samedi 23 janvier 2016

Đọc thơ Luân Hoán phóng dịch của Thanh Thanh, Ngơ Ngác Cõi Người/ BEWILDERED ABROAD

Kính gửi quý anh chị bài thơ của tác giả Luân Hoán, đọc thêm bài viết của Nguyễn Vy Khanh và bài dịch của Thanh Thanh.

Ngoài ra, tôi tìm được trên net tranh của Kao Văn Khánh cùng chủ đề nên xin giới thiệu luôn với quý anh chị.

 Cám ơn hoạ sĩ Kao Văn Khánh.

 Cám ơn anh Thanh Thanh đã gửi bài đến groupe Cát Bụi.

Caroline Thanh Hương
Afficher l'image d'origine

 

NGƠ NGÁC CÕI NGƯỜI    

         
đời lưu lạc mỗi ngày là một tuổi  
dài vô cùng nhưng không đủ xót xa
ta hổ thẹn muốn giấu người tất cả   
giấu được người, nhưng đâu giấu được ta

thư viết cho người mấy lần không gởi       
ta đốt để nhìn làn khói trắng bay
từng chữ của ta hóa thân trong lửa
ta cũng cháy vèo sao vẫn chưa hay
                          * 
ta biết người chờ từng giây từng phút
bó gối quê nhà nhẫn nhục chờ trông
ta thẹn làm người tự do viễn xứ
ngó lại đời mình trùng điệp số không

đã hẹn với người sao ta chợt khóc
sống phải làm người xứng đáng đương nhiên
tội nghiệp thân ta trót già trước tuổi
ngơ ngác cõi người hiu hắt đuốc thiêng
xin gửi về người niềm tin chưa chết
cùng giòng thơ và chút nhớ thương
thơ hơi mặn vì hình như có máu
có lá cờ vàng đắp mặt quê hương.   
                                                                                                                           
                                    
LUÂN HOÁN   
 

BEWILDERED ABROAD

         
To an exile, each day seems one more year to drain;
Quite long, but not enough comparing with my pain.
And my shame, I want to hide it from everybody;
I can hide it from others, but from myself: in vain.

The letters many times were written but not sent;
I burnt them to stare at where the white smoke bent.
Each word of mine became in the fire incarnate:
I was burnt too, but not aware of what that meant.
                                   *
I am aware that you've been waiting each second,
At home, inactive, patiently expecting some beckon.
Feeling ashamed of being a free man abroad,
I look at my life and find a repeated zero to reckon.

I made you the promise, but why I suddenly cry?
To be a worthy being is to live up to one's good ply.
How pitiful is my condition, aged ahead of age,
Bewildered to watch the sacred torchlight stultify.
Let me convey to you my undying faith as our base,
Together with nostalgia and my rhymes to embrace:
My verse tastes salted for there appears to be blood
And the yellow flag to cover our motherland's face.
                                                                                                                           
                        Translation by
THANH-THANH
 Afficher l'image d'origine

Biến-Loạn Miền Trung  


Luân Hoán nơi Cõi người ngơ ngác 
redbar.gif (78 bytes)
Nguyễn Vy-Khanh
Ðầu năm 1985, Luân Hoán đến bờ tự do làm thân tị nạn, đã đưa theo Hơi Thở Việt Nam được xuất bản năm 1986, như một thông-điệp báo cho đồng loại biết phần nào tin tức quê nhà, nào tù đày, hãi sợ, bi cảnh, cuộc đời xáo trộn, đổi thay tận cùng của bất ngờ quay cuồng của con Tạo. Nhà thơ tiếp tục làm thơ nơi xứ người và hình như xuất hiện chính thức trên tạp-chí Văn thời Mai Thảo (số 35, 5-1985). Những tuyển tập xuất-bản sau đó, ngoại trừ đôi tập chủ trì ca ngợi tình yêu, phần lớn nói lên tiếng lòng của con người sống lưu xứ, của con người bị bứng ra khỏi đất sống, không lựa chọn. Sống lưu đày là sống trong nỗi nhớ triền miên. Nơi vùng đất mới, hình như chỉ có thời gian và không gian của ký ức, của hồi tưởng với những địa danh, nhân danh, thời danh, v.v. - những mốc điểm của một khởi hành hoặc của một trang lịch-sử !

Nỗi nhớ quê nhà

Ngay trong tuyển tập thơ đầu sáng tác ở hải ngoại, Luân Hoán đã nói nhiều đến những nỗi nhớ quê nhà. Nỗi nhớ chiếm một phần (tr. 119-150) của tập Ngơ Ngác Cõi Người (San Jose CA: Nhân Văn) xuất-bản năm 1989. Ở đây, nỗi nhớ có tên những khuôn mặt bạn bè thân yêu cùng một lúc với nỗi nhớ nhà, nhớ nước: " người ơi người ơi người ơi / ta còn hay mất bên trời lưu vong " (Cúi Mặt Chào Ðà Nẵng, tr. 9,11). Hay: "hỡi ơi bạn bè cũ / lận đận chạy về đâu / bỏ mình ta ngơ ngác / vơ vẩn nhớ đau đầu"; " nhớ gì đâu, nhớ nhớ / thương gì, mà thương thương / trái tim ta đã rớt / ở bên trời quê hương " (Gọi Tên Bạn Bè, tr 58-9).

Ðến Ðưa Nhau Về Ðến Ðâu (Los Angeles CA: Sông Thu, 1989), sống ở Montréal, xứ người, nhà thơ từ lựa chọn trở thành nạn-nhân của mơ. Lưu đày đồng nghĩa với mộng mị cho nhẹ kiếp người! Kẻ lưu-vong dễ chuốc căn bệnh ngỡ ngờ, mới trông ngoại hình đã đoán kẻ ấy xuất thân nơi mô:

"Có phải em là Công Tằng Tôn Nữ ...
vừa liếc qua ta đã nhận ra ngay
đôi mắt Huế hữu duyên vì biết háy
nét đài trang trong dáng nhíu lông mày
(...) môi muốn hỏi mắt muốn chào nhưng ngại
em nghiêm trang kiểu cách một thời xưa
quanh quẩn ngó rồi dòm ta đánh giá
thằng cha này sao nhớn nhác khó ưa? ..."
(Gặp Một Người Nghi Rất Huế, tr. 68)

Nhưng không phải ai cũng gặp may như Luân Hoán!

Rồi Cảm Ơn Ðất Ðá Trổ Thơ, Lòng Ta Hạt Bụi Vu Vơ Bám Hoài (Houston TX: Kinh Ðô, 1991) gồm 53 bài nỗi nhớ đi theo những địa danh đất nước, những "cõi ta" nhà thơ đã sống hoặc đã đi qua. Nơi đây, nhà thơ buông lời cảm ơn bằng lục bát mà tất cả các tựa trong tập đặc biệt cũng là hai câu sáu tám.

