jeudi 2 avril 2020

Hai Cơn Đại Dịch, thơ Trần Văn Lương và nghe phỏng vấn tướng Lê Minh Đảo.

Trong mùa dịch Cúm Corona này, anh Trần Văn Lương chợt nhớ đến một đại dịch khác đã xảy ra cho nước Việt Nam.
Ngày tháng đó cũng là sinh nhật sắp đến sau bốn mươi lăm năm, người miền NamViệt Nam cũng đã chết vì đại nạn mất nước.
Một nhân chứng lịch sử vừa ra đi, tướng Lê Minh Đảo  ̣đã kể lại trong cuộc phỏng vấn, mời quý anh chị nhấn vào đường dẫn bên dưới để nghe chính người đã kể lại và hãy đọc, hãy khóc cho một vận nước.
Hãy đọc bốn câu thơ của anh Lương để nhớ đến đại dịch ở nước Việt Nam:

"Năm năm bốn, quê nhà lâm đại nạn,

Nước chia đôi, tiếng than oán ngập trời,

Nam Tự do, được vui hưởng kiếp người,
Bắc Cộng sản, dân sống đời trâu ngựa."
thơ Trần Văn Lương
 
Caroline Thanh Hương

Thiếu Tướng Lê Minh Đảo kể lại mặt trận Xuân Lộc
General Le Minh Dao at Xuan Loc - YouTube

 

Kính gửi đến quý anh chị con cóc cuối tuần.

Dạo:

      Dịch Tàu Vũ Hán dẫu kinh,

Nhưng so với dịch Ba Đình thấm chi!



Cóc cuối tuần:



      Hai Cơn Đại Dịch



Dịch Vũ Hán như trời long đất lở,

Khắp năm châu đang khóc dở đêm ngày,

Y khoa nào cũng đành chịu bó tay,

Xác chết cứ chất đầy nhà hỏa táng.



Cơn đại dịch đã tung hoành mấy tháng,

Khiến mọi người phải hốt hoảng lo âu,

Từ Á, Âu tới Mỹ đến Úc châu,

Đâu đâu cũng thi nhau ào đóng cửa.



Dù lan tràn như bão lửa,

Nhưng áng chừng cũng chỉ nửa năm thôi,

Một khi cơn đại dịch qua rồi,

Tất cả sẽ lại phục hồi như trước.



Bệnh truyền qua nhiều nước,

Số tử vong vượt mức mấy mươi ngàn,

Dù với mình người chết chẳng liên quan,

Nhưng vẫn thấy ruột gan dường dao cắt.



Chạnh nghĩ đến quê hương giờ đã mất,

Lòng lại càng thêm chất ngất buồn đau,

Đất nước mình, dịch Vẹm có từ lâu,

Còn ghê gớm hơn dịch Tàu vạn bội.



Từ xác chết ở Ba Đình, Hà nội,

Dịch tràn bờ ồ ạt tới khắp nơi,

Bảy chục năm giết chết mấy triệu người,

Khắp đất nước là một trời bão táp.



Dịch trà trộn vào phong trào chống Pháp,

Đoạn dần dà tàn sát hết những ai

Còn sáng mắt sáng tai,

Thấy mặt trái của chiêu bài Cộng sản.



Năm năm bốn, quê nhà lâm đại nạn,

Nước chia đôi, tiếng than oán ngập trời,

Nam Tự do, được vui hưởng kiếp người,

Bắc Cộng sản, dân sống đời trâu ngựa.



Rồi cậy có Nga Tàu làm chỗ dựa,

Vẹm mưu đồ chiếm nốt nửa giang san,

Vạn gái trai phải bỏ xác trên ngàn

Cho tham vọng của tập đoàn quỷ đỏ.



Đau đớn nhẽ, cả miền Nam sụp đổ,

Vì mắc trò tráo trở của đồng minh,

Uổng công bao chiến sĩ đã hy sinh,

Để gìn giữ cho quê mình yên ổn.



Bên thất trận chịu muôn vàn khốn đốn,

Kẻ tù đày mất xác chốn rừng hoang,

Kẻ biển Đông gặp số kiếp phũ phàng,

Kẻ vuợt thoát lang thang nhờ đất khách.



Vẹm bắt chước Tần Thủy Hoàng đốt sách,

Bày đủ trò để bách hại lương dân,

Áp đặt lên một chủ nghĩa phi nhân,

Một chế độ vô luân và khắc bạc.



Vì mắc nợ quan thầy Tàu gian ác,

Chúng đang tâm hèn nhát bán non sông,

Dân mình ngay trên mảnh đất cha ông

Đành cam phận lưu vong không xứ sở.



Dân hết đường xoay xở,

Tranh giành nhau đi ở đợ khắp phương,

Mặc xác hồn, danh tiết bị tổn thương,

Miễn thoát khỏi chốn "thiên đường" cơ cực.



Thật chua xót thay cho nền đạo đức

Mà tổ tiên đã gắng sức vun bồi,

Nhân phẩm nay thành khái niệm lỗi thời,

Lương tâm cũng từ lâu thôi tồn tại.



Khi xã hội đã hoàn toàn băng hoại,

Thì tiền đồ cũng sẽ mãi tiêu tan,

Đạo đức là nền tảng của giang san,

Một khi mất, ngày tàn đà kế cận.

                          x

                     x        x

Tháng Tư đến, nhớ về ngày Quốc Hận,

Nghe bi thương lẫn căm phẫn chất chồng,

Buồn thấy người xưa thề thốt biển Đông,

Nay phủ gấm về rong chơi lũ lượt.



Hỡi trăm triệu người dân còn trong nước,

Nếu thật tâm muốn cứu được quê nhà,

Thì chính mình phải đổ máu xương ra,

Đừng trông đợi cái gọi là "quốc tế".



Họ ích kỷ lại tham hèn vô kể,

Nên Cộng nô với đồ tể Nga Tàu,

Bấy lâu nay tội ác đã ngập đầu,

Chẳng ai dám nói một câu hơn thiệt.



Dịch Vũ Hán chóng chầy rồi sẽ hết,

Dịch Ba Đình chẳng biết kiếp nào xong.

Chế độ này nếu không sớm tiêu vong,

Dòng giống Việt đừng mong còn chỗ đứng.



Nhìn dân tình hờ hững,

Buồn biết ngày diệt chủng chẳng còn xa.

                   Trần Văn Lương

         Cali, đầu mùa Quốc Hận 2020

Phạm Đức Nghĩa trình bày "Năm Bốn Bảy Lăm năm 2013"

Lê Minh Đảo

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Buớc tưới chuyển hướng Bước tới tìm kiếm
Lê Minh Đảo
Xuanloc 18th.jpg
Chức vụ
ARVN 18 Division SSI.svg
Tư lệnh Sư đoàn 18 Bộ binh
kiêm Tư lệnh Biệt khu 31 Chiến thuật
Nhiệm kỳ4/1972 – 4/1975
Cấp bậc-Đại tá (6/1970)
-Chuẩn tướng (11/1972)
-Thiếu tướng (4/1975)
Tiền nhiệmLâm Quang Thơ
Kế nhiệmCuối cùng
Tư lệnh phóLê Xuân Mai

Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng
tỉnh Định Tường
Nhiệm kỳ3/1969 – 3/1972
Cấp bậc-Trung tá (11/1968)
-Đại tá
Tiền nhiệmHuỳnh Ngọc Diệp
Kế nhiệmChung Văn Bông

Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng tỉnh Chương Thiện
Nhiệm kỳ9/1967 – 3/1969
Cấp bậc-Thiếu tá (11/1962)
-Trung tá
Tiền nhiệmChương Dzềnh Quay
Kế nhiệmNguyễn Văn Ngưu

QD IV VNCH.jpg
Giám đốc Trung tâm Hành quân Bộ Tư lệnh Quân đoàn IV
Nhiệm kỳ1/1966 – 9/1967
Cấp bậc-Thiếu tá

ARVN 21st Infantry Division SSI.svg
Trung đoàn phó Trung đoàn 31
thuộc Sư đoàn 21 Bộ binh
Nhiệm kỳ6/1965 – 1/1966
Cấp bậc-Thiếu tá

Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1/31/21 Bộ binh
Nhiệm kỳ1/1965 – 6/1965
Cấp bậc-Thiếu tá

Tỉnh trưởng tỉnh Long An
Nhiệm kỳ12/1962 – 12/1964
Cấp bậc-Thiếu tá
Tiền nhiệm-Thiếu tá Nguyễn Văn Xinh
Kế nhiệm-Thiếu tá Nguyễn Văn Lộc

Thông tin chung
Danh hiệuNgười hùng Xuân Lộc
Quốc tịch Hoa Kỳ
 Việt Nam Cộng hòa
Sinh5 tháng 3 năm 1933
Bình Hòa, Gia Định, Liên bang Đông Dương
Mất19 tháng 3 năm 2020
Virginia, Hoa Kỳ
Nguyên nhân mấtTuổi già
Nơi ởVirginia, Hoa Kỳ
Nghề nghiệpQuân nhân
Dân tộcKinh
Tôn giáoCông giáo
VợTrần Thị Bích Liên
Gia quyến-Các em trai: Lê Hằng Minh (1935-1966), Lê Hằng Nghi (sn 1940), Lê Quang Thạch (sn 1943, đã tử trận), Lê Quang Ảnh (sn 1945)
Các chị gái: Lê Thị Kỳ, Lê Thị Trình
-Các em gái: Lê Thị Mộng Huyền, Lê Thị Ánh, Lê Thị Ánh Tuyết
ChaLê Hằng Cầm
MẹNgô Thị Thao
Con cái9 người con (2 trai, 7 gái)
-Con trai: Lê Minh Đạm, Lê Hằng Minh Dũng
-Con gái: Lê Thị Bích Diệp, Lê Thị Bích Lan, Lê Thị Bích Thủy, Lê Thị Bích Hồng, Lê Thị Bích Phượng, Lê Hằng My, Lê Thị Bích Chi
Học vấnTú tài toàn phần
Học sinh trường- Trường Trung học Pétrus Trương Vĩnh Ký
- Trường Võ bị Liên quân Đà Lạt
- Trường Võ bị Lục quân Fort Benning, Georgia, Hoa Kỳ
Binh nghiệp
Phục vụFlag of South Vietnam.svg Việt Nam Cộng hòa
ThuộcFlag of the Army of the Republic of Vietnam.jpg Quân lực Việt Nam Cộng hòa
Năm tại ngũ1955 - 1975
Cấp bậcUS-O8 insignia.svg Thiếu tướng
Đơn vịARVN 21st Infantry Division SSI.svg Sư đoàn 21 Bộ binh
QD IV VNCH.jpg Quân đoàn IV và Quân khu 4
ARVN Joint General Staff Insignia.svg Bộ Tổng Tham mưu
ARVN 18 Division SSI.svg Sư đoàn 18 Bộ binh
Chỉ huyFlag of the Vietnamese National Army.svg Quân đội Quốc gia
Flag of the Army of the Republic of Vietnam.jpg Quân lực Việt Nam Cộng hòa
Tham chiếnChiến tranh Việt Nam
Lê Minh Đảo (1933-2020) nguyên là tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Thiếu tướng, xuất thân từ trường Võ bị Liên quân dưới thời kỳ Quốc gia Việt Nam (thuộc Liên bang Đông Dương của Pháp). Thời gian tại ngũ, ông đã tuần tự đảm nhiệm từ chức vụ Trung đội trưởng cho đến Tư lệnh đơn vị Bộ binh cấp Sư đoàn. Ngoài ra, ông còn được cử giữ những chức vụ ở lĩnh vực Hành chính Quân sự (tỉnh trưởng).
Ông được đánh giá là một trong những tướng lĩnh chỉ huy cấp Sư đoàn có khả năng nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng hòa, từng là Tư lệnh chiến trường Xuân Lộc, phòng tuyến cuối cùng của chế độ Việt Nam Cộng hòa vào những ngày cuối tháng 4 năm 1975. Tại đây, tướng Đảo đã tuyên bố sẽ "tử thủ tại Xuân Lộc", nên được mệnh danh là "Người hùng Xuân Lộc". Tuy nhiên sau 11 ngày chiến đấu, ông đã buộc phải rút quân về Biên Hòa sau khi phòng tuyến khác ở Phan Rang thất thủ. Mấy ngày sau sư đoàn của ông tan rã, ông trở về Quân đoàn IV ở Cần Thơ rồi trở lại Sài Gòn, sau sự kiện 30 tháng 4 vài ngày ông ra trình diện chính quyền mới.
Ông trải qua 17 năm trong các trại cải tạo và là tướng Việt Nam Cộng hòa có thời gian đi cải tạo lâu nhất. Sau khi đến Mỹ năm 1993, ông làm việc quản lý một nhà hàng cho đến khi nghỉ hưu.

Tiểu sử & Binh nghiệp

Ông sinh ngày 5 tháng 3 năm 1933 trong một gia đình có cha là viên chức cho chế độ thực dân Pháp tại xã Bình Hòa,[1] tỉnh Gia Định. Từ nhỏ, ông có tiếng học giỏi, ông đã học tại trường Lycėe Pėtrus Ký, Sài Gòn theo chương trình Pháp. Năm 1952, ông tốt nghiệp với văn bằng Tú tài toàn phần (Part II).

Quân đội Quốc gia Việt Nam

Cuối tháng 9 năm 1953, thi hành lệnh động viên, ông tình nguyện nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia Việt Nam, mang số quân: 53/125.441. Theo học khóa 10 Trần bình Trọng tại trường Võ bị Liên quân Đà Lạt, khai giảng ngày 1 tháng 10 năm 1953. Ngày 1 tháng 6 năm 1954, mãn khóa tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy hiện dịch. Do có thành tích học tập tốt (hạng 18/400), ông được giữ lại trường để làm Cán bộ Trung đội trưởng, hướng dẫn khóa sinh của những khóa kế tiếp: khóa 11 Phạm Công Tuân và khóa 12 Cộng Hòa.

Quân lực Việt Nam Cộng hòa

Cuối năm 1955, khi Quân đội Quốc gia đổi tên thành Quân lực Việt Nam Cộng hòa, ông được chọn đi du học lớp Huấn luyện viên tại Trường Võ bị Lục quân Fort Benning, Tiểu bang Georgia, Hoa Kỳ. Ông được xem là một học viên toàn diện, có thể tự lái Trực thăng và làm Hoa tiêu phụ bay đêm[2]. Đầu tháng 6 năm 1956, sau khi mãn khóa học về nước, ông được thăng cấp Trung úy tiếp tục làm Cán bộ và Huấn luyện viên của trường Võ bị Liên quân các khóa 13 Thống Nhất, khóa 14 Nhân Vị và khóa 15 Lê Lợi.
Năm 1959, Thiếu tướng Lê Văn Kim được bổ nhiệm giữ chức vụ Chỉ huy trưởng trường Võ bị Liên quân Đà Lạt. Đầu năm 1960, ông được thăng cấp Đại úy và chọn làm Sĩ quan Tùy viên cho tướng Kim. Vì vậy, năm 1961 khi tướng Kim được điều về Bộ Tổng tham mưu làm Phụ tá Tư lệnh hành quân, ông cũng được chuyển công tác theo. Đầu năm 1962, ông được cử đi du học lớp tác chiến chống du kích trong rừng già tại Malaysia (Tác chiến trong rừng). Sáu tháng sau mãn khóa về nước, ông phục vụ tại Khối Nghiên cứu của Bộ Tư lệnh Hành quân. Ngày 2 tháng 11 năm 1962, ông được thăng cấp Thiếu tá và được bổ nhiệm làm Tỉnh trưởng tỉnh Long An thay thế Thiếu tá Nguyễn Văn Xinh.[3]
Khi xảy ra cuộc Đảo chính ngày 1 tháng 11 năm 1963, ông được tướng Lê Văn Kim, bấy giờ đã được thăng Trung tướng, Tổng thư ký kiêm Ủy viên Ngoại giao của Hội đồng Quân nhân Cách mạng, triệu hồi về Sài Gòn để chuẩn bị nhân sự. Tuy nhiên, sau đó không lâu, tướng Nguyễn Khánh đã thực hiện cuộc chỉnh lý để loại bỏ ảnh hưởng của các tướng Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính, Lê Văn Kim và Mai Hữu Xuân để lên nắm quyền lãnh đạo. Bị cho là thuộc cấp thân tín của tướng Kim, nên cuối năm 1964, ông phải bàn giao chức vụ Tỉnh trưởng lại cho Thiếu tá Nguyễn Văn Lộc[4]

Thăng tiến

Đầu năm 1965, ông được bổ nhiệm vào chức vụ chỉ huy, bắt đầu sự thăng tiến trong binh nghiệp. Ban đầu là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 31, Sư đoàn 21 Bộ binh, không lâu sau, ông được thăng chức làm Trung đoàn phó Trung đoàn 31. Đầu năm 1966, ông được điều trở về Bộ Tư lệnh Quân đoàn IV, giữ chức vụ Giám đốc Trung tâm Hành quân.
Tháng 9 năm 1967, ông được tân Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bổ nhiệm làm Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng tỉnh Chương Thiện thay thế Trung tá Chương Dzềnh Quay. Ngày Quốc khánh 1 tháng 11 năm 1968, ông được thăng cấp Trung tá tại nhiệm. Cuối tháng 2 năm 1969, bàn giao chức vụ Tỉnh trưởng Chương Thiện lại cho Trung tá Nguyễn Văn Ngưu,[5] ông chuyển sang làm Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng tỉnh Định Tường thay thế Trung tá Huỳnh Ngọc Diệp[6] Ngày Quân lực 19 tháng 6 năm 1970, ông được đặc cách tại mặt trận thăng cấp Đại tá tại nhiệm. Thời gian này, ông thường xuyên tiếp xúc và có mối quan hệ thân tình với John Paul Vann, cựu Trung tá Lục quân Mỹ, Cố vấn cao cấp của Chương trình Bình định và Phát triển nông thôn (Civil Operations and Rural Development Support - CORDS) tại Quân đoàn IV. Ông đã gây được ấn tượng tốt với John Paul Vann, một yếu tố có ảnh hưởng quan trọng đến sự nghiệp của ông sau này.

Sư đoàn 18, từ An Lộc đến Xuân Lộc

Trong chiến cuộc Xuân - Hè 1972, John Paul Vann, bấy giờ cố vấn trưởng Hoa Kỳ tại Quân đoàn II, đã đề nghị Trung tướng Ngô Dzu, Tư lệnh Quân đoàn II, bổ nhiệm Đại tá Lý Tòng Bá và ông vào các chức vụ Tư lệnh Sư đoàn tại Quân đoàn II, bởi viên cố vấn này cho rằng đấy chính là những sĩ quan trẻ, năng động và có kinh nghiệm chiến trường. Không lâu sau đó, Đại tá Bá nhận chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh. Đến tháng 3 năm 1972, ông nhận lệnh bàn giao tỉnh Định Tường lại cho Đại tá Chung Văn Bông.[7] Sau đó một tháng, do ảnh hưởng của cố vấn Vann, ông được Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bổ nhiệm vào chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 18 Bộ binh kiêm Tư lệnh Biệt khu 31 chiến thuật thay thế Thiếu tướng Lâm Quang Thơ[8].
Thời điểm ông làm Tư lệnh Sư đoàn 18 Bộ binh, các sĩ quan cao cấp Chỉ huy và Tham mưu gồm có các Đại tá:
Tháng 6 năm 1972, không lâu sau khi nhận chức Tư lệnh Sư đoàn 18, ông được lệnh đưa Sư đoàn vào An Lộc thay thế Sư đoàn 5 Bộ binh vốn đã bị thiệt hại nặng nề qua những đợt tấn công trong Trận An Lộc trước đó. Với sự tăng phái của Liên đoàn 5 Biệt động quân, Sư đoàn 18 trở thành đơn vị phòng thủ chính tại phía Bắc Sài Gòn. Ông nhiều lần chỉ huy Sư đoàn, liên tục hành quân giải tỏa trục đường 13, làm giảm áp lực bao vây của đối phương vây quanh An Lộc. Do chiến tích này nên ngày Quốc khánh Đệ Nhị Cộng hòa 1 tháng 11 cùng năm, ông được đặc cách tại mặt trân thăng cấp Chuẩn tướng tại nhiệm khi mới 39 tuổi.
Đầu tháng 6 năm 1974, ông được lệnh của Trung tướng Phạm Quốc Thuần, Tư lệnh Quân đoàn III, đưa Sư đoàn 18 tiến vào Bến Cát trong Chiến dịch Tam Giác Sắt với mục tiêu đánh bật các đơn vị Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đang soát các cứ điểm tại đây như một bàn đạp tấn công hỏa lực chỉ cách Sài Gòn 30 km. Dù nhanh chóng chiếm lại được cứ điểm An Điền, trong các đợt giao tranh tại cứ điểm Rinet (đồi 82) và Rạch Bắp, trước sự chống trả quyết liệt của đối phương, Sư đoàn đã bị thiệt hại nặng nề sau 20 ngày giao chiến, vì thế được Sư đoàn 5 Bộ binh tiến vào thay thế. Và mãi đến cuối tháng 11 năm 1974, quân Việt Nam Cộng hòa mới chiếm lại được các cứ điểm còn lại.
Với thành tích chiến trận, Sư đoàn 18 trở thành một trong những Sư đoàn tốt nhất của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Vì vậy, đến đầu tháng 4 năm 1975, sau khi đã để mất phân nửa diện tích lãnh thổ vào tay đối phương cùng với thiệt hại 40% binh lực chỉ sau gần 1 tháng, với kế hoạch "Nỗ lực tối đa", cố gắng thiết lập 3 phòng tuyến Tây Ninh, Phan Rang, và quan trọng nhất là Xuân Lộc, các tướng Mỹ và Việt Nam Cộng hòa hy vọng sẽ chặn đứng được đà tiến công của đối phương, giữ vững những phần đất còn lại của Việt Nam Cộng hòa để đạt được chút lợi thế còn lại trong đàm phán. Và tướng Lê Minh Đảo được chính Tổng thống Thiệu chỉ định làm Chỉ huy trưởng của phòng tuyến. Để thể hiện rõ quyết tâm, tướng Đảo tuyên bố ông sẽ "tử thủ tại Xuân Lộc".
Phòng tuyến Xuân Lộc dù được bố phòng kỹ lưỡng, với binh lực tại chỗ hơn 25.000 quân (gồm Sư đoàn 18 và 3 Chiến đoàn hỗn hợp), cùng với lực lượng tăng cường là Liên đoàn 81 Biệt cách dù, Lữ đoàn 1 Nhảy dù, đồng thời với sự hỗ trợ tối đa của Không quân. Nhưng trước sự áp đảo toàn diện của đối phương, sau khi các phòng tuyến Tây Ninh và Phan Rang lần lượt thất thủ, phòng tuyến Xuân Lộc trở nên mất tác dụng. Ông cùng với các đơn vị còn lại được lệnh rút về Biên Hòa. "Cánh cửa thép" Xuân Lộc bị phá vỡ sau 11 ngày kịch chiến. Sư đoàn 18 với hàng ngàn binh sĩ đã bị đối phương bắt giữ. Tướng Đảo đã lên xe chạy về Sài Gòn chứ không ở lại "tử thủ" như tuyên bố lúc mới vào trận.

Đầu hàng

Ngày 21 tháng 4, Tổng thống Thiệu tuyên bố từ chức. Phó Tổng thống Trần Văn Hương kế vị. Để khích lệ tinh thần các tướng lĩnh chỉ huy, ngày 24 tháng 4 Tổng thống Hương thăng cho ông lên cấp Thiếu tướng. Nhưng điều đó vẫn không giảm được đà tiến vũ bão của đối phương. Tối ngày 29 tháng 4, ông nhận lệnh tiếp tục lui quân và sau đó là lệnh đầu hàng trưa 30 tháng 4 năm 1975.

Sau năm 1975

Sau khi nhận được lệnh đầu hàng, ông ra lệnh giải tán đơn vị và tìm cách về Cần Thơ rồi lại quay về Sài Gòn. Đến ngày 9 tháng 5 năm 1975, ông ra trình diện Chính quyền mới và phải đi học tập cải tạo, do tỏ thái độ bất hợp tác nên ông bị giam tới 17 năm, lâu nhất trong các tướng VNCH. Mãi đến ngày 5 tháng 5 năm 1992, ông mới được trả tự do.[16] ông về ở với mẹ tại thành phố HCM.
Tháng 4 năm 1993, ông được xuất cảnh sang Hoa Kỳ theo diện H.O và định cư cùng gia đình tại Tiểu bang Virginia, Hoa Kỳ. Khi được hỏi về việc học tập cải tạo, ông cho rằng: "Nói cải tạo để dùng cái mỹ từ cho nó đẹp chứ đi đày tụi tôi chứ cải tạo cái gì? Sự thật là ai cải tạo ai? Bây giờ phải nói rằng trình độ tụi tôi với tất cả cuộc sống của tụi tôi có cần những người cải tạo để đưa tụi tôi từ một mức con người biết đầy đủ tất cả nhân phẩm xuống thành con thú vật đâu?"[17]
Sau khi ổn định cuộc sống tại Hoa Kỳ, ông tham gia và tích cực tổ chức các hoạt động trong giới cựu sĩ quan và binh sĩ Việt Nam Cộng hòa. Tháng 9 năm 2003, ông là một trong những đồng sáng lập tổ chức "Tập thể Chiến sĩ Việt Nam Cộng hòa" và giữ chức Chủ tịch Trung tâm Điều hợp Trung ương.
Lúc 13h45 ngày 19 tháng 3 năm 2020, ông từ trần tại Bệnh viện Hartford, Connecticut, Hoa Kỳ, hưởng thọ 87 tuổi.

Gia đình

  • Thân phụ: Cụ Lê Hằng Cầm (nguyên là công chức thời thuộc địa Pháp).
  • Thân mẫu: Bà Ngô Thị Thao
  • Bào đệ:
    -Ông Lê Hằng Minh (Sinh năm 1935 tại Gia Định, nguyên là Trung tá Thủy quân Lục chiến VNCH, tốt nghiệp khóa 5 Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức. Năm 1966, tử trận tại Phong Điền, Thừa Thiên).
    -Ông Lê Hằng Nghi (Sinh năm 1940 tại Gia Định, nguyên là Đại úy Thủy quân lục chiến VNCH, tốt nghiệp khóa 15 Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức).
    -Ông Lê Quang Thạch (Sinh năm 1943 tại Gia Định, nguyên là Hạ sĩ quan Bộ binh VNCH, tử trận).
    -Ông Lê Quang Ảnh (Sinh năm 1945 tại Gia Định, nguyên là Chánh văn phòng Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao công Việt Nam)
  • Phu nhân: Bà Trần Thị Bích Liên - Ông bà có chín người con gồm 2 trai và 7 gái.

Bên lề

Thiếu tướng Lê Minh Đảo là một nhạc công guitar, thường chơi cho những tụ điểm ca nhạc, phòng trà ở Sài Gòn vào đầu thập niên 1950, nhằm kiếm thêm thu nhập phụ giúp cha mẹ, lo học phí cho bản thân và các em, thậm chí còn sáng tác vài nhạc phẩm được khá đông người biết đến. Ông là thành viên của ban nhạc Lê Thương với vai trò nhạc công banjo. Một thành viên khác của ban Lê Thương là nhạc công guitar Nguyễn Văn Minh, về sau trở thành Trung tướng Nguyễn Văn Minh (biệt danh Minh đờn), Tư lệnh Biệt khu Thủ đô.[18]
Trong thời gian ông đi lao động cải tạo ông đã sáng tác bài "Nhớ Mẹ".[19] Bài này đã được một số ca sĩ ở hải ngoại trình diễn thâu thanh.
Ngoài khả năng âm nhạc, ông còn được xem là vận động viên quần vợt hạng khá.
Ông trở lại đạo Công giáo trong thập niên 90, được một linh mục trong cùng trại giam rửa tội khi còn bị giam giữ tại trại Z.30D ở Hàm Tân (tỉnh Bình Tuy cũ, nay thuộc tỉnh Bình Thuận).

Chú thích

  1. ^ Trung tâm Hành chính tỉnh Gia Định, nay thuộc quận Bình Thạnh, Thành phố HCM
  2. ^ Lê Minh Đảo và nỗi đau sau ngày thăng cấp
  3. ^ Thiếu tá Nguyễn Văn Xinh sinh năm 1923 tại Long An, tốt nghiệp khóa 2 Võ bị Huế. Giải ngũ năm 1964 ở cấp Trung tá.
  4. ^ Thiếu tá Nguyễn Văn Lộc sinh năm 1932 tại Sóc Trăng, tốt nghiệp khóa 5 Võ bị Đà Lạt. Sau cùng: Đại tá Tư lệnh Sư đoàn 106 Biệt động quân (đang hình thành).
  5. ^ Trung tá Nguyễn Văn Ngưu sinh năm 1920 tại Mỹ Tho, tốt nghiệp trường Võ bị Địa phương Nam Việt (Vũng Tàu), giải ngũ ở cấp Đại tá. Sau đó đắc cử vào Thượng viện làm Nghị sĩ trong Quốc hội VNCH.
  6. ^ Trung tá Huỳnh Ngọc Diệp sinh năm 1928 tại Long An, tốt nghiệp khóa 3 Võ bị Đà Lạt. Sau cùng là Đại tá Tỉnh trưởng Phong Dinh.
  7. ^ Đại tá Chung Văn Bông sinh năm 1929 tại Bình Dương, tốt nghiệp khóa 9 Võ bị Đà Lạt.
  8. ^ Tướng Lâm Quang Thơ được cử tái nhiệm Chỉ huy trưởng Trương Võ bị Quốc gia Đà Lạt.
  9. ^ Đại tá Lê Xuân Mai sinh năm 1926 tại Hà Đông, tốt nghiệp khóa 4 Võ bị Đà Lạt.
  10. ^ Đại tá Huỳnh Thao Lược sinh năm 1930 tại Bạc Liêu, tốt nghiệp khóa 3 Võ bị Đà Lạt.
  11. ^ Đại tá Hứa Yến Lến sinh năm 1932 tại Cần Thơ, tốt nghiệp khóa 6 Võ bị Đà Lạt.
  12. ^ Đại tá Ngô Văn Hưng sinh năm 1932, tốt nghiệp khóa 3 Sĩ quan Thủ Đức.
  13. ^ Đại tá Lê Xuân Hiếu sinh năm 1934 tại Thái Bình, tốt nghiệp khóa 10 Võ bị Đà Lạt.
  14. ^ Đại tá Trần Minh Công sinh năm 1933 tại Thừa Thiên, tốt nghiệp khóa 8 Võ bị Đà Lạt.
  15. ^ Đại tá Ngô Kỳ Dũng sinh năm 1935 tại Hải ngoại, tốt nghiệp khóa 14 Võ bị Đà Lạt.
  16. ^ Tám cựu tướng VNCH được trả tự do sau cùng vào năm 1992 chia thành 2 đợt:
    -Đợt 1 (tháng 2/1992):
    Các Chuẩn tướng Phạm Duy Tất, Phạm Ngọc SangMạch Văn Trường.
    -Đợt 2 (tháng 5/1992):
    Các Thiếu tướng Trần Bá Di, Đỗ Kế Giai và Lê Minh Đảo.
    Các Chuẩn tướng Trần Quang KhôiLê Văn Thân,
  17. ^ Gặp Tướng bị 'cải tạo' 17 năm, Nguyễn Hùng, BBC, 17.5.2015
  18. ^ Hồi ký Phạm Duy, tập 3, "Ban hợp ca Thăng Long".
  19. ^ "Gặp tướng bị cải tạo 17 năm"

Xem thêm

Tham khảo

  • Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy (2011). Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa.

Liên kết ngoài

Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire