dimanche 28 juillet 2024

Đọc thơ Trần Văn Lương và suy ngẫm nhân sinh quan: Les Prédateurs. (Hình ảnh lấy trên Youtube, dành cho người lớn.)

tt


Chỉ có bài hát mở đầu thế vận hội 2024 tại Paris là còn tình người.

 Kính mời quý anh chị cùng đọc thơ Trần Văn Lương, một bài thơ với nhiều ngôn ngữ trôi chảy.

Nếu chúng ta thường khóc cười theo thơ buồn nhiều hơn vui của anh Lương, thì những bài thơ được viết với nhiều thứ tiếng dưới đây sẽ làm cho chúng ta suy ngẫm về số phận con người.

Ở mọi nơi nào trên thế giới hiện nay, chiến tranh và chết chóc, bom đạn đang diễn ra từng ngày, lấy đi bao nhiêu sinh mạng con người.

Người ta dùng vũ khí để nói chuyện với nhau hay dùng phân rác như những phường thất học, côn đồ, xã hội đen...  

Những chính trị gia thì nói chuyện với nhau bằng những gì dơ bẩn nhất, vô luân thường, bẩn thỉu nhất mà không biết hổ thẹn khi con cháu họ nhìn vào, hoặc họ cố tình tẩy não thế hệ sinh sau đẻ muộn: không còn giới tính, vô đạo và thờ quỷ "S".

"Mais l'homme, au contraire, par le crime et la guerre,

Sans doute est le pire de tous les prédateurs,

Massacrant l'un l'autre, ruinant à fond la terre." 

                Trần Văn Lương 



Cám ơn anh Lương về những bài thơ anh đã gửi đến groupe của chúng ta.

Caroline Thanh Hương


tt




Kính gửi đến quý anh chị con cóc cuối tuần.

 

Dạo:

        Thú rừng có dữ mười mươi,

Cũng không độc ác bằng người với nhau.

 

I. Cóc cuối tuần Phú Lang Sa (Sonnet, alexandrin, rimes: ABBA ABBA CCD EDE)

 
          Les Prédateurs

 

Les nuages décampent, bannis par la chaleur,

Commence le faucon sa chasse quotidienne,

D'en-haut ses yeux perçants visent sa proie terrienne,

Le lièvre rencontre donc son dernier malheur.

 

Dans la forêt le lion, calme comme un voleur,

Toujours prêt à réagir, presto, quoi qu'il advienne,

Avec patience attend que sa victime vienne,

Laquelle va souffrir l'indicible douleur.

 

Si cruel que ce semble, néanmoins par leur nature

Ces animaux doivent tuer pour leur nourriture,

À tort blâmés d'être de méchants malfaiteurs;

 

Mais l'homme, au contraire, par le crime et la guerre,

Sans doute est le pire de tous les prédateurs,

Massacrant l'un l'autre, ruinant à fond la terre. 

                Trần Văn Lương

                   Cali, 7/2024


 

II. Thơ Việt:

 
            Thú Dữ 


 

Trời rực lửa, mây đen dần tứ tán,

Chim ưng đang sửa soạn chuyến săn mồi,

Mắt sáng ngời không ngớt quét ngược xuôi,

Bầy thỏ nhỏ phút cuối đời đã tới.

 

Con sư tử vẫn nín hơi nằm đợi,

Nanh vuốt luôn trong trạng thái sẵn sàng,

Con mồi nào lỡ xui xẻo chạy ngang

Sẽ gặp kiếp nạn vô vàn thảm thiết.

 

Lũ cầm thú dù mang danh ác nghiệt,

Luật thiên nhiên chúng chỉ biết tuân hành.

Vì sống còn, chúng đã phải sát sanh.

Tuy hành động quả thập thành tàn khốc.

 

Nhưng trái lại, con người sao ác độc,

Luôn tạo thành cảnh chết chóc, chiến tranh,

Gây tang thương cho triệu triệu dân lành,

Đó mới chính đích danh là thú dữ.

               Trần Văn Lương

                  Cali, 7/2024

 

 

III. Thơ Anh văn: (Shakespearean sonnetiambic pentameter, rhymes: ABAB CDCD EFEF GG)

 

        The Predators 


 

The clouds are scattered by the brutal heat,

The falcon starts its daily hunting chore,

Its piercing eyes have found its daily meat,

The hare then meets the River Styx dark shore.

 

The lion hence proceeds to lie in wait,

Forever ready for all that may come,

With patience listens to its victim's gait,

That beast will soon its usual meal become.

 

However things appear externally,

The laws of nature are immutable.

These animals, due to their destiny,

Must kill to live, hence less reproachable.

 

And man, of war and crime real fomenter,

Is certainly the meanest predator.

              Trần Văn Lương

                 Cali, 7/2024

 

 

IV. Thơ Tây Ban Nha: (Soneto clásico, endecasílabos, rimas: ABBA ABBA CDC DCD)

 

     Depredadores

 

Las nubes, el calor ha desterrado,

Ha comienzado su caza el halcón.

Al ver la presa, aprisa toma acción,

La liebre su última pena ha encontrado.

 

El león, en el bosque agazapado,

Despuesto para cualquier reacción,

Firmemente quedando en el talón,

Está esperando que llegue el venado.

 

Los animales, por naturaleza,

Sólo para evitar el hambre matan

Falsamente acusados de bruteza.

 

De los depredadores que se tratan,

Hombres son los peores, con certeza,

Con guerra y crímen, la tierra desmatan.

            Trần Văn Lương

              Cali, 7/2024

 

V.  Thơ Latin: (dactylic hexameter) (*)

 

       Praedatoria Animalia

 

Effugiunt nubes, pulsae vehementi calore,

Falco aggredit quotidianam venationem.

Cum acutis oculis praedam andagat ab aere,

Lepus ergo incidit finem dolorosam.

 

In silva alta, leo sicut fur nox placidus est,

Et semper velox ad actiones habendum.

Victimae incautae adventum expectat patienter,

Haec igitur patitur valde tragoediam atrocem.

 

Secundum naturam, crudelem et asperam,

Ad vivendum, animalia occidere alia debent,

Male accusata sunt ut atrocissimi scelesti;

Homo autem, contra, cum bello scelereque,

Certe pessimus inter omnes praedatores est,

Inter se occidens et terram depopulans.

                   Trần Văn Lương

                      Cali, 7/2024

 

(*) Ghi chú:

    Phân nhịp (scan) ra các pieds (dactyl: D, spondee: S)

như sau (pied thứ 5 bao giờ cũng phải là một dactyl):

 

Ēffŭgĭ|ūnt nū|bēs, pūl|sǣ vĕhĕ|mēntĭ că|lōre,                   DSSDDS

Fālco‿āg|grēdīt| quōtĭdĭ|ānām| vēnătĭ|ōnem.                  SSDSDS

Cum‿ācū|tīs ŏcŭ|līs prǣ|dām⁔ān|dāgăt ăb| ǣre            SDSSDS

Lēpūs| ērgō|⁔īncī|dīt fī|nēm dŏlŏ|rōsam                          SSSSDS

 

Īn sīlva|‿āltă, lĕ|ō sī|cūt fūr| nōx plăcĭ|dūs est,                SDSSDS

Ēt sēm|pēr vē|lōx ād| āctī|ōnĕs hă|bēndum.                       SSSSDS

Vīctī|mae‿īncāu|tae‿ādvēn|tum‿ēxpēc|tāt pătĭ|ēnter,  SSSSDS

Hǣc ĭgĭ|tūr pătĭ|tūr vāl|dē trā|gœ̄dĭam‿ă|trōcem.            DDSSDS

 

Sēcūn|dūm nā|tūrām|, crūdē|lēm⁔ĕt ăs|pēram,                SSSSDS

Ād vī|vēndum,‿ănĭ|mālĭă|⁔ōccĭdĕ|re‿ālĭă| dēbent,      SDDDDS

Māle‿ā|ccūsătă| sūnt ŭt ă|trōcīs|sīmĭ scĕ|lēsti;                SDDSDS

Hōmō|⁔āutēm|, cōntrā|, cūm bēl|lō scĕlĕ|rēque              SSSSDS

Cērtē| pēssĭmŭs| īntēr| ōmnēs| prǣdătŏ|rēs est,                SDSSDS

Īntēr| sē⁔ōc|cīdēns| ēt tēr|rām dĕpŏ|pūlans.                    SSSSDS

 

 

VI.  Thơ Hán:

 
           

 

      ,

      ,

      ,

      .

 

      ,

      .

      ,

      .

 
      ,
      ,

      ,

      .   

 

      ,

      .
      ,
      .

             

 

 

Âm Hán Việt:

 

               Ác Thú

Thanh thiên nhiệt lãng tán ô vân,

Thụ thượng lão ưng tảo khởi thân,

Thiểm thiểm mục quang tuần khoáng thổ,

Thị trung tiểu thố tất quy thần.

 

Sư lãnh tĩnh như dạ tặc nhi,

Tha nha trảo tổng bị tùy thì.

Ô hi, liệp vật phùng nguy lộ,

Trát nhãn chi gian ngộ tử kỳ.

 

Dã thú tuy tần tạo huyết tinh

Đản tha môn chỉ bảo kỳ sinh.

Phân minh tuân tự nhiên quy luật,

Nhật nhật bình tâm sát bất đình.

 

Nhân loại nhiên nhi hựu bất đồng,

Hỗ tương đồ sát, sự nan dung.

Chiến tranh gia thượng xung thiên tội,

Nhân thị trần gian vật tối hung.

       Trần Văn Lương

          Cali, 7/2024

 

Nghĩa:

 


                Thú Dữ

Trên trời xanh làn hơi nóng làm tan mây đen,

Trên cây con chim ưng già dậy sớm,

Đôi mắt lấp loáng tuần tra vùng đất rộng,

Con thỏ nhỏ ắt phải (lên) chầu Trời.

 

Con sư tử yên lặng như kẻ trộm đêm,

Răng và móng vuốt luôn sẵn sàng.

Than ôi, con mồi đụng phải con đường nguy hiểm,

Trong chớp mắt gặp kỳ hạn chết đến.

 

Loài thú hoang dù hay m đổ máu,

Nhưng chỉ vì muốn bảo tồn mạng sống mình.

Rõ ràng tuân theo quy luật tự nhiên,

Nên thản nhiên giết hại mỗi ngày không ngừng nghỉ.

 

Tuy nhiên, nhân loại thì lại khác,

Chuyn giết hại nhau khó có thể chấp nhận được.

Với chiến tranh cộng thêm tội ác ngập trời,

Con người là sinh vật hung dữ nhất trần gian.

 

dimanche 17 mars 2024

Cần Thơ có ngôi nhà cổ Bình Thuỷ vô giá với những kiến trúc vượt thời gian và nghe hay đọc truyện hay, Hơn Nửa Đời Hư của tác giả Vương Hồng Sểnh,

 Qua bao thời gian, phải công nhận là những kiến trúc thời pháp vẫn luôn giữ được nét đẹp cổ, công phu với những chạm trổ tỉ mỉ.

Nhắc đến chuyện xưa. mời quý anh chị vào nghe đọc truyện Hơn Nửa Đời Hư của tác giả Vương Hồng Sểnh.

Cám ơn những tác giả đăng bài và gửi bài trên net.

Caroline Thanh Hương  tt tt /p>

Đọc truyện Hơn Nửa Đời Hư, tác Gỉa Vương Hồng Sểnh,


Nhà cổ Bình Thủy đã 140 tuổi đời. Từng chi tiết nhỏ của nó đều là vô giá.
Lúc chúng tôi chuẩn bị rời ngôi nhà cổ, đã gần 5 giờ chiều và bên ngoài trời vẫn lất phất mưa. Thế mà, vẫn có một đoàn hơn 20 khách nước ngoài ghé vào. Họ vừa chăm chú lắng nghe, vừa săm soi từng món đồ, từng hoa văn của căn nhà...

Đã hết giờ tham quan, hướng dẫn viên hối thúc mọi người lên xe nhưng nhiều người vẫn cố nấn ná để chụp những tấm ảnh, để quan sát từng chi tiết bên trong lẫn bên ngoài ngôi nhà.

ngam nha co 140 tuoi vo gia o can tho - 1
Nhà toàn gỗ quý.

Câu chuyện của căn nhà cổ gần 140 năm này không chỉ là chuyện kể của một căn nhà. Chúng gắn liền với câu chuyện của người chủ đầu tiên, cái cách mà người ta tạo dựng nó, câu chuyện của từng món đồ, xuất xứ của chúng, giá trị của chúng...

Bên cạnh đó còn là câu chuyện mà có lẽ bây giờ là thực, nhưng mai sau chúng sẽ được thêu dệt thêm cho có vẻ ly kỳ huyền bí. Như câu chuyện chủ nhân căn nhà mua cặp ngà voi dài nhất Việt Nam cũng như quá trình lưu lạc của nó. Câu chuyện của người thợ xây khi nhận thầu xây căn nhà đã phải dè dặt vì sợ ảnh hưởng đến sự tồn vong, nghèo giàu của mình sau này.

