V. Phô Trưởng phòng 2.
– Sư đoàn Dù: Đại tá Lê Văn Ngọc, Đại tá Lê Văn Phát
– Sư đoàn TQLC: Đại tá Phạm Văn Chung, Trung tá Đỗ Kỳ (sau thăng cấp Đại tá).
Để bảo mật tuyệt đối, ông cho lập một phòng riêng biệt (không liên hệ gì với các sĩ quan tham mưu khác của Bộ tư lệnh Quân đoàn 1) dành cho ban thiết kế soạn thảo kế hoạch.
Sau khi chiếm tỉnh, thị xã Quảng Trị quân Cộng sản Bắc Việt phòng thủ kiên cố chiều sâu dày đặc, nguyên thị xã, cổ thành Đinh Công Tráng do một Sư đoàn tăng cường chiến xa, 1 Trung đoàn đặc công và bao bọc bởi hỏa lực pháo, hỏa tiễn khủng khiếp. Xung quanh về phía Nam giáp tuyến Mỹ Chánh, phía Tây nhà thờ La Vang, phía Đông biển, phía Bắc sông Thạch Hãn với 4 Sư đoàn khác chia nhau trấn giữ, giai đoạn này chúng thêm 2 Sư đoàn trừ bị cuối cùng 32O và 325 đã vào đến phía Nam sông Bến Hải.
Mưu đồ chính trị của Bắc Việt là nhất quyết chiếm giữ thị xã Quaœng Trị là thủ đô cho chính phủ bù nhìn Giải phóng miền Nam để mạnh tiếng nói trong Hội đàm Ba Lê đang tiếp diễn. Về phía chính phủ Việt Nam Cộng Hòa ra lệnh Quân đoàn 1 phải chiếm lại bằng mọi giá, nên trận đánh từ bản chất đả nói lên sự gay cấn, ác liệt ngay từ giây phút đầu.
Trong khi đang thiết kế cùng tập trung lực lượng tái chiếm như Sư đoàn Dù tăng phái Quân đoàn 1 ngày 22/5, Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến tuyến phòng thủ phía Bắc (sông Mỹ Chánh), Sư đoàn 1 Bộ binh trấn phía Tây thị xã Huế. Tất cả đều tung các cuộc tấn công hạn chế thăm dò để giữ thế chủ động trong phòng thủ:
Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến:
– Ngày 12/5 cuộc hành quân Sóng Thần 5/72 của Lữ đoàn 369 có 2 tiểu đoàn trực thăng vận vào quận Hải Lăng, 1 Tiểu đoàn vượt sông Mỹ Chánh bắt tay với 2 Tiểu đoàn trên. Đụng độ với Trung đoàn 66 của Sư đoàn 3O4 Bắc Việt.
– Ngày 24/5 hành quân Sóng Thần 6/72 cuœa Lữ đoàn 147 đã tung 2 Tiểu đoàn trực thăng vận vào Đông Bắc quận Hải Lăng, 1 Tiểu đoàn đổ bộ từ tàu vào bãi biển Mỹ Thuœy. Đụng độ với Trung đoàn 18 cuœa Sư đoàn 325 Bắc Việt.hq07
Sư đoàn 1 Bộ binh :
– Ngày 15/5 tung 2 Trung đoàn mơœ rộng vòng đai về phía Tây, chiếm căn cứ hỏa lực Bastogne và Checkmate. Đụng độ với các Trung đoàn thuộc Sư đoàn 324 B của Bắc Việt.
Phía Cộng sản Bắc Việt :
– Ngày 21/5 bộ binh cùng chiến xa địch tấn công vào khu vực phòng thủ của Lữ đoàn 369 Thủy Quân Lục Chiến, thọc sâu vào tuyến phòng thủ của ta nhưng bị đẩy lui.
– Ngày 22/5 khoảng 3 giờ sáng địch tung 2O chiến xa và bộ binh tấn công 2 đợt vào 1 Tiểu đoàn cùng Bộ chỉ huy Lữ đoàn 369 Thuœy Quân Lục Chiến, bị đẩy lui trước khi trời sáng rõ.