Ðà Nẵng, nơi chôn nhau cắt rún của thi sĩ, với những địa danh Hòa Khánh, Chợ Mới, Cổ Viện, chùa Bà Quảng, giếng Bộng, ... trong bài mở đầu Quê-Hương Nhắm Mắt Như Sờ Ðược...:

" (...) Hỡi những cành me cành phượng vĩ
hỡi con kiến lửa lạc bâng quơ
hỡi con chim sẻ trên vồng ngói
tôi tưởng tôi về, đâu biết mơ !
trông ra cửa kính trời mưa tuyết
ngó lại đời mình ngồi bó ta
quê hương nhắm mắt như sờ được
sao vẫn buồn xo đến thế này ..."
(tr 9&14)

Rồi Hội An với Chùa Cầu, Chùa Ông, Cẩm Sa... mà có lần đã ở Montreal xứ người Bất Ngờ Qua Cầu Champlain / Nhớ Cấu Bà Rắn Lềnh Bềnh Những Thơ (tr. 58-59) nhớ chuyện ngày xưa người bạn đời "không ưng mà mê tít" người thanh niên học trò - tức nhà thơ. Rồi Khi Không Nhớ Về Phong Lệ / Cúi Ðầu Ðụng Tiếng Thở Ra:

"(...) Phong Lệ bây chừ buồn quá thôi
ngoại ngồi rờ rẫm lá trầu hôi
dưới chân, con mực thiu thiu ngủ
chừng cả hai đang quên lững đời
( ...) ví dầu kỷ niệm thành hơi thở
cũng thổi không tan nỗi ngậm ngùi"
(tr. 45-46)

Rồi Huế của nhà thơ với những Cầu Bạch Hổ, cầu Tràng Tiền, Chợ Ðông Ba, hẻm Cầu Kho, hồ Tịnh Tâm, kiosque Lạc Sơn, quán cơm Âm Phủ...những nơi chốn đã hằn dấu biết bao nhiêu kỷ niệm của một đời người. Ở đó, đậm nét tình yêu. Ở đó, đời sống có vẻ lãng mạn dễ thương, thơ của Huế cũng có vẻ tinh nghịch của nụ cười hóm hỉnh:

"nhíu mày dòm trán đến chân
em ngoay ngoảy háy phủi quần bỏ đi
coi tề, tôi có lỗi chi
lỗi tại hột nút xuân thì sút ra "
"dụi hoài mắt nhận không ra
xanh cây xanh nước xanh tà áo bay
ánh lên trong cõi xanh này
lòng con mắt Huế sắp đầy đọa tôi "
(Cho Ta Giữ Một Chút Gì Thưa Huế, tr. 61).

Cả kỷ niệm / kinh nghiệm ngủ đò Huế, một đêm mưa trên sông:

" thút tha thút thít mưa hoài
lắc leo đèn úa sông dài bóng tôi
buông màn nghe cái tôi trôi
cùng vuông chiếu ố mồ hôi em nồng
em từ Ðại Lược Kim Long
thả đời theo những nhánh sông qua ngày?... "
(Ðò Em Vẫn Chở Nguyệt Hoa, tr. 73).

Nhớ về nơi chốn mà nhà thơ đã gửi lại một phần xương thịt của mình cho tổ quốc. "Mặt Trận Quảng Ngãi Ngày Xưa" rồi những Mộ Ðức, Nghĩa Hành, Thu Xà, ..., những chiến trường lửa khói, những đứt ruột quê hương những năm tháng miệt mài hành quân:

"... bây giờ Thi Phổ ơi Thi Phổ
ta đã ngã rồi, ngã quá lâu
trước khi xuất cảnh tìm đất sống
nhìn cõi hận xưa thương lẫn đau
bây giờ Thi Phổ ơi Thi Phổ
mười bốn năm dài biệt cách nhau
máu ta ngấm đất, tan trong đất
nên cảm được rằng em cũng đau"
(Chợt Nhớ Về Nơi Ngấm Máu Ta, tr. 100).

Nỗi nhớ còn có tên "Sài Gòn thủ thỉ gọi ta, nhiều khi ta nhớ xót xa Sài gòn"(tr. 107-109), bởi "những góc cạnh thủ đô vẫn còn trong tâm mạch" qua 19 đoạn thơ như 19 mốc nhớ (tr 110-114). Nhớ những lần đi hoang "khi ta vào tới Lăng Cha Cả / trời tối bụi mưa bén góc chân / mở báo che đầu tìm thuốc lá / nốc cốc cà phê nghẹn mấy lần ...", cả những lúc hưởng ... đời ở xóm Hòa Hưng, không trọn vẹn khi nghe tiếng pháo ròn rã:

"gặp em ở xóm Hòa Hưng
đang "đi" ta bỗng lừng khừng muốn thôi
sợ em lây cái bụi đời ?
đang lên cao độ tuyệt vời bỗng ngưng
thì ra thơ viết dở chừng
trở về phá trận tưng bừng pháo xuân"
(tr. 103).

Rồi tương tư theo bước chân tạt qua Lái Thiêu, Chợ Búng, tạt về Bến Tre" Rạch Miễu, Bình Ðại, Giòng Trôm...những Bậu và Qua: "bậu qua phà Rạch Miễu / qua lẽo đẽo theo sau / (...) bậu ơi trời dẫu rộng / nhưng đâu bằng nhớ nhung / sông rạch như gân máu / man man nỗi mặn nồng ...", từ nhung nhớ đến thốt lời: "ta may mắn được làm thi sĩ / nhờ đã phải lòng gái Bến Tre" (tr. 115, 121).

Thời gian đưa đến Cỏ Hoa Gối Ðầu (Miami FL: Sóng Văn, 1977), là tập thơ thứ 17. Cỏ hoa vì "Em là Hoa / thơ là hoa / và tôi, có thể, cũng là, biết đâu ... / một chùm, sống bám lẫn nhau / ngày xưa, hiện tại, mai sau / vẫn là / thơ là hoa / em là hoa / và tôi, có thể, đều là / phù du / phù du lộng lẫy phù du" (Hoa, tr. 9). Ðời lưu vong đó ghi dấu an nhiên của một người thơ thong dong với đời, như không tham vọng, sống thực hôm nay. Thơ tình của một người tự cho no đủ về tình nhưng vẫn vươn vói mê tình, mê đời. Quê hương và tình bạn chiếm phần còn lại. Và 10 năm ở Canada: "mười năm lớ ngớ không ngon giấc / co duỗi không qua khỏi cái giường / hít thở cầm hơi vài cơn mộng / Buồn ngấm, chừng như sắp thối xương ... " (Bài Kỷ Niệm Tròn 10 Năm Ở Canada, tr. 110).
Nỗi nhớ vẫn còn đó qua Châu Văn Tùng, người bạn thơ đã gắn liền với địa danh, khi nhắc đến Ðà nẵng là nhắc đến người bạn:

"tao sẽ chưa về thăm mày được
bởi vì, giản dị, thiếu tiền thôi
( ...) trái tim còn đập, còn thương nhớ
đợi mươi năm nữa có là bao
năm nay tao mới năm mươi tư tuổi
truyền thống ông cha thọ rất cao
gắng sống chờ tao lên chín chục
hồi hương, cụng chén, tán tào lao"
(Phúc thư Châu Văn Tùng Ðà nẵng, tr. 104& 106)

Nỗi niềm nhớ thương quê hương chất ngất đó khiến tiếng thơ của Luân Hoán vừa xa xôi vừa gần hủi, giản dị tự nhiên đến thân tình. Ðâu phải anh dụng ý làm thơ anh kể chuyện mà. Thơ Luân-Hoán chứa nhiều hình ảnh, nhân dáng, ngoài những người bạn thơ, đồng ngũ, bạn học, hai hình ảnh khác khá trội bật trong thơ ông là người mẹ và người chị. Về người chị, Luân-Hoán có hai bài thơ thật cảm động. Bài Xin Gởi Cho Em Vài Hạt Mưa:

"Mưa suốt ngày đêm suốt mùa đông
chị đang đúc bánh xèo phải không?
Chảo đen bột trắng bàn tay nhỏ
đổ hết lòng trên ngọn lửa hồng
(...) chị buồn còn hơn những hạt mưa
sầu hơn cổ nhạc tự ngàn xưa
nhớ thương em trốn vào thi khúc
sao chút lòng em vẫn cứ thừa... "
(CODDTT tr 39,40)

Bài Khiêng Nước gợi cảm hơn khi đi sâu vào vùng ký vãng:

"một cái thùng con con / một đọan tre nho nhỏ
chị thương chịu nặng hơn / lâu lâu hơi cau có
em đi trước run run / đồn nghiêng vì vai thấp
dốc đá vấp luôn luôn / thùng va vào sau gót
(...) ở đây trời đẹp lắm / sao chẳng hề thấy vui
chẳng phải vì em khổ / chợt nhớ nhà đó thôi
ước chi được nhỏ lại / như những ngày tản cư
cùng chị đi khiêng nước / bắt nòng nọc vọc chơi "
(NNCN tr 126-7).


Cuộc đời mới

Rời quê hương đã là một mất mát và quyết định ra đi đã là một khó khăn dứt khoát, cay đắng ngay từ bước đầu ly hương:

" từng người một xăn quần dở áo
thịt da vàng lở lói gì không
máu rất đỏ nhưng hồn bầm nhẫn nhục
thẹn đong đầy từng bước lưu vong
bữa cơm trưa quê người thứ nhất
có thịt gà trứng vịt khoai tây
cơm quá khô thầm chan nước mắt
nuốt nửa chừng, mửa lạnh bàn tay"
(4 Giờ Tại Phi Trường Thái Lan-NNCN, tr. 31-2)

Bắt đầu cuộc đời mới, như cõng trên lưng nỗi nhọc nhằn:

" ta cõng trên lưng cái thùng thật lớn
còn nặng hơn cái tấm thân ta
cố nghiến răng giữ cho khỏi ngã
mỗi bước chân chếnh choáng như là..."
(Nghề Nghiệp Mới, NNCN, tr. 74).

Tâm trạng lưu xứ thường u uất, yếm thế đó hiển nhiên nhất trong tập Ngơ Ngác Cõi Người:

..."Ta thẹn làm người tự do viễn xứ
ngó lại đời mình trùng điệp số không "
" cánh chim nào chợt bay qua
hồn chao động giọt mưa xa xót buồn "
" ta khuyên ta buổi sáng
ta dỗ ta buổi chiều
chớp mắt gặp ác mộng
đời cứ thế buồn thiu..."
(NNCN tr 104)

Trong tình huống không lựa chọn đó, nhà thơ hẹn sẽ về:
"... cúi xin cây cỏ đừng thổn thức
tôi sẽ trở về dù hóa ma" (NNCN tr 23).
Thê thảm nào hơn, dù có khi nhà thơ lẩn thẩn tự hỏi
..." ví như ta được thành ta nữa
thơ thẩn một đời lại thẩn thơ
bài thơ mai mốt ra sao nhỉ
có đỡ xót xa hơn bây giờ ?"

Một nơi rất xa quê, mà khoảng cách-ly chính trị, xã hội có thời rất là xa, nơi đó, nhà thơ nghĩ gì? sống ra sao? Hãy xem Ta Phỏng Vấn Ta, một bài thơ đặc biệt về hình thức thơ (- tiền thân của Tân hình thức, Rap !) lẫn nội dung tự phỏng vấn hỏi lấy mình:

" (hỏi: ) nghe đồn ngươi rất lè phè
nằm ngồi đi đứng cặp kè với thơ
lâu ngày lâm bệnh ngẩn ngơ
làm thơ đổi cái dật dờ đó chăng ?
(trả lời: ) cái ta có thể thưa rằng:/ ham chơi lười biếng, nói năng vụng về/ tĩnh khô mà gỉa như mê/ phơi thân che bóng đi về phất phơ/làm thơ là để phỉnh phờ/cái phần đã chết mà ngờ sống luôn/ làm thơ nhiều lúc như tuồng/ đi quanh một chặp giải buồn vậy thôi/ tình theo chữ thở trăm lời/ hồn theo tình mở một trời nguyệt hoa / làm thơ là để lân la/ chui từ cái nhớ chui qua cái buồn/làm thơ là để bình thường/ cái ta cứ thích đứng đường ngó em/làm thơ là để lênh đênh/ trên giòng rảnh rỗi chợt quên mất mình/ làm thơ là để làm thinh/im nghe ta tự tỏ tình với ta/ làm thơ là để dần dà/ trở thành ông thánh hóa ra ông khùng/làm thơ là sống ung dung/ để cho óc khỏi lùng bùng nôỉ điên/làm thơ là có đủ quyền/ ba hoa tưởng tượng đã ghiền mới thôi/với ta, thơ như bầu hơi/của hai lá phổi lôi thôi thở hoài/ ngày nào thơ chẳng lai rai/kể như ngày đó coi mòi muốn đau/ ..."

Nơi đất người, chốn bình yên, nhà thơ thấm thía cuộc sống Ngày Qua Ngày, tự thán, tự vọng:

"1. phải chi có con kiến / hay một hai con ruồi
ngồi nhìn chơi đỡ nhớ / đỡ lẩn thẩn ngược xuôi
ra đường mặt ngơ ngác / về nhà ngồi buồn xo
đắp mền nằm nghe nhạc / trong bụng đầy âu lo
thơ người đọc không nổi / thơ ta, ồ dở òm
hình ảnh thô, từ mộc / quờ quạng mãi phát nhàm
cúi đầu hoài đất mỏi / ngẩng mặt mây ủ ê
không người mà nghe gọi / ừ, thì mai ta về
2. ước chi có con muỗi / cho hút bớt máu buồn
ước chi ai gõ cửa / ta tặng đời ta luôn
bạn ,thằng vừa được job / tối mặt mũi kiếm tiền
đôi ba thằng lay off / lang thang làm thánh hiền
thùng thư ngày ngày rỗng / bóng mẹ mờ mịt mờ
nửa đêm mơ giài phóng / thở dài đến bao giờ ?
ngày qua ngày nhai lại / cơm thịt nuốt không vô
ngọn cây sầu xanh mãi / chùn bước đời ngựa ô"
(NNCN, tr. 42-43)

Luân-Hoán cho người đọc thơ những tường trình về cuộc sống thường nhật của ông, nào đi kiếm việc, đi làm, đi ngao du phố phường bằng xe buýt, "ngồi lê" các quán phở, tiệm ăn Việt Nam, Tây, rồi nào giặt đồ, dọn nhà, đám cưới con gái, v.v.
"Ngồi lê" ở quán phở Hòa, Mai, Huế, .. nghe tiếng hát Hoàng Oanh mà nhớ Sài-Gòn "vài trái ớt ít giọt chanh / vì cay hay nhớ long lanh lệ trào?" (NNCN tr 102)
Ði kiếm việc, mệt ngồi nghĩ bên đường: "lên đồ đi kiếm job / từ mờ sáng đến chiều / job nào cũng hứa gọi / mỏi chân ngồi đăm chiêu / (...) giữa giòng người qua lại / một mình ta nghỉ chân / lật bản đồ tìm tiếp / những đoạn đường phong trần ..." (Mỏi Chân Ngồi Bên Ðường Saint-Denis, NNCN tr. 71-2). Rồi không xa con lộ nghỉ, nhà thơ ta cũng tìm ra job: " ... sáng đi như đuổi ma, / chiều về như ma đuổi / người hai chân bôn ba / ta cẳng rưỡi giong ruỗi / cái bị nặng bên vai:/ bánh mì kẹp thịt nguội / trái pomme thay củ khoai / lon Seven-Up lạnh / lên bus, métro / đứng ngồi ta nhắm mắt / chẳng muốn thấy muốn nghe / còn gì sợ mất mặt?..." (Ði Làm Cu Li ở Ðường Iberville, NNCN, tr. 73).
Tìm được job, nhưng đến ngày Mùng Một Tết Ta, ở xứ người rơi vào bất cứ ngày nào, nhà thơ ta cũng phải ở nhà ăn Tết, job tạm bỏ một bên: "cho dù chúng có đuổi ông / hôm nay ông cũng ngồi không ở nhà / cho dù Tết chẳng ghé qua / vợ chồng con tụm đổi quà chúc nhau / mở chai rượu lạnh đã lâu / phá giới ông uống cho đầu óc quay..." (NNCN, tr. 82).

Cuộc đời mới với vai-trò xã hội, thứ bậc đổi thay như vừa nói qua cũng như đã thấy trong bài Ta Phỏng Vấn Ta ở trên. Còn job ngày ngày đưa con đi học: "Xe bus vàng sẽ đưa con đến lớp / sáng hôm nay trời ẩm ướt hơi mưa / cây còn lá nhưng đã buồn đôi chút / cỏ bên đường cũng chớm úa lưa thưa ..." (Theo Chân Lê Ngọc Hoàng Bách, NNCN tr. 62). Thiên nhiên, cảnh trí cũng đượm tâm tình con người đã "chớm úa lưa thưa". Rồi Giặt Áo Quần Cho Vợ, Luân Hoán đã viết những câu thơ nhân-sinh thật đẹp:

"trộn tình ta vào trong bột giặt
vò nhẹ nhàng bởi lo sợ em đau
vải còn đượn mùi thịt da em thơm ngát
tay bùi ngùi như đang vuốt ve nhau
trông thau nước đục lờ những cáu bẩn
ta bỗng thương lớp bụi nổi màng màng
chúng là những nhọc nhằn em gánh chịu
nuôi chồng con dài năm tháng gian nan
vòi nước nhỏ chảy qua từng thớ vải
như chảy vào trong cùng tận lòng ta..."
(NNCN, trang 67).

Con người lưu đày với tật bệnh đời sống lại càng khó hơn và càng phải nhiều cố gắng. Nhà thơ nói đến Hạnh Phúc Ta của tình cảnh một chân: "ta đã từng nói trước / qua đây là bó tay / một chân làm sao chạy / theo cái đời lăn quay / ngồi không, ừ, sướng lắm / mỉa mai hoài làm chi / sống liều mạng vẫn sống / ta chừ có ra gì / và cơm cùng nước mắt / cúi mặt sợ em buồn / cổ ta không ai bóp / ăn bánh mì mắc xương ..." (NNCN tr. 51). Bi hoài hơn Tú Xương sông Vị ngày xưa !

Có lúc nhà thơ cũng liều xin vợ hiền tí tiền uống bia nuôi cái ngông buồn xa xứ, dĩ nhiên nào có được yên: "xin vợ dăm cents lẻ / dồn mua bia uống chơi / một mình ta một chiếu / xem ra vẫn thảnh thơi / bia chua hay bia đắng / nốc cạn cái cuộc đời / tại sao em đập chén / trong hồn ta em ơi / rảnh rỗi sao không viết / ngơ ngác cõi quê người / tiến lên thì bất lực / ngó lại hết đường lui / cái cần ta không đạt / cái đạt người không cần / lỡ tay đời thầy thợ / ước gì mọc lại chân / thì thôi, thôi cứ uống / không say thì gỉa say / hết bia còn nước lã / chơi cho đời biết tay"
(Một Chiếu, NNCN tr. 54).

Cuộc sống không bao giờ nguôi ngoai những trăn trở, âu lo: "... nợ nước nợ nhà chưa trả / sợ chi cái thứ nợ say / năm bảy chén sầu cạn sạch / mặt mày như thịt heo quay / rung đùi đọc thơ Nguyễn Bính..." (Bắt Chước Viết Hành Ca Lưu Vong, NNCN, tr. 98). Thơ tự nhiên, làm như "cuộc sống mình càng giàu khó khăn thì càng phải hành hạ chử nghĩa nhiều hơn" như nhà thơ có lần trả lời tạp chí Văn Học
(115, 11-1995, tr. 74).

Cuộc sống lúc nào cũng dày đặc nỗi lo sợ đánh mất con người thực của mình. Mới ba năm lưu xứ mà đã dài như lâu lắm: "ba năm lạng quạng xứ người / soi gương già khọm như mười mấy năm / thì ra sữa thịt lùi chân / trước anh địch thủ ngàn cân buồn phiền" (Thơ Mùa Xuân Con Rồng, NNCN, 106), vì từng ngày đã là những đoạn đường dài: "đêm dài dài dằng dặt / thức đái thức đái hoài / nước gì trong đôi mắt / thỉnh thoảng giọt giọt dài"
(Gọi Tên Bạn Bè, NNCN, tr. 58).

Sau ba năm ở Montréal, nhà thơ Nghêu Ngao Giữa Lòng Montréal chiếm một phần lớn số trang (tr. 34-118) của Ngơ Ngác Cõi Người, có thể xem là một kỷ lục. Luân Hoán đã thở vào đất đai, cây lá nơi ông đã chịu ơn. Hơi thở Việt Nam tìm được nơi "được cười được nói được than thở":

"đứng hát giữa lòng Montreal
trời xanh trời xanh trời quá xanh
có con chim nhỏ bay trong nắng
chở cả lòng tôi bay quẩn quanh
bỗng tưởng chừng như máu tim ta
đỏ hơn thời tù tội quê nhà
phải chăng chớm nở mầm vong bản
nhục nước phai vì bả vinh hoa
và tưởng chừng như Montreal
có ta cây cỏ càng thêm xanh
ba năm hồn rót vào thớ đất
góp cả buồn vui cho lá cành
và tưởng chừng như mây khói bay
có hơi ta tiếp nối vơi đầy
được cười được nói được than thở
không thể không yêu xứ sở này..."
(Nghêu Ngao Giữa Lòng Montréal, tr. 115-117)

Thấm thía cuộc đời xa xứ, với những bằng chứng vật lý của thời gian:

"Chiều thứ sáu về sớm hơn thường lệ
em ôm hôn như thuở mới yêu nhau
thua cháy túi riêng cuộc tình đúng lại
giữ cho lòng gắng đứng tiếp hôm sau
trong tha thiết vang lời em kunh ngạc:
ồ cái gì như tóc bạc, đầu anh
(...) không đâu em, chúng chính là đá trắng
đang xây dần phần mộ của riêng ta
hoa ngập nước lâu ngày đành phải rã
hồn ngấm sầu lâu quá phải phôi pha
luật trời đất có sinh có tử
sá chi ta mới chớm trổ sắc gìa
đời sống bám vinh danh gì nuối tiếc
kéo dài chi kiếp bỏ nước không nhà
(...) tóc chớm bạc nhưng hồn sầu đã bạc
xin nhẹ tay, ta nghe nhói cơn đau"
(Bạc Tóc, tr. 68-9)

Ðiệu buồn đến gần đây, 2003, vẫn còn đó, đậm hơn, sâu hơn, như trong bài Luận Về Nỗi Buồn ông gọi là "thơ viết chơi" đăng trên trang Luân-Hoán Internet:

"em muốn được xem nỗi buồn ta ?
nỗi buồn ta có từ hôm qua
cọng thêm chừng độ mươi năm trước
tưởng chẳng bao nhiêu hóa ra là...
(...) buồn là buồn là buồn, buồn, buồn
buồn tình nhập lại với buồn suông
hỡi ơi hạnh phúc ta giàu vậy
giàu vậy dại chi không dám buồn
em cầm đã được một làn hương ?"

Người đọc vẫn yêu thích những bài thơ tình của Luân-Hoán, là lãnh địa của chàng, nơi chàng trai xứ Quảng quen lời ăn tiếng nói, quen hành cử phóng túng tình tang! Nơi xứ người, ông vẫn đa tình, da diết, vẫn nhiều vần thơ cho tình, nhưng người đọc thơ tình ông thì lại như hụt hẫng, vì hình như thời gian và không gian của tình đã qua, đã không trở lại, nếu có chăng cũng không trọn vẹn, tự nhiên! Nhà thơ tình xứ Quảng, của Ðà Nẵng, sau 1985, Luân Hoán đã dệt những vần thơ lưu xứ đậm tình người, những điệu rất thơ, rất Việt Nam ở chỗ bi thương, những "lưu bút" đáng kể của một trang sử Việt ! So với trước 1975, đây là một thế giới thơ đứt đoạn. Nhà thơ thuộc thế hệ tị nạn tiếp sau thời những "người di tản buồn", rồi vốn đã lâu ăn ở trong ngôn ngữ dân tộc nhuần nhuyễn, nên chỗ đứng trên thi-đàn đã là điều hiển nhiên. Nếu "phân tích" hết các tác phẩm thơ thời sau của ông, giữa những chằng chịt tâm thức, tình cảm, người đọc sẽ tìm ra một xuyên suốt có tính sáng tạo, ở ngôn ngữ, tiết điệu, hình ảnh, ở cả lối kể lể có thể hiểu là "lắm lời" - oan khiên của nỗi nhớ và của đời xa! Thật vậy, ở văn chương gọi là lưu vong đó, cái thực hữu, cái thực sống, phải chăng chỉ là thế giới của ký-ức, của quá khứ ? Luồng điện ý thức đó đưa con người trở về quá vãng, đưa đến những tâm tình với hồn ma bóng quế, những con đường, góc phố đã đổi tên, đổi chủ. Tính thơ xuất hiện ở giữa những dòng chữ đó, xuất hiện từ ký ức và sáng tạo pha trộn. Mà thế giới cũng trở nên có ý nghĩa, nhờ chức năng của thi ca và sáng tạo! Nhà thơ có thành công hay không là ở tài truyền thông cái sáng tạo mới từ chất liệu hồn cũ này! Sống đời lưu xứ, đọc thơ Luân-Hoán như tìm tâm sự chính mình, vẫn là một cái thú tinh thần còn lại! Thành thử, cùng Cao Ðông Khánh và Du Tử Lê, Luân Hoán đã thành công biến Cõi Người Ngơ Ngác thành thơ và đưa tính thơ vào kiếp lưu vong ngày càng rời xa một vùng địa-lý và một trời quá khứ!

Nguyễn Vy-Khanh
11-2003
 
Lặng lẽ cõi người trong tranh Kao Văn Khánh
Dáng người thu lu, con mèo hoang ngơ ngác trong các bức tranh gam màu trầm của Kao Văn Khánh dễ chạm đến những góc khuất của tâm hồn. Ở tuổi 62, lần đầu tiên họa sĩ này có điều kiện thực hiện được triển lãm cá nhân.
23 bức tranh sơn dầu và bột màu tại triển lãm mang chủ đề Sống của Kao Văn Khánh được vẽ theo phong cách Biểu hiện – Hồn nhiên (Expressionist – Naive), giản dị và trong sáng như nét vẽ trẻ thơ, nhưng lại mang sức nặng một khối tâm sự của người từng trải qua sóng gió trong đời. Sống trong tranh của ông dường như là một cảnh sống khác, ở đó, những rườm rà, ồn ào, phức tạp và xô bồ đều được giản lược, chỉ còn lại tĩnh lặng và suy nghĩ.
Thấp thoáng là dáng người sống trên bãi rác ngồi nghỉ ngơi sau giờ làm việc mệt mỏi. Một người đàn bà cô độc bên hai con mèo gầy. Cô gái trẻ khoan thai chắp tay dõi theo cánh bướm nhỏ tung tăng… Những bức tranh của Kao Văn Khánh tỏa ra sự nhẫn nại và kiên trì thầm lặng trong dáng vẻ của các nhân vật.
Chỉ vài con người trong tranh Kao Văn Khánh có đặc trưng tương đối rõ ràng, còn lại, hầu hết là những khuôn mặt được miêu tả gần với phong cách trừu tượng. Trái với những khuôn mặt người nhạt nhòa, dáng vẻ như muốn thu gọn lại càng nhỏ càng tốt là những đôi mắt được đặc tả, mở to như muốn nhìn rõ hơn, sâu hơn vào cõi nhân gian.
Tốt nghiệp Đại học Mỹ thuật TP HCM vào năm 1982, Kao Văn Khánh bước vào thế giới hội họa một cách tự nhiên và lặng lẽ. Hơn 20 năm qua, ông sáng tác hơn 300 bức sơn dầu, bột màu, theo một lối vẽ duy nhất. Là hội viên của Hội mỹ thuật Việt Nam, thỉnh thoảng khi tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, nơi ông đang sống và làm việc, có tổ chức triển lãm nhóm, ông đều mang tranh góp mặt. Những lần triển lãm tình cờ đã mang đến cho ông hai giải tặng thưởng của Hội mỹ thuật Việt Nam và kể cả việc bán được tranh.
Nhìn căn nhà đầy ắp tranh vẽ của ông tại thành phố Vũng Tàu, nhiều bạn bè khuyên Kao Văn Khánh nên thực hiện một triển lãm riêng để giới thiệu tranh rộng rãi đến với công chúng. Nhưng lần lữa mãi vẫn chưa làm được vì ông vẫn xem công việc chính của mình là mở lớp dạy vẽ tại nhà cho những học sinh chuẩn bị thi đại học kiến trúc và mỹ thuật. Còn sáng tác, với ông chỉ là cách thiền định tâm hồn.
Một lần, họa sĩ Dương Sen, người bạn thân của ông đã chụp ảnh các bức tranh của Kao Văn Khánh gửi đến phòng tranh Tự Do ở Sài Gòn. Chủ phòng tranh tìm đến nhà của Kao Văn Khánh tại Vũng Tàu và ngỏ lời giúp ông thực hiện triển lãm. "Lần đầu tiên có được một triển lãm riêng như thế này, với tôi là niềm vui quá lớn", họa sĩ tâm sự.

jeudi 21 janvier 2016

Chiếc Bóng Đêm Trừ Tịch, thơ Trần Văn Lương và bạn hữu/ đọc thêm Đêm Trừ Tịch là gì

Có người con nào bỏ đất nước mình ra đi mà không mong ngaỳ trở lại, dù chỉ còn là nấm tro tàn, dù chỉ còn linh hồn vất vưởng đó đây.

Đọc thơ anh Trần Văn Lương, một người xa xứ luôn ngóng về cố hương, mà ngày về chưa bao giờ tìm được ngày về, khiến người đồng cảm thêm nỗi sầu ly hương.

Kính mời quý anh chị đọc thơ anh Trần Văn Lươngđược post dưới đây.

Caroline Thanh Hương Afficher l'image d'origine

Kính gửi đến quý anh chị con cóc cuối tuần.

Dạo:
    Cuối đường chiếc bóng bơ vơ,
Biết còn chi nữa mà chờ với mong.


Cóc cuối tuần:


  Chiếc Bóng Đêm Trừ Tịch

Con phố muộn, khách bộ hành đã ngót,
Ánh điện đường vàng vọt bám sương bay.
Người ngồi chờ xe đón, dạ quắt quay,
Trên đất lạnh, chiếc bóng gầy cô quạnh.

Con chim nhỏ từ chân trời trốn lạnh,
Đáp cạnh người, xếp cánh tạm dừng chân.
Đèn khuya soi, hai bóng đổ thật gần,
Chim lặng lẽ, người âm thầm trăn trở.
                       x
                 x          x
Đã hơn bốn mươi năm qua từ thuở
Phải đau lòng lìa xứ sở ra đi.
Tử biệt tiếp sinh ly,
Lối vượt thoát xanh rì bao nấm mộ.

Biển xanh cuồng nộ,
Khốn khổ sao rơi.
Oán khí ngập trời,
Xương phơi khắp chốn.

Đất tạm trú, buồn vui lẫn lộn,
Chút an bình lẩn trốn nơi đâu.
Kỷ niệm về rúc rỉa suốt canh thâu,
Đêm thanh vắng, tiếng nhạc sầu rên siết.

Đường thiên lý một mình đi mải miết,
Chuyện ngày sau ai biết sẽ ra sao.
Nỗi oán hờn trong giấc ngủ xôn xao,
Mộng ước vỡ thì thào bên tóc rối.

Non nước lạ, thân miệt mài sớm tối,
Trời mênh mông, chân lạc lối bơ vơ.
Con tim đau chưa vợi hết mong chờ,
Thấm thoắt đã đến bên bờ thiên cổ.

Bất hạnh vẫn rình mò trên đất khổ,
Người dân lành không một chỗ dung thân.
Bao năm dài canh cánh đợi mùa xuân,
Mà xuân vẫn chưa một lần trở lại.

Nghe tiếng sóng giữa đêm dài trống trải,
Khẽ rùng mình, sợ hãi chuyện tương lai.
Lời thề nguyền theo tuế nguyệt tàn phai,
Gươm định mệnh có chừa ai cuối nẻo.

Cành hoa buổi chia tay dù khô héo,
Từng cánh còn lẽo đẽo chẳng chịu rơi.
Người có hay hoa vẫn nhớ thương người,
Nên nấn ná giữa chợ đời giông gió.

Hồn xanh xao bỏ ngỏ,
Chờ chuông mõ xứ xa.
Quá khứ thoáng nhìn qua,
Trang sử cũ xót xa từng nét chữ.

Nhọc nhằn đời lữ thứ,
Hiện tại buồn đầy ứ có nào hay.
Bạn bè xưa đang rơi rụng liền tay,
Đứa còn lại đếm từng ngày từng tháng.

Bình minh chưa tỏ rạng,
Tìm bóng dáng xuân đâu.
Mai kia khi quê hương hết cơ cầu,
Ai sống sót để cùng nhau đón Tết.

Tuổi trời cho sắp hết,
Bước lưu vong mỏi mệt trăm phần.
Cõi gian trần dần vắng bớt người thân,
Lửa hy vọng cũng lần hồi tắt ngấm.

Dòng máu loãng chẳng còn mang hơi ấm,
Người cam lòng chịu số phận đành hanh.
Từng đêm dài nhớ tiếng trống cầm canh,
Miệng lẩm bẩm hoài câu kinh cứu khổ.
                       x
                 x          x
Xe đưa đón đã thập thò cuối phố,
Trong sân chùa, tiếng pháo nổ rền vang.
Thêm một năm mới nữa lạnh lùng sang,
Hai chiếc bóng cùng bàng hoàng tỉnh giấc.

Con chim nhỏ vừa hết cơn gà gật,
Vụt quăng mình biến mất giữa màn đêm.
Người khách già chầm chậm gượng đứng lên,
Buồn bã ngắm bóng mình trên đất lạnh.
                        Trần Văn Lương
                           Cali, 1/2016








Afficher l'image d'origine



Chị Thanh Hương & anh Văn Lương đọc cho vui

Cũng liều cảm tác mấy vần chơi
Chứ Họa  anh Lương mệt quá trời !
Cánh bướm chín mươi còn đủ sức
Còn tôi gác bút chịu nằm ngơi

ĐÊM TRỪ TỊCH TRONG BUS STATION

Trừ tịch đêm nay chẳng có nhà ,
Co ro chiếc bóng góc sân ga .
Thây chàng sóc nhỏ mò tay tớ ,
Mặc chú chuột già nhấm gót ta .
Thùng rác chúng moi toàn giấy đó
Gầm bàn mình móc  độc chai mà
Ba con ma đói đành trơ mắt
Ngó lẫn nhau mà lệ muốn sa

LTĐQB





Afficher l'image d'origine

Đêm trừ tịch trong ngày cuối cùng của năm có ý nghĩa gì?

Y.Dương |



Đêm trừ tịch trong ngày cuối cùng của năm có ý nghĩa gì?

Lễ trừ tịch trong thời khắc Giao thừa ở Huế. (Ảnh: Thái Lộc/Tuổi Trẻ)

Trừ có nghĩa là đã qua, tịch có nghĩa là đêm. Theo từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh, trừ tịch nghĩa là cũ giao lại, mới tiếp lấy.


Đêm trừ tịch là khoảng thời gian giao thừa giữa năm cũ và năm mới, tính trong khoảng thời gian từ 11h đêm 30 đến 1h sáng mùng 1 Tết. Khi đó, các gia đình người Việt đều làm lễ trừ tịch, còn gọi là lễ cúng Giao thừa.
Ở thời điểm trừ tịch, các gia đình người Việt thường dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ, thu dọn mọi thứ gọn gàng.
Ý nghĩa của lễ trừ tịch là đem bỏ đi hết những điều xấu dở cũ kỹ của năm cũ sắp qua để đón những cái mới, tốt đẹp của năm mới.
Đây cũng là khoảng thời gian thiêng liêng của mỗi gia đình người Việt khi các gia đình sum họp đón Tết.
Thông thường, các gia đình thường cúng lễ trừ tịch cả ở ngoài trời và trong nhà. Việc cúng này cũng có nơi cử hành ở đình, miếu.
Mâm cỗ cúng trừ tịch thường gồm đĩa xôi, con gà luộc hoặc thủ heo, hoa quả, trầu cau, bánh kẹo, vàng hương, bánh chưng, rượu, nước...
Lễ vật có đầy đủ hay không cũng tùy thuộc vào gia cảnh của gia chủ. Nhà nghèo thì người ta làm lễ trừ tịch với những lễ vật đơn giản mà gia đình có thể sắm sửa được.
Tuy nhiên, người xưa cho rằng, lễ vật bao giờ cũng phải có vàng hương và rượu.
Theo quan niệm của dân gian, mỗi năm thiên đình lại thay toàn bộ quan quân trông nom công việc dưới hạ giới, đứng đầu là một người có trí như quan toàn quyền.
Do đó, năm nào quan toàn quyền giỏi giang, liêm khiết thì hạ giới được nhờ như được mùa, ít thiên tai, không có chiến tranh, bệnh tật.
Trái lại, nếu gặp phải quan toàn quyền lười biếng, kém cỏi, tham lam thì hạ giới sẽ chịu mọi thứ khổ.
Sau khi cúng Giao thừa ngoài trời xong, các gia đình sẽ cúng ở trong nhà.
"Cúng Giao thừa trong nhà là lễ cúng tổ tiên vào chính thời khắc Giao thừa vừa tới, nhằm cầu xin tổ tiên phù hộ độ trì cho gia đình mình gặp những điều tốt lành trong năm mới sắp đến.
Khi cúng Giao thừa trong nhà, tất cả các thành viên trong gia đình đứng trang nghiêm trước bàn thờ, khấn tổ tiên để xin được các cụ phù hộ độ trì trong năm mới, cầu an khang thịnh vượng, sức khỏe dồi dào.
Trước khi khấn tổ tiên để mời tiền nhân về ăn Tết cùng với con cháu hậu thế, các gia chủ khấn Thổ Công, tức là vị thần cai quản trong nhà để xin phép cho tổ tiên về ăn Tết", theo thông tin trên Ban Tôn giáo Chính phủ.
Một tục lệ mà từa xưa đến nay, ở cả nông thôn và thành thị vẫn còn giữ đó là tục đi lễ chùa, hái lộc và xông đất sau lễ cúng Giao thừa.
Nguồn gốc lễ trừ tịch
Người xưa cho rằng có 12 vị Hành khiển, Phán quan nhà trời tượng trưng cho 12 con giáp từ năm Tí (con chuột) đến năm Hợi (con lợn), luân phiên trông coi việc dưới hạ giới.
Cứ sau mỗi chu kỳ 12 năm lại quay trở về vị Hành khiển đầu tiên. Các “quan nhà trời” đều có ông Thiện và ông Ác.
Ông Thiện chuyên phù hộ những điều tốt đẹp cho con người. Còn ông Ác gây ra hạn hán, lụt lội, mất mùa, đói kém.
Việc lành hay việc dữ là do sớ tấu của các quan Hành khiển, Ngọc Hoàng dựa trên sớ tấu đó mà ban phúc hay trừng phạt con người. Với quan niệm như thế, người xưa làm lễ rất cẩn trọng.
Đúng lúc nửa đêm, quan cũ giao lại công việc, quan mới tiếp nhận. Vào thời điểm này, mọi gia đình đều bày cỗ ra ngoài trời để cúng hai đoàn các quan.
Ngày xưa, thậm chí các vị chức sắc ở thôn xã cũng phải thiết lập hương án chào lạy các quan trời ở nơi trung thiên, ở sân đình, ở văn chỉ, vàng hương trầu rượu, hoa quả, xôi gà, tế lễ trọng thể với trống chiêng vang dậy đêm khuya.
(Theo Ban Tôn giáo Chính phủ)
(Tổng hợp)
theo Trí Thức Trẻ


Afficher l'image d'origine
Rất xúc động khi đọc hết tâm tình của nhà thơ rất được kính trọng, anh Lương, có thể là
tâm trạng chung của một số lớn quí vị cao niên vào những ngày cuối năm tiếc nhớ thời oanh liệt
xa xưa , xin rất cám ơn anh.
         
         Để nói lên những điều anh chưa tiện nói , xin phép anh được bầy tỏ sau đây qua lời thơ
 mộc mạc đơn sơ múa rìu qua mắt thợ, mong quí vị cao thâm miễn thứ :


        
   
SỐNG  VỚI  HIỆN TẠI

Hãy quên đi chuyện đã qua
Để mà sống mãi, tà tà ngày nay
Ngày nay, lắm việc lầy bầy
Thời gian, hãy để lấp đầy khó khăn

Tinh thần mã thượng, băn khoăn
Việc làm anh dũng vẫn đang đợi chờ
Thân trai, ai nỡ hững hờ
Tiềm năng ai để lờ mờ trôi đi

Giờ đây là lúc phải ghi
Tình, muôn sắc thái khả thi với đời
Cho thân, cho bạn, cho người
Nâng cao thắng lợi, gặt nhiều quả hay

Vui đời, vì đến ngày mai
Biết đâu nước mắt, phôi phai tấc lòng
Hôm nay, nguồn sống muôn dòng
Ai chinh phục được, mãi hòng yên vui


            Trần Trọng Thiện


 Cám ơn anh Thiện.
Bài thơ cảm tác của anh thật tuyệt.
Chúc anh cuối tuần vui.
L
Afficher l'image d'origine

LỄ TRỪ TỊCH - CÚNG GIAO THỪA

Xuân đã tràn về khắp nơi. Lòng người vui tươi chờ đón một năm mới thật nhiều điều mới, may mắn, sức khỏe và tài lộc.

Tuy Tết là ngày để ăn chơi, nhưng cũng không nên quên đi những lễ nghi truyền thống làm nên phong vị rất riêng của tết Việt.

Ngố đã cất công đọc và sưu tầm những bài văn khấn theo các tiết lễ cụ thể, trình tự. Xin được đăng lên cho mọi người cùng đọc và chia sẻ.

Trừ: Trao lại chức quan
Tịch: Ban đêm.



Lễ trừ tịch được cử hành lúc giao thừa. Lúc hết giời Hợi sang giờ Tý - cũ mới tiếp nhau, bắt đầu sang ngày khác.
Lễ này là để tiễn vị thần năm cũ, đón vị thần năm mới. Cũ giap lại công việc, mới tiếp nhận.

Tục xưa tin rằng, mỗi năm có một vị hành khiển coi việc nhân gian, mỗi vị có tên riêng với vương hiệu và cũng gọi là đương niên chi thần (mỗi vị có một phụ tá là phán quan). Có 12 vị hành khiển luân phiên từ năm Tú đến năm Hợi là 12 năm. Hết lượt lại quay trở lại.

Hành khiển có ông Thiện, có Ác. Có năm trời gây ra thiên tai, hạn hán, mất mùa, đói kém, hay dịch tễ chết hại, là do sớ tấu của hành khiển trừng phạt vua quan không có nhân chính hay dân ăn ở còn dở. Bởi vậy lễ giao thừa là lễ quan trọng nhất trong dịp Tết Nguyên Đán. Người ta cũng lễ ở ngoài trời và trong nhà.

Sắp đến giờ lễ giap thừa, gia định chuẩn bị lễ vật đúng đến 12 giờ đêm lễ được tiến hành.

Lễ vật cúng ngoài trời: Ngoài những phẩm vật không thể thiếu: hương, nến, trầu, cau, rượu ... còn có lễ mặn: thủ lợn luộc, gà trống luộc, xôi, bánh chưng, được chuẩn bị sẵn sàng, bày lên bàn hay mâm kê cao.

Đúng thời điểm giao thừa, gia thủ thắp đèn hương rồi khấn. Nếu viết văn khấn giấy để đọc thì ngay sau khi đọc xong sẽ hóa (đốt) cùng tiền vàng dâng cúng.

VĂN KHẤN TRỪ TỊCH:

Nam mô A - di - đà Phật (3 lần).
Lạy 9 phương trời mười phương đất
Lạy chư Phật mười phương
Lạy đương niên thiên quan ... năm ...
Lạy: Đông phương Thanh đế
Bắc phương Hắc đế
Nam phương Hồng đế
Tây phương Bạch đế.

Lạy Đông trù tư mệnh, Táo chủ thần quân, Long mạch, thổ thần, cập thổ chư vị thần tài mới bái.
Tín chủ tên là: ...
Ngụ tại: Thôn ... xã ... huyện, tỉnh ... nước Việt Nam
Lòng thành sắm lễ
Hương đăng, trà, quả
Tiền vàng cánh sớ
Phẩm, vật chi nghi
Nhân phút thiêng liêng giao thừa đã tới.
Pháo nổ vang lừng đón tiết đầu xuân,
Cầu mong vạn lượng canh tân.
Tam dương khai thái cung trần lễ nghi.
Nguyện tôn thần phù trì bảo hộ
Cầu anh linh tiên tổ lưu ân.
Ban cho can cháu hạ trần
Anh linh khang thái muôn phần tốt tươi
Thiều quang chiếu rọi sáng ngoài
Đầu năm chí cuối mọi người đều an
Có được sức khỏe lâu bền
Tâ tâm, tích đức, được nên danh phần.
Bốn mùa thu, hạ, đông, xuân.
Làm ăn phát đạt bớt phần nguy nan
Những điều tai vạ trái ngang
Ơn trời phù hộ tiêu tan tức thì
Điều lành mang đến, điều dữ bỏ đi
Dam xin sám hối bù trì cho con
Một lòng theo đạo sắt son
Sống trên dương thế để còn tu tâm
Nam mô A - di - đà Phật (3 lần).

Sau khi làm lễ dâng hương ngàoi trời xong thì gia chủ vào làm lễ dâng hương tổ tiên.

Khi hóa vàng mã quý gia chủ lưu ý hóa hoạn trong tiết trời hanh khô.

Năm mới, xin được gửi lời chúc mừng năm mới tới toàn thể quý bằng hữu gần xa.

(Phong tục tập quán Việt Nam - Vũ Mai Thùy biên soạn - NXB Văn hóa thông tin).







Afficher l'image d'origine


Tục lệ trong đêm trừ tịch

Sau khi làm lễ giao thừa, các cụ ta có những tục lệ riêng mà cho đến nay, từ thôn quê đến thành thị, vẫn còn nhiều người tôn trọng thực hiện.
  • Lễ chùa, đình, đền:Lễ giao thừa ở nhà xong, người ta kéo nhau đi lễ các đình, chùa, miếu, điện để cầu phúc, cầu may, để xin Phật, Thần phù hộ độ trì cho bản thân và gia đình và nhân dịp này người ta thường xin quẻ thẻ đầu năm.
  • Kén hướng xuất hành:Khi đi lễ, người ta kén giờ và hướng xuất hành, đi đúng hướng đúng giờ để gặp may mắn quanh năm.
  • Hái lộc:Ði lễ đình, chùa, miếu, điện xong người ta có tục hái trước cửa đình, cửa đền một cành cây gọi là cành lộc mang về ngụ ý là “lấy lộc” của Trời đất Thần Phật ban cho. Cành lộc này được mang về cắm trước bàn thờ cho đến khi tàn khô.
  • Hương lộc: Có nhiều người thay vì hái cành lộc lại xin lộc tại các đình, đền, chùa, miếu bằng cách đốt hương, đứng khấn vái trước bàn thờ, rồi mang hương đó về cắm và bình hương bàn thờ nhà mình. Ngọn lửa tượng trưng cho sự phát đạt được lấy từ nơi thờ tự về tức là xin Phật, Thánh phù hộ cho được phát đạt quanh năn
Xông nhà:Thường người ta kén một người “dễ vía” trong gia đình ra đi từ trước giờ trừ tịch, rồi sau lễ trừ tịch thì xin hương lộc hoặc hái ở đình chùa mang về. Lúc trở về đã sang năm mới và ngưòi này sẽ tự “xông nhà” cho gia đình mình, mang sự tốt đẹp quanh năm về cho gia đình. Nếu không có người nhà dễ vía người ta phải nhờ người khác tốt vía để sớm ngày mồng một đến xông nhà trước khi có khách tới chúc tết, để người này đem lại sự may mắn dễ dãi.