Rồi đằng sau đó nữa, là cả một văn hoá của vùng sông nước từ chuyện ẩm thực, chuyện lễ nghi...

Tất cả đều là những điều hoàn toàn có thể khai thác để cho cuộc tham quan trở nên hoàn hảo hơn, đầy đủ hơn của du khách. Thế nhưng, thật đáng tiếc, những điều nói trên chỉ được lược giải qua loa bởi những hướng dẫn viên không đủ thời gian. Và đối với những người tự tìm đến căn nhà này thì câu chuyện lại chỉ được truyền tải bởi một người phụ nữ (hậu nhân của chủ nhà) già yếu.

Nên chăng, ở mỗi đồ vật của ngôi nhà, ở mỗi chi tiết thú vị cần có một chiếc bảng nhỏ ghi những điều cần thiết. Hay tốt hơn nữa những người làm du lịch ở đây nên in một tập sách hay tài liệu tham khảo để bán cho mọi người đến thăm.

ngam nha co 140 tuoi vo gia o can tho - 2
Giá trị của những món đồ ở đây là vô giá.

ngam nha co 140 tuoi vo gia o can tho - 3
Những chạm trổ tinh xảo, cầu kỳ.

ngam nha co 140 tuoi vo gia o can tho - 4
Những món đồ quý giá bên trong ngôi nhà.

ngam nha co 140 tuoi vo gia o can tho - 5
Nhà xây theo kiểu Pháp đến nay vẫn còn khá nguyên vẹn.

ngam nha co 140 tuoi vo gia o can tho - 6
Mặt tiền ngôi nhà với hai lối đi cầu thang hình cánh cung.

Nhà cổ Bình Thuỷ do gia đình họ Dương xây từ năm 1870 tại số 26/1A đường Bùi Hữu Nghĩa, phường Bình Thuỷ, TP Cần Thơ. Ngôi nhà có năm gian hai mái được xây dựng theo kiến trúc Pháp vẫn còn khá nguyên vẹn. Hiện nay, hậu duệ đời thứ sáu là ông Dương Minh Hiển cùng gia đình tiếp tục kế thừa và giữ gìn ngôi nhà.

Căn nhà rộng năm gian hai chái, ngang 22m, sâu 16m, nằm trên lô đất có diện tích 6.000m2. Trước sân có hòn non bộ, hoa kiểng. Bên phải là vườn lan, góc bên trái có cây xương rồng Mexico Kim Lăng Trụ cao khoảng 8m có độ tuổi khoảng 40. Sau nhà là vườn cây ăn trái. Sân rộng lót gạch tàu, lối vào nhà xây bốn cầu thang hình cánh cung. Nhà rộng với sáu hàng 24 chiếc cột gỗ lim đen bóng, đường kính khoảng 30cm. Kết nối giữa hệ thống cột, xà là những chi tiết gỗ màu nâu chạm trổ hết sức tinh vi.

Khi xây dựng, để chống mối mọt và giữ độ lạnh cho ngôi nhà, chủ nhân đã cho rải đều bên dưới nền gạch một lớp muối hột dày hơn 10cm. Ngôi nhà được bài trí theo phong cách đặc trưng Nam bộ. Bàn thờ uy nghi ngay gian giữa, khánh thờ được sơn son thếp vàng, giường thờ, tủ chè, sạp gụ, trường kỷ đều cẩn ốc xà cừ.

Du khách sẽ tìm thấy ở đây sự bài trí rất hài hoà xen lẫn bộ bàn ghế Trung Quốc, bộ xalông khảm trải kiểu Pháp đời Louis XIV, cặp đèn treo thế kỷ XIX, lavabo, cùng bốn trụ đèn dầu đặt ở bốn góc nhà cao hơn 3m của Pháp. Ngôi nhà còn mang dấu ấn rất lạ, từ gạch bông lót nền, hàng rào sắt, bộ đèn chùm pha lê tới bức tranh treo tường và đặc biệt là chiếc bồn rửa tay bằng men sứ trắng, hoa xanh đặt trên bục gỗ độc đáo… đều là hàng Pháp.

Theo Khampha.vn

Chương trình nhạc đặc sắc ngày chủ nhật chớm Xuân này lại nhớ Xuân xưa với bài thơ sáu thứ tiếng của anh Trần Văn Lương và nhạc Xuân của nhạc sĩ Đức Trí.

Kính chào quý anh chị và anh Lương,
Đã qua một vài tháng không vào post bài trong Blog vì nhiều lý do, hôm nay thời tiết đã báo Xuân gần về, mời quý anh chị cùng vào Blog đọc thơ của anh Trần Văn Lương, những bài tôi đã nhận được và cùng nghe những bản nhạc Xuân xưa , cũ và mới...
Trong những bài thơ của anh Lương, chúng ta thường nghe âm điệu nhạc trong thơ  của anh, đa số là thơ buồn.
Đặc biệt lần này, anh Lương cho chúng ta thường thức bài thơ Ne Me Demande Pas với 6 ngôn ngữ khác nhau, nhưng âm điệu thật tuyệt dịu.
Cám ơn anh Lương và quý anh chị đến thưởng thức chương trình thơ. nhạc này,
Để tránh cái buồn không ảnh hưởng đến người đọc. mời quý anh chị nghe những bài nhạc xưa của Văn Cao, Quốc Dũng được một nhạc sĩ từng du học tại Boston soạn lại với một thể loại khác.
Thọat đầu tôi nghỉ là chắc tôi không thích người mới hát, giai điệu mới thì có lẽ không hạp với goût của mình...Nhạc Việt mà soạn theo nhạc Mỹ. vì nhạc sĩ Đức Trí đã đi học tại Mỹ, nhưng khi tôi cho anh Phạm Đức Nghĩa nghe thử để biết cảm tưởng của anh thì anh nói dòng nhạc này ảnh hưởng nhạc pháp hơn là nhạc Mỹ.
Vì thế, tôi mới chợt nhận ra là tôi nghe hoài mà không thấy chán vì từ những giọng ca mới đã đoạt giải trong nước như tiếng hát của anh Quốc Thiên hay những ca sĩ trẻ khác như Lân Nhã, Lâm Bảo Ngọc...
Mời quý anh chị vào thưởng thức chương trình thơ nhạc đặc sắc này nhé.
Thân kính.
Caroline Thanh Hương

 tt tt



Kính gửi đến quý anh chị con cóc cuối tuần.

  

Dạo:

        Đã qua mấy Giáng Sinh rồi,

Nhà già ai vẫn gượng ngồi ngóng trông.

  

Cóc cuối tuần:

 

        Đã Mấy Giáng Sinh Rồi

 

      Nhà dưỡng lão, đèn màu vụt tắt,

      Hành lang đêm lặng ngắt như tờ,

          Lão bà đôi mắt trõm lơ,

Nghẹn ngào thao thức vật vờ trở trăn.

 

      Buồn nhớ lại những năm về trước,

      Khi hai người còn được bên nhau,

          Chồng lo nuôi vợ ốm đau,

Thuốc thang rau cháo đấy đâu sẵn sàng.

 

      Dẫu khuya khoắt trễ tràng mở mắt,

      Đều thấy chồng có mặt trông nom,

          Ông tuy thân xác gầy còm,

Vẫn chăm sóc vợ sớm hôm một mình.

 

      Mỗi lần Lễ Giáng Sinh về đến,

      Cháu con qua bày biện cửa nhà,

          Cùng mừng đón Chúa sinh ra,

Và sum họp với mẹ cha, ông bà.

 

      Vừa khi tiếng thánh ca tắt lặng,

      Mọi người trao quà tặng cho nhau,

          Tạm quên hết những cơ cầu,

Nỗi buồn biệt xứ, giấc sầu tha hương.

 

      Ngờ đâu sổ đoạn trường sẵn mở,

      Bắt người chồng giũ nợ, xuôi tay,

          Vợ già bệnh hoạn nằm đây,

Biết ai chăm sóc từ nay đêm ngày.

 

      Khi công việc ma chay vừa ổn,

      Đời bắt đầu phiền muộn đớn đau.

          Bầy con lo tị nạnh nhau,

Đứa nào cũng muốn mau mau chạy làng.

 

      Chúng viện đủ trăm ngàn lý lẽ,

      Chẳng đứa nào nhận mẹ về nuôi,

          Om sòm cãi vã lôi thôi,

Cuối cùng đem mẹ bỏ nơi nhà già.

 

      Rồi nại cớ đường xa lối rẽ,

      Chúng họa hoằn mới ghé lại thăm.

          Nhưng mà chỉ được ít năm,

Thế rồi chim cá bóng tăm khuất dần.

 

      Giáng Sinh đã xoay vần mấy bận,

      Lũ con rày ở tận nơi nao,

          Mà sao vắng bặt âm hao,

Buồn vui sống chết thế nào chẳng hay.

 

      Càng nhớ đến tháng ngày đã mất,

      Càng thấy lòng chất ngất ăn năn,

          Thương chồng xưa phải trôi lăn,

Vì mình vất vả nhọc nhằn gian lao.

 

      Thầm tự trách mình sao quá quắt,

      Hết cằn nhằn lại gắt gỏng ông.

          Giờ đây bóng lẻ phòng không,

Lâm râm tạ lỗi, xin chồng thứ tha.

                            x

                        x      x

       Văng vẳng tiếng thánh ca buồn tẻ,

       Ánh mắt khờ lặng lẽ chờ mong.

           Lạnh lùng gió rít đêm đông,

Mênh mang nỗi nhớ, mênh mông bể sầu.

 

      Người buồn tủi gục đầu nuốt lệ,

      Nghĩ đến câu "một mẹ mười con", (*)

          Mà nghe lòng héo dạ hon,

Nỗi đau tưởng lắng chợt mon men về.

 

      Thâm tâm vẫn không hề oán trách

      Đám con đà bỏ lạch quên sông,

          Tấm lòng từ mẫu bao dong,

Đại dương dẫu lớn cũng không sánh tày.

 

      Người nằm đó, mặt mày co thắt,

      Nghe tứ chi lạnh ngắt dần dần,

          Thương thay, giây phút lìa trần,

Vẫn mơ con sẽ một lần ghé thăm.    `  

                  Trần Văn Lương

                    Cali, 12/2023

 

(*) Người mình có câu: Một mẹ nuôi nổi mười con, nhưng mười con không nuôi nổi một mẹ.



Mùng một Tết Tây, xin kính chúc quý anh chị một năm 2024 Dương Lịch an khang thịnh vượng và được mọi sự như ý.

 

           Khai Bút

 Đầu Năm 2024 Dương Lịch:

 

  Tết Tây Cảm Khái

 

Đầu năm mưa lác đác,

Quạ kéo về quang quác.

Thân bệ rạc lê la,

Miệng ba hoa toác hoác.

Ngày xơ xác tả tơi,

Tối rã rời phờ phạc.

Người hát xướng lu bù,

Mình ù ù cạc cạc!

    Trần Văn Lương

      Cali, 1/1/2024




Mùng một Tết Tây, xin kính chúc quý anh chị một năm 2024 Dương Lịch an khang thịnh vượng và được mọi sự như ý.

 

           Khai Bút

 Đầu Năm 2024 Dương Lịch:

 

  Tết Tây Cảm Khái

 

Đầu năm mưa lác đác,

Quạ kéo về quang quác.

Thân bệ rạc lê la,

Miệng ba hoa toác hoác.

Ngày xơ xác tả tơi,

Tối rã rời phờ phạc.

Người hát xướng lu bù,

Mình ù ù cạc cạc!

    Trần Văn Lương

      Cali, 1/1/2024



Và cuối cùng mời quý anh chị cùng đọc một bài thơ bằng 6 thứ tiếng

Kính gửi đến quý anh chị con cóc cuối tuần.

Dạo:

        Em ra đi chẳng một lời,

Để ai ôm mãi mảnh đời dở dang.

 

I. Cóc cuối tuần Phú Lang Sa:

 

   Ne Me Demande Pas

 

Ne me demande pas, ma chère,

Si le printemps est arrivé.

Tant que l'amour nous est privé,

Ce printemps, je ne le vois guère.

 

Ne me demande pas pourquoi

Il n'y a pour moi que tristesse.

Avec toi s'en va ma jeunesse,

Et mon coeur depuis reste coi.

 

Ne me demande pas comment

Je puis réussir à survivre

Quand personne ne me délivre

De mon long et cruel châtiment.

 

Aussi ne me demande pas

Si le soleil choyant mon rêve

Chaque jour encore se lève.

Ton départ devient son trépas.

 

Enfin, jamais ne me demande

Quelle sera ma vie sans toi.

Ne te tracasse point pour moi,

Laisse-moi payer mon amende.

            Trần Văn Lương

               Cali, 3/2024


II. Phỏng dịch thơ Việt:

 

      Em Đừng Hỏi Tôi


      Em yêu hỡi, xin em đừng hỏi

      Mùa xuân giờ đã tới hay chưa.

         Tình đà rẽ lối năm xưa,

Nên Xuân đã chết lúc đưa tiễn tình.

 

      Em đừng hỏi sao mình tôi vẫn

      Ôm nỗi buồn luẩn quẩn loanh quanh.

          Em đi cuốn trọn tuổi xanh,

Tim tôi từ đó lạnh tanh giữa đời.

 

      Em đừng hỏi sao tôi sống được,

      Sau khi em cất bước đăng trình,         

          Mà không có kẻ thương tình,     

Giúp tôi thoát khỏi khổ hình em trao.

 

      Em chớ có khi nào nhắc nhở

      Đến mặt trời của thuở mộng mơ.

          Từ em bỏ bến xa bờ,

Mặt trời kia đã mịt mờ âm hao.

 

      Và sau hết, đừng bao giờ hỏi

      Tôi một mình lặn lội được không.

          Xin em chớ có bận lòng,

Để tôi nộp phạt cho xong kiếp này.    

               Trần Văn Lương

                  Cali, 3/2024

 

 

III. Phỏng dịch thơ Anh văn: (iambic pentameter)


       Do Not Ask Me 

For God's sake, please do not ask me, my dear,

If Spring right here already has arrived.

As long as we have been of love deprived,

That season I will neither see nor hear.

 

And do not ask me with some mordant hints

Why I must always try to hold back tears.

With you are gone my happy younger years,

My heart has been remaining silent since.

 

Don't ask me wryly and relentlessly

How I can manage to survive at best

When there's no one I really can request

To nullify for me this penalty.

 

So do not waste your precious time and breath

To query if the sun of our old days

Each morning still is spreading its warm rays.

Your parting has brought forth its sudden death.

 

And finally, don't ever cross the line

To ask how will my life without you be.

Don't harbour any real concern for me,

I gladly want to pay my karmic fine.

              Trần Văn Lương

                  Cali, 3/2024

 

IV. Phỏng dịch thơ Tây Ban Nha: (endecasílabos)

 

     No Me Preguntes

 

No me preguntes, por favor, querida,

Si nuestra primavera aquí ha llegado.

Desde que nuestro amor nos ha dejado,

Primavera ya no es reconocida.

 

No me preguntes la firme razón

Porqué apenada se vuelve mi vida.

Mi juventud contigo está perdida,

Luego en silencio está mi corazón.

 

No me preguntes hoy de qué manera

Puedo entonces lograr sobrevivir,

Mentras ninguno desea venir

A liberarme de mi pena entera.

 

No me preguntes además, con gusto,

Si el sol de mi dichoso sueño anciano

De nuevo siempre aparece temprano.

Tu atroz partida es su deceso adusto.

 

Al fin, te atrevas nunca a preguntar

Como es mi vida presente sin ti.

Ahora no te molestes por mí,

Déjame mi última multa pagar.

            Trần Văn Lương

              Cali, 3/2024

 

V.  Phỏng dịch thơ Latin: (dactylic hexameter) (*)

 

       Noli Me Quaerere  

Noli me quaerere, in hoc momento, ama cara,
Si rediit annorum nostrorum veterum ver.

Quamdiu privatur nobis noster vetus amor,

Hoc ver nunquam revertet mihi in mea vita.

 

Noli me quaerere, cum miseratione,

Quare semper tanto gravatus tristitia sim.

Postquam adulescentia mea tecum est disparata,

Ab illa die totaliter anima mea muta est.

 

Noli quaerere me propter curiositatem

Quomodo post hunc eventum possum superesse

Cuando illic nemo liberaverit me

A paena illa crudeli, quam sum patiens nunc.

 

Noli me quaerere propter causam eandem

Si mei vitae somniorum antiquorum sol

Oritur ut sicut ante mihi laetitiam det.

Tu me deseris et sequitur solis mei statim mors.

 

Denique, nunquam quaeras, de causa quacumque,

Qualis erit vita mea cuando eris absens.

Tu noli ergo omnino de me sollicita esse,

Volo libenter reddere hanc gravibam mei mulctam.

                    Trần Văn Lương

                      Cali, 3/2024

 

(*) Ghi chú:

    Phân nhịp (scan) ra các pieds (dactyl: D, spondee: S)

như sau (pied thứ 5 bao giờ cũng phải là một dactyl):

 

Nōlī| mē quǣ|rērĕ,⁔ĭn| hōc mō|mēnto,‿ămă| cāra,      SSDSDS  

Sī rĕdĭ|īt ān|nōrūm| nōstrō|rūm vĕtĕ|rūm ver.                     DSSSDS

Quāmdĭŭ| prīvā|tūr nō|bīs nōs|tēr vĕtŭs| āmor,                   DSSSDS

Hōc vēr| nūnquām| rēvēr|tēt mĭhĭ|⁔īn mĕă| vīta.               SSSDDS

 

Nōlī| mē quǣ|rērē| cūm mī|sērătĭ|ōne                                  SSSSDS

Quāre| sēmpēr| tāntŏ gră|vātūs| trīstĭtĭ|ā sim.                      SSDSDS

Pōstquam‿ădŭ|lēscēn|tīă mĕ|ā tē|cūmst dĭspă|rāta,           DSDSDS

Āb īl|lā dĭĕ| tōtălĭ|tēr ănĭ|mā mĕă| mūtast.                          SDDDDS

 

Nōlī| quǣrĕrĕ| mē prō|ptēr cū|rīŏsĭ|tātem                            SDSSDS

Quōmŏdŏ| pōst hūnc| ēvēn|tūm pōs|sūm sŭpĕr|ēsse           DSSSDS

Cūān|dō⁔īl|līc nē|mō lī|bērăvĕ|rīt me                                SSSSDS

Ā́ pǣ|na‿īllā| crūdē|lī, quām| sūm pătĭ|ēns nunc.              SSSSDS

 

Nōlī| mē quǣ|rērē| prōptēr| cāusăm⁔ĕ|āndem                   SSSSDS

Sī mĕĭ| vītǣ| sōmnī|ōrūm|⁔āntĭquŏ|rūm sol                      DSSSDS

Ōrĭtŭr| ūt sī|cūt ān|tē mĭhĭ| lǣtĭtĭ|ām det.                            DSSDDS

Tū mē| dēsĕrĭs| ēt sĕquĭ|tūr sō|līs mĕĭ| stātim mors.           SDDSDS

 

Dēnī|quē, nūn|quām quǣrās, dē cāusă quăcūmque            SSSSDS

Quālĭs ĕ|rīt vī|tā mĕă| cūān|dō⁔ĕrĭs| ābsens.                     DSDSDS

Tū nō|li‿ērgo‿ōm|nīnō| dē mē| sōllĭcĭ|ta‿ēsse,             SSSSDS

Vōlŏ lĭ|bēntēr| rēddē|re‿hānc grăvĭ|bām mĕĭ| mūlctam.   DSSDDS

 

VI.  Phỏng dịch thơ Hán:

 
     

    .
    ,
    .
 
    
    .
    , 
    .
 
    
    
    
    .
 
    
    .
    
    . 
 
    
    .
    ,
    .

           

 

 

 

Âm Hán Việt:

 

   Mạc Vấn Ngã

 

Mạc vấn ngã nguyên nhân,

Thử phương một kiến Xuân.

Ái ân kim bất tại,

Xuân sái lệ từ nhân.

 

Mạc truy vấn chẩm ma

Ngã lạc thiểu sầu đa.

Tùng nễ tha phương khứ,

Ngã tâm tự á oa.

 

Hựu mạc vấn như hà

Ngã năng thụ chiết ma,

Vô tha nhân trú dạ

Trợ ngã thoát trừng nha.

 

Mạc vấn thái dương huy

Thiên thiên tổng tái quy.

Nhật chi quang dĩ tức,

Tùy nễ cước thiên di.

 

Mạc vấn, nễ đăng trình,

Như hà thị ngã sinh.

Thỉnh bình tâm tụ thủ,

Ngã khẳng thụ nan hình.

       Trần Văn Lương

          Cali, 3/2024

 

Nghĩa:

 

    Đừng Hỏi Tôi

Đừng hỏi tôi lý do (tại sao)

Nơi này không thấy mùa Xuân.

Tình nay (đã) không  còn nữa,

(Thì) mùa Xuân rơi lệ bỏ người.

 

Đừng cố hỏi tại sao

Tôi vui ít buồn  nhiều.

Từ khi em (bỏ) đi nơi khác,

Tim tôi (thành) như con ếch câm.

 

Cũng đừng hỏi làm sao

Tôi chịu đựng (được) khổ sở

(Mà) không có ai ngày đêm

Giúp tôi thoát khỏi nhà tù.

 

Đừng hỏi (rằng) ánh mặt trời

(Vẫn) ngày ngày trở lại.

Ánh sáng mặt trời đã tắt

Theo bước em đi nơi khác.

 

Đừng hỏi (sau khi) em lên đường

Đời tôi (sẽ) như thế nào.

Hãy yên lòng xủ tay,

Tôi chấp nhận chịu cái hình phạt khó khăn (này).


tt tt