– Ngày 25/5 địch chuyển hướng tấn công sang Lữ đoàn 258 Thủy Quân Lục Chiến phía Tây, dàn trận giữa ban ngày, bị đẩy lui, thiệt hại nặng vì phi pháo của ta.
– Ngày 26/5 địch tấn công mạnh mẽ vào khu vực Liên đoàn 1 Biệt Động Quân, lọt vào gần sát các cơ sở chỉ huy, nhưng Biệt Động Quân đã dũng mãnh phản công đẩy lui.
Sang tháng 6/72 để chuẩn bị cho công cuộc tái chiếm thị xã Quảng Trị, Thủy Quân Lục Chiến tấn công (Sóng Thần 8/72) đồng loạt tung 4 Tiểu đoàn vượt sông Mỹ Chánh, được không quân, pháo binh yểm trợ, địch kháng cự mạnh mẽ, nhưng lực lượng Thủy Quân Lục Chiến tiếp tục tiến, chiếm giữ phần đất vừa giành đươ.c. Các đơn vị Công binh theo sau lập ngay tuyến phòng thủ sâu lên phía Bắc. Ngày 18/6 tiếp luôn cuộc hành quân Sóng Thần 8A/72, nhiều Tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến song song tiến chiếm, giành từng trăm thước đất một, đẩy lui địch khoảng 4 cây số về phía Bắc tuyến Mỹ Chánh và chấm dứt ngày 27/6.
Quân đoàn 1 với lệnh hành quân Lam Sơn 72, chính thức mở màn cuộc tái chiếm thị xã Quảng Trị. Lực lượng Việt Nam Cộng Hòa gồm: Sư đoàn Dù, Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến, 3 Liên đoàn Biệt Động Quân, Lữ đoàn 1 Kỵ binh Thiết giáp, Pháo binh cùng các đơn vị yểm trợ khác cơ hữu Quân đoàn 1, Không quân, Hải quân vùng 1 chiến thuật.
Về tương quan lực lượng thì quân Cộng Sản Bắc Việt trội hơn ta về bộ binh, thiết giáp, pháo binh 4 trên 1. Riêng Quân lực Việt Nam Cộng Hòa ưu thế về không quân và hải quân (xem bản tương quan lực lượng).
Quan niệm hành quân: ngày 28/6 hồi 7 giờ sáng, lực lượng Việt Nam Cộng Hòa vượt tuyến xuất phát (Mỹ Chánh) tiến về hướng Bắc (Quảng Trị). Sư đoàn Dù tăng phái thiết đoàn xa, các Liên đoàn Biệt Động Quân tiến theo trục quốc lộ 1, trách nhiệm kéo dài về phía Tây. Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến tăng phái chiến xa, các lực lượng tăng phái khác trách nhiệm phía Đông quốc lộ 1 đến sát bờ biển. Ngoài biển có hải quân tuần phòng kiểm soát, xa hơn nữa có vài chiến hạm cuœa Đệ thất hạm đội Mỹ, nếu cần lực lượng tái chiếm có thể xin hải pháo yểm trợ, không quân yểm trợ hỏa lực theo nhu cầu trận địa.
Khoảng đường từ Mỹ Chánh đến thị xã Quảng Trị chừng 15 cây số, đoạn này lực lượng tái chiếm coi như 15 cây số máu. Quân Cộng sản Bắc Việt đặt các chốt hầm hố kiên cố, mìn bẫy, yểm trợ bởi hỏa lực pháo binh, hỏa tiễn hiện đại. Lực lượng Dù và Thủy Quân Lục Chiến phải phá chốt từng vài trăm thước một để tiến lần sát mục tiêu Quảng Trị.
Sau khoảng 3O ngày chiến đấu trong hoàn cảnh bất lợi về mọi mặt, Dù và Thủy Quân Lục Chiến song tiến vượt qua đường máu, bám sát thị xã Quảng Trị như đã nói trên được phòng thủ bởi 1 Sư đoàn với chiến xa, riêng Cổ Thành 1 Trung đoàn thêm các đơn vị đặc công.
Phía Thủy Quân Lục Chiến, Tướng Bùi Thế Lân tính toán chấp nhận rủi may, thả những đợt trực thăng vận quân vào sau lưng địch như: ngày 11/7 đổ Tiểu đoàn 1 vào vùng 2 cây số phía Bắc thị xã, hương lộ 56O cắt trục tiếp vận cuœa địch vào trận địa. Ngày 24/7 thả Tiểu đoàn 5 vào vùng 1O cây số Đông Bắc Quảng Trị, mục đích gây nao núng tinh thần, xáo trộn sau lưng địch để mũi tấn công chính đẩy địch ra khỏi hệ thống phòng thủ kiên cố, thu ngắn thời gian cùng bớt tổn hao xương máu quân sĩ.
Bình thường ra mục tiêu nằm trên trục tiến quân của đơn vị nào thì đơn vị đó đánh chiếm. Quận lỵ Hải Lăng, thị xã Quảng Trị nằm trên đường tiến quân của Thủy Quân Lục Chiến nhưng Tướng Trưởng lại giao cho Dù đánh chiếm 2 mục tiêu trên. Lý do dự đoán Tướng Trưởng nguyên gốc Dù, có lẽ ông muốn dành vinh dự cho Sư đoàn Dù, việc này làm Tướng Lân của Thủy Quân Lục Chiến buồn lòng không ít .
Sát vòng đai thị xã, các chốt phòng thủ địch càng dầy đặc hơn, lực lượng tái chiếm phải tiêu diệt địch từng trăm thước, tiến lên , lùi xuống dằng co nhiều ngày, lúc tung lựu đạn, khi cận chiến lưỡi lê… Tấn công lúc xẩm tối, khi mờ sáng giành nhau từng thước đất, từng căn phố ! Từ xa nhìn về Quảng Trị chỉ thấy một trời khói đất mịt mù, tiếng bom đạn, tiếng súng lớn súng nhoœ đôi bên không còn phân biệt, chỉ nghe ầm ì như sấm động rền rĩ caœ bầu trời. Người ta có cảm tưởng như thành phố Quảng Trị đang rung lên vì một cơn địa chấn nặng, tàn phá hãi hùng.
hq14Khai thác nhật ký trên tử thi binh sĩ Bắc Việt ghi lại cảnh bom đạn trút xuống đầu họ như sau: “Mẹ ơi, con chắc không thể nào sống sót để nhìn thấy mẹ nữa, bạn chung quanh con chết dần hàng ngày rồi, con đang cuốn mình trong căn hầm này cả tháng rồi không ra khỏi. Pháo, giời ơi pháo suốt ngày đêm, đầu con lung bung, ăn không được, ngủ không được, đầu con như muốn vỡ tung ra, máu tai đã bắt đầu chảy rồi, như các bạn con đứa nào chết cũng đầy máu tai máu mũi. Pháo, giời ơi lại pháo, con điên mất không thể nào chịu đựng được nữa, chắc không thể nào con về Bắc với mẹ nữa”.
Đấy là hậu quả của 2, 3 đợt “Hỏa Lôi”, xin nói rõ mỗi đợt lâu 24 hay 48 tiếng đồng hồ, mọi hỏa lực yểm trợ như: không quân, hải pháo, pháo binh tập trung hàng trăm khẩu thay phiên nhau trút bom, tác xạ ngày đêm không ngừng theo thời gian ấn định vào mục tiêu (Time on target). Thật là địa ngục trần gian !
Thủy Quân Lục Chiến đã chiếm xong phía Đông và Đông Bắc mục tiêu Quảng Trị, để Dù tấn chiếm thị xã cùng cổ thành. Đơn vị tuyến đầu của Dù vẫn chưa tiến sát được tới Cổ Thành, một vài lần cố gắng cắm cờ vào tường Cổ Thành. Lực lượng Dù đã bị tổn thất nhiều qua các trận đánh ác liệt tại Cao nguyên, Bình Long – An Lộc, tiếp theo sự thiệt hại khá cao trong trận tái chiếm này nên sự dũng mãnh có phần nào sa sút.
Theo sự hiểu biết giới hạn của người viết, Tổng thống Thiệu sốt ruột có ý thúc Tướng Trưởng ráng chiếm lại Quảng Trị nhanh hơn vì nhu cầu chính trị quốc tế lúc bấy giờ, nên Tướng Trưởng chỉ định Thủy Quân Lục Chiến thay Dù đánh chiếm thị xã và Cổ Thành Quaœng Trị vào ngày 27/7/72.
Nhận được lệnh Tướng Lân trầm ngâm suy nghĩ, nét mặt ông hằn lên, người viết nhận thấy hình như nội tâm ông đang dằng co mãnh liệt, vì danh dự binh chủng, quân đội và ngay cả tương lai võ nghiệp. Ông cùng các sĩ quan tham mưu thiết kế kỹ lưỡng và chọn chiến thuật xa luân chiến. Nghĩa là dùng Lữ đoàn 258 Lữ đoàn trưởng là Đại tá Ngô Văn Định trách nhiệm phía Tây, Lữ đoàn 147 Lữ đoàn trưởng Đại tá Nguyễn Năng Bảo phía Đông thị xã, Lữ đoàn 369 Lữ đoàn trưởng Đại tá Nguyễn Thế Lương trừ bị, còn các Tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến từ 1 đến 9 thay phiên nhau trực thuộc Lữ đoàn lên tuyến đầu chiến đấu, rồi lui về sau bổ sung nghỉ ngơi. Nhờ vậy các Tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến đều được bổ sung đều đặn, khả năng chiến đấu không quá suy giảm vì tổn thất.
Suốt thời gian đánh chiếm lại thị xã Quảng Trị, Tướng Lân cứ 6 giờ sáng bay từ Bộ tư lệnh Sư đoàn tại quận lỵ Hương Điền lên sát trận địa, ngồi ngay cạnh các Lữ đoàn trưởng trực tiếp điều khiển trận đánh. Ông rất chi tiết, kỹ lưỡng từng điểm nhỏ, cũng không lạ lắm vì ông nổi tiếng là một sĩ quan tham mưu giỏi trước khi nhận nhiệm vụ Tư lệnh Sư đoàn, nhờ vậy Thủy Quân Lục Chiến tránh được nhiều tổn thất vô ích.
Trận Quảng Trị được mô tả là khủng khiếp, ác liệt, đẫm máu không thua gì các trận đánh đẫm máu khác trên thế giới. Xin hãy nghe một sĩ quan Trung đội trưởng nói: “Muốn bị thương dễ lắm, chỉ cần dơ tay lên khỏi miệng hố cá nhân hoặc thò tay ra khỏi cửa hầm thì dính đạn liền!”.
Khoảng 5O ngày trong khung vuông mỗi chiều chừng 15 cây số, hàng chục Sư đoàn của hai phía quần thảo nhau dưới màn hỏa lực yểm trợ hiện đại khủng khiếp đôi bên. Dưới mắt các nhà quân sự thì trận chiến đã tự diễn tả cái nồng độ tàn khốc, đẫm máu của nó, nói gì, viết gì thêm cũng không thể hiện đầy đủ. Riêng phía Thủy Quân Lục Chiến có nhiều bài viết về trận đánh lịch sử này, nhưng mỗi tác giả nhìn một góc cạnh khác nhau, như Trung tá Tiểu đoàn trưởng Thủy Quân Lục Chiến Trần Văn Hiển với bài viết “Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam và trận chiến xuân 1972 tại vùng I chiến thuật”, như một Thủy Quân Lục Chiến với bài “Tiến về Quảng Trị”, như Trung úy Thủy Quân Lục Chiến Văn Tấn Thạch bút hiệu Sói Biển Thạch Thảo với “Tái chiếm cổ thành”, là cấp Trung đội trưởng, Đại đội trưởng chiến đấu ngay sát tuyến đầu, vậy xin độc giả tìm hiểu thêm các bài này để có cái nhìn toàn bộ trận đánh, từ một vài yếu tố chính trị, tham mưu thiết kế đến lực lượng chiến đấu tuyến đầu.hq20
Thường ra thì lực lượng tấn công bao giờ cũng phải trội hơn từ 3 đến 5 lần lực lượng phòng thủ, thế mà trong trận Quảng Trị địch phòng thủ lại trội hơn ta tấn công đến 4 lần. Thật là phép lạ hay vì yếu tố danh dự, tâm lý nào mà Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã tạo nên chiến thắng vẻ vang đó. Suốt thời gian tiếp diễn, biết bao nhiêu con mắt từ mọi phía đều theo dõi, nhìn vào, cảm tình phe này, ác cảm phe kia hay ngược lại. Nhưng kết qủœ cuối cùng đã chứng minh cái danh và giá trị để đời của nó. Sau trận đánh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa được kính nể, coi như một đội quân thiện chiến trên thế giới.
Ngày 15/9/72 hồi 12 giờ 45 trưa Thủy Quân Lục Chiến chiếm xong cổ thành, mục tiêu cuối cùng trong trận Quảng Trị, cắm 2 lá cờ vàng 3 sọc đỏ nhỏ do toán tiến chiếm tiền phong của 2 Lữ đoàn 258, 147 mang theo với cán cờ nối buộc sơ sài trên 2 cổng cổ thành. Quảng Trị tan hoang, đổ nát thành đống gạch vụn, vụn đến 2 lần, không một tấc đất nào không bị bom đạn cày xới, không một vật nào trên mặt đất mà không bị đạn, miểng đạn cắt xẻ.
Và ngày 16/9/72 một lễ thượng kỳ tương đối long trọng hơn với đầy nước mắt của binh lính Thủy Quân Lục Chiến.
Quảng Trị thực sự được tái chiếm.
III- Tiếng vang trận đánh
Cho đến hơn 2O năm sau, trong một quân trường Hoa kỳ, nhân sau bài giảng về quân sự thế giới, vị Tướng thuyết trình viên đã hỏi khoảng 2OO sĩ quan sinh viên (khóa sĩ quan tu nghiệp) rằng:
– Trên thế giới, quân đội nào chiến đấu giỏi?
Người nói quân đội Mỹ, kẻ nói Anh, Pháp , Do Thái … Ông Tướng thủng thẳng vừa mỉm cười vừa nói:
– Lực lượng Tổng trừ bị Thủy Quân Lục Chiến, Dù, Biệt Động Quân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chiến đấu giỏi. Một Sư đoàn của họ có khả năng chiến đấu bằng 5 Sư đoàn khác, nhưng tiếc thay những lực lượng này không còn nữa.
Và ông hỏi tiếp:
– Ở đây có sĩ quan nào gốc Việt Nam hãy đứng lên.
Một tiếng có vang lên gần cuối phòng, một thanh niên Mỹ gốc Việt mặt xạm đen, đầy hãnh diện đứng lên. Hàng trăm con mắt đều nhìn về phía Đại úy Nhảy Dù Mỹ gốc Việt giòng họ Lương. Vị Tướng tiếp:
– Tôi đoán không lầm thì thân sinh của Đại úy là cựu quân nhân xưa kia.
Đại úy Lương trả lời:
– Thưa Trung tướng vâng, cha tôi là một cựu Thiếu tá Thủy Quân Lục Chiến Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa ngày xưa.
Tất cả mọi người trong hội trường đều kêu “ồ” và vị Tướng cho phép Đại úy Lương ngồi xuống. Sau buổi học đó, các bạn đồng khóa nhìn Đại úy Lương với con mắt nể phục hơn. Đại úy Lương tâm sự: “Khi còn ở nhà, thấy bố tôi và các chiến hữu của ông nói về Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa cùng các trận đánh…, tôi có ý coi thường, vì các ông già trên dưới 6O tuổi này, ốm o, nhăn nhúm, nói tiếng Mỹ ngập ngừng, ngắt quãng, làm sao để lại ấn tượng hào hùng trong tâm trí tôi đươ.c. Nhưng nay tôi thật tình cúi đầu tạ lỗi cùng bố tôi và các chiến hữu của ông. Kể từ ngày đó, cái nhìn và suy nghĩ của tôi về bố mình khác xưa nhiều lắm”.
Trận Quảng Trị cũng được một số trường quân sự cao cấp của các quốc gia đồng minh lấy làm case điển hình để nghiên cứu, giảng dạy.
IV- Hệ quả sau trận Quảng TrịQuang tri_2
Điện tín, thư từ chúc mừng của các Tướng lãnh tên tuổi, các quốc gia Đồng minh gửi đến ca ngợi chiến thắng hào hùng này. Tổng thống, Thượng Hạ viện Việt Nam Cộng Hòa họp khẩn cấp thông báo cùng toàn dân.
Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ hãnh diện với thế giới về trận Iwo-Jima thì Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam đã làm cho thế giới nể phục với chiến thắng Quảng Trị 16/9/72. Tiếng tăm đã vượt ra khoœi cuộc chiến đấu tự vệ của miền Nam để đi vào tầm vóc quốc tế. Những ngày sau đó, nhiều phái đoàn quân sự của các quốc gia bạn đã đến tận nơi tìm hiểu. Đặc biệt Tướng Vanuxem của phái đoàn Pháp sau khi nghe trình bày sự thương vong đôi bên (riêng Thủy Quân Lục Chiến khoảng 35OO binh lính hy sinh, theo tỷ lệ cứ 1 hy sinh khoảng 3 bị thương), ông đứng bật dậy dơ tay chào và nói: “Tôi ngưỡng mộ Tướng Lân cùng toàn thể binh lính Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam”. Tướng Vanuxem được mệnh danh là “con hùm xám Bắc Việt” (trong chiến tranh Pháp – Việt Minh trước 1954), đứng trước sự tan hoang, đổ nát của cả một thành phố cùng sự thiệt hại đôi bên, ông Tướng già dày dạn chiến trường này đã cảm thấy ngay cái mức độ tàn khốc, ác liệt, đẫm máu của trận đánh nên mới tỏ lời như trên.
Người chiến binh Thủy Quân Lục Chiến đã chiến đấu dũng cảm, đem thân xác mình ra chịu đựng thử thách giữa một hoàn cảnh thua thiệt mọi bề để đạt mục tiêu to lớn của Quân đội và Quốc gia. Đài Saigon đã phát thanh chương trình đặc biệt về chiến thắng này và bài hát “Cờ bay trên cổ thành Quảng Trị” đã được hát lên từ những ngày tháng oai hùng đó.
Ngoài Bắc, Tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng tư lệnh quân đội nhân dân Cộng sản Bắc Việt đã bật khóc khi hay tin Quảng Trị thất thủ với hàng trăm ngàn quân sĩ thương vong, vũ khí và trang bị nặng bị tổn thất hầu hết. Ông mất chức sau đó ít lâu.
V- Kết luận
Người viết xin có đôi lời với những người lính Thủy Quân Lục Chiến:
– Lịch sử là những biến cố nhân tạo hoặc thiên tạo, chiến thắng Quảng Trị là do công sức của mọi quân binh chủng, Thủy Quân Lục Chiến hy sinh thêm những giọt máu cuối cùng.
– Hai mươi bốn năm sau, có dịp nói chuyện với những người lính Cộng sản Bắc Việt đã dự trận Quảng Trị, họ đều bày tỏ sự tàn khốc, ác liệt, đẫm máu của trận đánh.
-Người đời sau nói đến Quảng Trị không thể nào không nhắc đến binh đoàn Thủy Quân Lục Chiến với những người lính Mũ Xanh anh dũng đã làm tròn nhiệm vụ được giao phó.
Bắc Việt đã rút kinh nghiệm từ thất bại đau đớn của cuộc đại tấn công mùa hè năm 1972, họ chuẩn bị thêm 3 năm nữa mới dám mở cuộc tấn chiếm 1975.
Đại tá Phạm Văn Chung








Đại Tá Phạm Văn Chung
CHU VŨ  là biệt danh của Cựu Đại tá TQLC  PHẠM VĂN CHUNG .
 
Anh sinh ngày  tại 1/8/1931 tại Hà nội.
Anh gia nhập Khóa Cương Quyết ( Khóa 4 phụ )  tại trường Vỏ bị Liên quân Đà lạt vào ngày 19/3/1954. Ra trường ngày 1/10/1954 và được chọn về Binh chủng Nhảy Dù. Đến đầu năm 1956 , Anh tình nguyện về Binh chủng TQLC và được đưa về Tiểu đoàn 1 Bộ binh TQLC. Làm Đại đội phó Đại đội 1 mà Đại đội trưởng là Tr/U Trần văn Nhựt.
            Năm 1960 Anh đi du học Khóa Căn bản TQLC đầu tiên tại Quantico , thuộc Tiểu bang Virginia , Hoa kỳ.
            Năm 1962 Anh thuyên chuyển về TĐ3/TQLC làm Đại đội trưởng Đại đội 1 rồi Đại đội Chỉ huy. Năm 1963 Anh dự học khóa “ Chiến tranh đặc biệt ” tại Forth Bragg ( Hoa kỳ . Về nước làm Đại đội phó Đại đội Huấn luyện của Liên đoàn TQLC.
            Năm 1965 , tham dự Khóa Chỉ huy Tham mưu Cao cấp tại Đà lạt ở cấp bậc Đại úy.
            Mùa đông năm 1966, Anh nhận lịnh thành lập Tiểu đoàn 6 TQLC và trong trận chiến đợt 2 Tết Mậu thân năm 1968 Anh bàn giao Tiểu đoàn cho Th/tá Nguyễn xuân Phúc.
 Năm 1970  Anh về làm Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Sư đoàn TQLC.
Tháng 12/1970 Anh thay thế Tr/tá Ngô văn Định làm Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 369/TQLC  trong cuộc hành quân tại Kampuchia. Lữ đoàn tiếp tục tham dự cuộc hành quân Lam sơn 719 Hạ Lào và đặc biệt trong cuộc chiến mùa hè năm 1972,
Anh là người tổ chức và bảo vệ một cách vững chắc phòng tuyến Mỹ chánh không cho địch tiếp tục tràn về phía nam. Chiến sự ngày càng gia tăng , Đ/tá Bùi thế Lân lên nắm quyền Tư lịnh SĐ/TQLC và Anh giữ chức vụ Tham mưu trưởng Hành quân của SĐ/TQLC. Anh là một trong những người thiết kế và điều hành một cách tài tình đưa đến chiến thắng vẽ vang nhất của SĐ/TQLC trong ngày 16/9/1972 : Dựng cờ trên Cổ thành Quảng trị.
Sau ngày ngưng bắn 27/1/1973, Anh được Tổng thống VNCH Nguyễn văn Thiệu chỉ định chức vụ : Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Tiểu khu Quảng Nam cho đến ngày 30/4/1975.
Anh cùng Gia đình di tản qua Mỹ từ ngày 29/4/1975 tại Sài gòn.
 Anh  hiện  định cư tại thành phố Westminster , Nam California cùng Vợ , 4 con và một cháu ngoại.
Nguồn thuyquanlucchien

Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire