Đỗ Như Quyên
ĐÈO HẢI VÂN
Nước Đại Việt đời Nhà Trần
(1225-1413), năm 1293 vua Trần Nhân Tông (1258-1308) *(1) nhường
ngôi cho con lên làm vua là Trần Anh Tông (1276-1320) (*2),
còn ngài thì làm Thái Thượng
Hoàng, lui về ở Phủ Thiên Trường (làng Tức Mặc, Nam Định). Năm
1299, thượng hoàng chính thức xuất gia, trước ở Vũ Lâm (Ninh
Bình)
sau về Yên Tử (
Quảng Ninh ), pháp danh là Hương Vân Đại Đầu Đà, pháp hiệu Đại Hương Hải Ấn
Thiền Sư nhưng cũng thường xưng Trúc Lâm Đại Sĩ.
Tháng 3 năm 1301, thượng hoàng
Trần Nhân Tông và cũng là Trúc Lâm Đại Sĩ vào đất Bố Chính ( Quảng Bình ) để
lập am Tri Kiến cho việc tu tập. Cũng lúc đó có một
phái đoàn của vương
quốc Chiêm Thành (Champa) vừa sang nước Đại Việt triều cống ở kinh đô Thăng
Long, nay đang trở về nước và đi ngang Bố Chính. Vị quan trưởng đoàn Chiêm Thành là ông Chế Bồ Đài ( - ? ), lúc
biết tin thượng hoàng Trần Nhân Tông cũng đang ở đây liền tìm đến am Tri Kiến
để chào kính. Trong cuộc tiếp kiến này,
trưởng đoàn Chiêm Thành có ngỏ
lời mời thượng hoàng sang thăm Chiêm Thành và ngài đã nhận lời, cũng như định
ngày lên đường ( xin được nói rõ là trước đó không lâu,
nước Đại Việt thời vua Trần Nhân Tông đã liên kết và giúp vương quốc Chiêm
Thành đánh tan đoàn quân của tướng Mông Cổ là Toa Đô tại Thành Gỗ (gần Quy
Nhơn) năm 1283. Khi đó, vua Chiêm Thành là
ông Djaia Indravarman V (1228-1285), người con trai trưởng của ông
là thái tử Harijit (Chế Mân,1255 - 1307) làm thống soái quân đội
).
Lúc tới kinh đô
Vijaya (Đồ Bàn, Quy Nhơn), Trúc Lâm Đại Sĩ được ông Chế Mân, nay là
vua Djaia Simhavarman III và triều đình đón tiếp rất trọng thể. Ngài
được tiếp đãi nồng hậu, được dành riêng một
khu vực ngay trong cung hoàng gia và được mời đến nhiều nơi thuyết giảng đạo
pháp. Sau 9 tháng ở Chiêm Thành, năm 1302 thượng hoàng Trần Nhân Tông về
nước, ngài mang theo lời hứa sẽ gả người con gái út của mình là công chúa Huyền
Trân (1287-1340) (*3) kết hôn với vua Chế Mân, dù ngài biết ông vua này đã có hai bà hoàng hậu (*4).
Lúc về tới kinh đô Thăng
Long, chuyện hứa hôn của thượng hoàng bị triều đình phản đối,
nhất là vua Trần Anh Tông người anh cả của công chúa Huyền Trân. Nhưng
cũng có hai người là Trần Đạo Tái ( - ?) và Trần Khắc
Chung (1264-1330) tán thành cuộc hôn nhân này. Và liên tiếp
trong 4 năm liền, năm nào vua Chế Mân cũng cho mang lễ vật sang
cống nạp và mong được sớm rước dâu. Đến khi trưởng phái đoàn Chiêm
Thành là ông Chế Bồ Đài cho biết phía nhà trai sẵn sàng dâng hai
vùng đất châu Ô, châu Rí (từ Bắc- Quảng Trị đến Nam- Đèo Hải Vân ngày nay) để
làm lễ cưới thì triều đình Đại Việt mới chấp nhận cuộc hôn nhân đó.
Tháng 6 năm 1306, đoàn
thuyền đưa cô dâu là công chúa Huyền Trân của nước Đại
Việt về nhà chồng, là vua Djaia Simhavarman
III - Chế Mân của nước Chiêm Thành. Một lễ cưới
được vua Chế Mân cho tổ chức thật lớn tại kinh đô Vijaya, dân chúng được vui
chơi suốt ba ngày, công chúa Huyền Trân được tấn phong là hoàng hậu
Paramecvari (gần một năm sau bà sinh người con trai đầu lòng là hoàng
tử Chế Đa Gia). Tháng Giêng năm 1307, Nhà Trần làm lễ tiếp nhận hai
vùng đất mới, vua Trần Anh Tông sai ông Đoàn Nhữ Hài (1280-1335) vào khởi sự
thiết lập hệ thống chính quyền tại đây, dân chúng nước Đại Việt cũng
được triều đình khuyến khích đến lập nghiệp ở miền đất vừa sáp nhập vào lãnh
thổ với tên mới là châu Thuận (tức châu Ô, Quảng Trị ngày nay), châu Hóa (châu
Rí (Lý), Thừa Thiên), vùng núi đèo giáp với Chiêm Thành (Hải Vân
sau này) thì thuộc Phủ Triệu Phong, châu Hóa.Trên đỉnh đèo Nhà Trần
cho xây một cửa ải nhỏ gọi là Ải Vân (ải trên mây, đến thời Nhà Hậu
Lê, 1428-1788, thì nơi đây có tên mới là Hải Vân Sơn hoặc Núi Hải Vân, Đèo Hải
Vân, Hải Vân Quan) nhưng cửa ải nầy đã bị sụp đổ, hoang
tàn vì những trận đánh giữa Chiêm Thành và Đại Việt sau này.
^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^O^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^
Đèo Hải Vân về mặt địa lý, là
chân núi hướng Đông Nam của núi Bạch Mã phía Tây Bắc, đây là dãy núi cuối cùng
đâm ngang ra tới biển của dãy Trường Sơn ở phương Nam. Đỉnh núi Bạch Mã
cao khoảng 1.448 thước (m) so với mặt biển, triền thấp dần ở hướng Nam với đỉnh
núi thứ hai cao khoảng 1.172 thước (đỉnh núi Hải Vân, không
phải đỉnh đèo), từ đây triền
núi xuôi ra hướng chính Đông, xuống một trũng thấp có chiều cao khoảng 496
thước và đây chính là đỉnh đèo mà người xưa chọn làm nơi giao tiếp của hai con đường lên và xuống lúc vượt đèo,
triền núi lại cao lên dần ở hướng Đông, tới đỉnh núi thứ ba là
Ngự Hải, cao khoảng 650 thước thì chân núi mới xuống lần
tới Biển Đông. Đèo Hải Vân là một ngọn đèo thuộc loại hùng vĩ
nhất, cao nhất, đường đi dài nhất và nguy hiểm nhất trong các đèo ở Việt
Nam. Lối đi quanh co, uốn lượn và dài tới 23.5 cây số (km), dài hơn
Đèo Ngang gấp bốn lần, gấp bảy lần Đèo Phước Tượng và dài gấp chín lần so với
Đèo Phú Gia. Đứng trên đỉnh Đèo Hải Vân, nơi có Đồn Nhất, nhìn về
hướng Bắc sẽ thấy Lăng Cô, Đèo Phú Gia và mũi Chân Mây. Nhìn hướng Nam thấy Nam
Ô, bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng, chòm Núi Non Nước và Cù lao Chàm. Đỉnh đèo cách
Huế 80 cây số và Đà Nẵng 29 cây số đường chim bay. Ngay dưới chân đèo ở
hướng Bắc là làng Lăng Cô (nay là thị trấn), cách chân đèo 1 cây số, cách
Huế 62 và Đà Nẵng 38 cây số. Dưới chân đèo về hướng Nam là làng đánh cá Nam Ô
(nay là thị trấn), cách chân đèo 5 và Đà Nẵng 14 cây số. Suốt đoạn
đường Đèo Hải Vân có hơn 50 các suối, khe lớn, nhỏ, có 9 khúc cua tay áo
(V), một cua xếp hình chữ Z, một suối khá lớn gần Đồn Nhì ở hướng Bắc.
Năm 1471, trên đường chinh
phạt Chiêm Thành trở về, vua Lê Thánh Tông (1442-1497) đã sững sờ lúc nhìn thấy
vị trí hiểm yếu và phong cảnh tuyệt vời của Đèo Hải Vân, ngài phong cho nơi nầy là "Thiên Hạ Đệ Nhất Hùng
Quan". Trong thời Nam-Bắc phân tranh lần thứ nhứt (1600-1786) giữa các
Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn, có một lần Chúa
Nguyễn Phúc Chu (1675-1725) đi tuần du đất Quảng Nam, lúc lên tới đỉnh đèo ngài
làm một bài thơ nói về Đèo Hải Vân như sau :
"Việt Nam hiểm ải
thử điên.
Hình thế hồn như Thục
đạo thiên.
Đãn kiếm vận hành tam
tuấn lĩnh.
Bất nhi nhân tại kỷ
trùng thiên ? " (tạm dịch nghĩa : Đây là sơn ải hiểm trở nhất Việt
Nam. Hình thể như đường vô đất Thục. Ba quả núi như thanh gươm đâm ngang
(ra biển). Chẳng biết ở trên đời có nơi đâu giống như vậy không ?).
Năm 1826, vua Minh Mạng
(1791-1841) của Nhà Nguyễn (1802-1945) ban lệnh cho sửa sang lại Đèo Hải Vân.
Đường đi thì mở rộng khoảng 4 thước và lót đá
từng bậc. Trên đỉnh đèo cho dân phu phá đất thành một chổ
trống rộng gần 1 mẫu (hectare). Nơi nền cũ cửa ải thời Nhà Trần, xây một
khu vực thành bằng gạch nung để quan binh có
nơi đồn trú lâu dài và người đi đường có chỗ
nghỉ chân. Xây một cửa ải hình vuông cao hơn 20 thước, mỗi cạnh rộng hơn 10 thước. Ngay trên cửa ải
nhìn về hướng Nam, ngài cho khắc lớn 6 chữ
mà vua Lê Thánh Tông năm 1471 đã phong cho nơi đây : "Thiên Hạ
Đệ Nhất Hùng Quan", cửa ải huớng Bắc khắc ba chữ lớn là "Hải Vân Quan" (khu thành ải nầy nay
vẫn còn), sửa lại ngôi miếu cổ thờ Thần Núi với hình tượng là một ông
Cọp. Hai khúc cua thứ nhất lúc mới lên đèo ở hai hướng được đặt hai con
Rùa bằng đá thật lớn, đầu nhìn ra Biển Đông và chạm khắc rất tỉ mỉ. Trên lưng
Rùa là tấm bia đá cao gần hai thước, trên đó khắc ghi công đức của tiền nhân
thuở trước cho tới thời vua Minh Mạng, đã tốn biết bao công sức mới có
được con đường đèo nầy cho con, cháu mai sau (do hai khúc quanh nầy có hai con
Rùa, nên người qua đèo gọi đây là "cua con Rùa" cho dễ nhớ).
Từ thuở xa xưa đến thời Nhà
Nguyễn, có ba lối đi khác nhau để vượt qua dãy núi hiểm trở nầy:
(1)Thượng Đạo là lối đi ở hướng Tây dọc theo sườn núi Bạch Mã.
Người đi rất khổ nhọc vì hành trình dài gấp
hai lần, phải đi qua nhiều núi, rừng rậm rạp và cũng lắm thú dữ. (2) Trung Đạo
là con đường dễ đi nhất nhưng cũng lắm nhọc nhằn. Bắt
đầu lên núi từ làng Lăng Cô, vượt qua các sườn đồi thấp để lên cao dần
cho tới lúc gặp trũng thấp trên lưng chừng núi thì xuống đèo, cũng khúc
khuỷu gập ghềnh hơn 10 cây số nữa mới xuống được chân đèo ở hướng Nam, đó là
thôn Kim Liên, cách chân đèo 1 cây số (lối đi nầy sau được khai phá thành
"Đường Cái Quan" rồi một đoạn của Quốc Lộ 1 như ngày hôm nay).
(3) Hạ Đạo là con đường đi theo các sườn núi thấp dọc theo hướng biển, tuy thấp
nhưng rất khó đi bởi có nhiều vách đá thẳng đứng, suối
lớn v.v vì các con suối thường rộng lớn thêm lúc nó xuống thấp lần
trước khi hòa nhập vào biển cả.
Năm 1884, thực dân Pháp chiếm
nước Việt Nam, họ thấy ngay tầm mức quan trọng của Đèo Hải Vân trên con đường
xuyên Nam- Bắc. Nhưng lúc đó người Pháp chưa có kế hoạch nào để mở rộng
"Đường Cái Quan" mà họ lại chú trọng đến một lối đi khác, nhanh hơn
và vận chuyển được nhiều hơn. Năm 1904, thực dân Pháp bắt đầu làm đoạn đường sắt từ Đà Nẵng đi Huế, năm 1906 thì
hoàn tất với chiều dài 103 cây số (Huế- Đà Nẵng 108 cây số đường quốc lộ), con
đường sắt qua Đèo Hải Vân dài 20 cây số, người Pháp đã nương
theo lối cũ là Hạ Đạo để từ đó mới làm rộng thêm ra. Bắt đầu từ ga Kim Liên,
cách chân đèo phía Nam 1 cây số, tàu lên đèo khoảng 8 cây số thì tới ga Trại Phong (hay Làng Cùi) rồi đến
ga Suối Đông, ga nầy là điểm cao nhứt, hơn 200 thước, trước khi tàu qua một cái
hầm để xuống bên kia đèo, tới ga Hóc
Mang Cá (gẩn Đồn Nhì), xuống
hết chân núi thì gặp ga Lăng Cô. Để vượt Đèo Hải Vân, tàu phải đi qua
18 cây cầu và xuyên qua 6 cái hầm, cái ngắn nhứt chỉ có 85 thước nhưng cái dài nhứt là 600 thước. Riêng
đường quốc lộ đoạn qua Đèo Hải Vân thì từ năm 1926 người Pháp đã có dự án mở
rộng và rải đá ở từng nơi. Tuy vậy đường đèo lúc
ấy vẫn còn nhỏ, hơn nữa thời đó kỹ nghệ xe hơi chưa làm được loại máy xe nào đủ
mạnh để qua nổi các đèo cao như Đèo Hải Vân. Những vết tích mà họ làm ở đây từ năm 1926 đến nay vẫn còn, đó là những lô cốt
bê tông to lớn để canh gác hai đầu đèo và trên Đồn Nhất. Tới năm 1940 thì
thực dân Pháp mới mở rộng đường hoàn toàn, họ cho dở bỏ hết những phiến đá lót
đường có từ thời vua Minh Mạng và rải đá vụn trên mặt đường, nhưng lòng đường
chỉ rộng khoảng 8 thước nên suốt 25 năm sau
đó (1940-1965) tất cả các loại
xe muốn qua Đèo Hải Vân đều phải tập trung ở hai bên chân đèo trước 9 giờ sáng.
Sau giờ nầy, các xe ở hai bên cùng lên đèo một lần, cùng tập trung trên đỉnh Đồn Nhất một lần, xe nào chết máy dọc
đường thì phải cố gắng...đẩy nó sát vào vách núi. Sau 2 giờ chiều, các xe trên
Đồn Nhất mới xuống đèo cùng một lúc cho cả hai hướng Nam và Bắc. Tới các
năm 1966, 1967 thì giờ lên đèo được ấn định làm bốn lần cho mỗi ngày. Năm 1968, lực lượng Công Binh/
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, công binh
Thủy Quân Lục Chiến Mỹ, công binh Ong Biển / Hải Quân Mỹ cùng phối hợp mở
rộng tối đa đường Đèo Hải Vân ra 14 thước. Mặt đường
được tráng nhựa hoàn toàn, các cây cầu cũ đều được thay và làm lại cầu
mới. Từ đó xe cộ lưu thông qua Đèo Hải Vân mới có đường hai chiều, không
còn cảnh chờ lên và xuống đèo cùng một lần
như thuở trước.
Về mặt giữ an ninh cho Đèo Hải
Vân trước vấn nạn cộng sản thì nơi đây được canh phòng rất cẩn mật. Duy
nhất chỉ một lần vào năm 1952, một đơn vị cấp đại đội của Việt
Minh đã dại dột tấn công Đồn Nhất trên đỉnh, nơi đồn trú hai trung đội
lính Âu-Phi của Pháp. Chỉ trong một giờ giao chiến, đơn vị tấn công
gần như bị xóa sổ vì lúc các máy bay khu trục từ phi trường Đà Nẵng lên
tiếp cứu, họ không còn nơi đâu để chạy. Năm 1969, chính người viết bài nầy
trong một lần đi theo đoàn "convoa" (convoy) Mỹ từ
Đồn Nhất định xuống ghé chơi ở Lăng Cô. Lúc đoàn xe tới gần khu vực Đồn Nhì,
một tổ cảm tử của cộng sản nấp trên một hốc đá bắn xuống đoàn xe một lúc hai
trái B-40....nhưng họ bắn trật! Ngay lập tức, cả đoàn "convoa"
hối hả xuống đèo với một tốc độ kinh hoàng. Hôm đó đoàn xe nầy chỉ chở
toàn bánh, kẹo và nước ngọt đi Phú Bài. Do xuống đèo quá nhanh nên lúc quẹo gấp
tại những khúc cua, nhiều kiện hàng bị văng xuống đường bể tan tành. Ngày đó
lính cũng như dân ta, từ Đồn Nhì tới Lăng Cô (khoảng 8 cây số) đã
lượm được vô số các loại lon nước ngọt và bánh, kẹo. Riêng tổ cảm tử của cộng
sản gồm 4 người không còn ai sống sót, vì trực thăng vũ trang bảo vệ đoàn xe đã
xúm vô bắn nát tan hốc đá nơi họ ẩn núp.
Theo sự phân chia địa lý hành
chánh từ thời Nhà Nguyễn đến thời Việt Nam Cộng Hòa, thì Đèo Hải
Vân thuộc về hai tỉnh Thừa Thiên và Quảng Nam, tính từ đỉnh Đồn
Nhất. Phía Bắc đèo thuộc về xã Lộc Hải quận Phú Lộc. Phía Nam
thuộc xã Hòa Hiệp quận Hòa Vang . Nhưng chuyện ấy chỉ có trên
giấy tờ, vì cộng sản đâu cần biết điều đó! Họ chỉ biết khủng bố, phá
hoại bất cứ nơi đâu nếu có cơ hội. Nếu quân cộng sản làm tê liệt đoạn
Quốc Lộ 1 ở Đèo Hải Vân, đồng bào Thừa Thiên với Quảng Trị chắc khó ở
yên với....nón cối. Vì vậy nên trong suốt cuộc chiến với cộng sản, trách
nhiệm canh phòng Đèo Hải Vân được giao cho lực lượng Địa Phương Quân và Nghĩa
Quân thuộc tỉnh Quảng Nam, do Đà Nẵng quá gần để tiếp cứu trong
trường hợp khẩn cấp. Từ Đồn Ba ở
chân đèo hướng Bắc cho tới cầu Nam Ô ở hướng Nam, thường
xuyên có từ 3 tới 4 đại đội ĐPQ luân phiên tuần tra và
trấn giữ những địa điểm quan trọng (Đồn Ba, hay còn gọi Đồn
Bắc, ngay "cua con Rùa", cách Lăng Cô khoảng 300
thước bên kia cửa Đầm Lập An, nhìn Lăng Cô đẹp như một bức
tranh vĩ đại và sống động. Đồn Ba được thiết lập năm 1967 bởi
công binh và quân nhân thuộc Đại Đội 606/Địa Phương Quân/Yếu Khu Đèo Hải
Vân/Đặc Khu Quảng Đà/Quân Khu I, Đại Đội Trưởng: Trung úy Lê Văn Tập, Đại Đội
Phó: Thiếu úy Thuận ). Ngoài ra từ năm 1969 tới 1970, Bộ Tư
Lịnh/Đệ Tam Thủy Bộ/ Mỹ ở Đà Nẵng cũng thường tăng cường thêm 2 tiểu đoàn Thủy
Quân Lục Chiến đến hoạt động tại Đèo Hải Vân. Một tiểu
đoàn rải quân mỏng ra cấp tiểu đội, họ trấn giữ những nơi có cầu, cống nước cỡ
lớn v.v dọc theo đường hai bên đèo, tiểu đoàn còn lại thì tảo thanh, lùng sục
ngày đêm từ đồi nầy qua núi nọ. Trung bình mỗi
hai tháng lại có hai tiểu đoàn khác tới thay. Nhưng có hai đơn vị thường lui,
tới nhiều lần là Tiểu Đoàn 2/ Trung Đoàn 1/Sư Đoàn 1 TQLC và TĐ 3/TrĐ 26/SĐ
5/TQLC Mỹ. Khu vực Đồn Nhất trên đỉnh đèo, nơi đặt Bộ Chỉ
Huy/Yếu Khu/Đèo Hải Vân, được bảo vệ bởi 1 đại đội ĐPQ, đối diện trước cổng đồn, phía bên kia bãi đất
trống rộng lớn tráng nhựa là đồn Quân Cảnh và Cảnh Sát, trưởng đồn "muôn
năm" là Thượng sĩ nhất Đăng, quanh đó là 9 căn nhà xập xệ của những gia đình sống với nghề mở quán ăn...trên
mây! Trên miếng đất nhỏ ngay trước cổng đồn nhìn về phương Nam, cũng là trước
cửa ải với hàng chữ "Thiên Hạ Đệ Nhất Hùng
Quan", là một căn nhà khá lớn với vách và nóc đều bằng "tôn" của
ngành công chánh, chuyên lo sửa đường, cầu, cống v.v trên đèo (nay Cộng
Việt đã phá mất căn nhà nầy, thay vào đó họ xây một tấm
bia tưởng niệm những người đã hy sinh trong
trận đánh Đồn Nhất vào năm 1952). Ngay tại đây có con
đường xe chạy lên đỉnh núi phía Đông, chạy chừng 100 thước thì
ngang chỗ đóng quân của một trung đội
lính Mỹ. Trung đội nầy là một đơn vị đặc biệt, họ nằm ở đây để liên lạc
và yểm trợ cho các toán Lôi Hổ, Biệt Kích, Viễn Thám v.v đang thâm nhập
hoạt động trong hang ổ của cộng sản. Đi tiếp lên theo con đường chừng hai cây
số thì tới đỉnh núi Ngự Hải cao khoảng 650 thước, nơi đây có đài
phát tuyến của Quân Khu I, nơi làm việc của một Trung Đội Truyền Tin Hỗn Hợp
Việt-Mỹ, được bảo vệ bởi một Trung Đội Cảnh Sát Dã Chiến/ Việt
Nam Cộng Hòa. Cũng từ đây nhìn hướng Đông-Đông Nam khoảng 8 cây
số bên kia cửa Vịnh Đà Nẵng sẽ thấy bán đảo Sơn Trà, cao khoảng 693 thước,
thấy Đài Thiên Văn và Khí Tượng trên đỉnh núi thứ ba của bán đảo
là đỉnh Cổ Ngựa, cao khoảng 650 thước, và Đài Kiểm Báo Panama ở độ cao gần
250 thước bên sườn Nam bán đảo. Khu vực Bắc-Đèo Hải Vân từ Đồn Nhì (xây
năm 1948) -Suối Lớn tới Đồn Ba "cua con Rùa" được 1 đại đội ĐPQ bảo
vệ. Phía Nam đèo từ Đồi 335 (nhìn xuống Trại Phong, Nam Ô) tới
Cảng Xăng-Dầu Liên Chiểu, thôn Kim Liên cũng do 1 đại đội ĐPQ canh phòng. Một
đại đội khác làm trừ bị, đóng quân ở các thôn Nam Ô; Xuân Dương và
Xuân Thiều thuộc xã Hòa Hiệp. Tất cả các đơn vị Việt Nam hoạt động tại địa bàn
của đèo nầy, từ tác chiến đến chuyên môn, đều trực thuộc Yếu Khu
Đèo Hải Vân mà vị Chỉ Huy Trưởng năm 1970 là Thiếu tá Lê Văn Tập. (Tổng Kho
Xăng-Dầu 2 mà dân chúng vẫn quen gọi "kho xăng Liên Chiểu" là hải
cảng nhiên liệu duy nhất ở Việt Nam. Nằm kề bên chân Đèo Hải Vân về phía Nam,
đây là nơi phân phối xăng-dầu các loại cho nhu cầu
quân và dân sự của 6 tỉnh Bắc miền Trung/ Việt Nam
Cộng Hòa (QTrị; TThiên; QNam; QTín; QNgãi; BĐịnh), chủ quản kho xăng là
hãng ESSO. Tổng kho ở Liên Chiểu bao gồm Kho Xăng-Dầu cầu Trình Minh
Thế, chủ quản là hãng SHELL. Ngày 5/8/1965, do sự sơ xuất của một nhân
viên kỹ thuật thuộc hãng Esso, cảng xăng nầy bốc cháy dữ dội, làm
thiệt mạng 7 người vừa dân vừa lính và thiêu hủy hơn 15 triệu lít xăng, 2 triệu
lít dầu lửa, dầu cặn, 500 tấn mỡ và nhớt máy cùng 8 toa tàu bồn chở xăng- dầu.
Đơn giản chỉ có vậy thôi. Vậy mà ngày hôm sau Cộng Vẹm ở Hà Nội đã tạo ra
một huyền thoại khi họ kể chuyện một đại đội "đặc công"
cộng sản tấn công vào kho xăng Liên Chiểu ! ) .
++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
704 năm đã trôi qua kể từ lúc
Hải Vân Sơn là một phần lãnh thổ của Việt Nam. Từ con đường mòn bề ngang 9 tấc,
luồn lách trên những sườn núi - xanh rừng nhiều thú dữ, cho tới đường được
lót đá, tráng nhựa, rộng cả chục thước, cách đây vài năm Đèo Hải Vân lại có
thêm con đường mới là đường hầm xuyên núi....nhưng không phải do Cộng
Việt làm đâu nhé ! Mũi khoan vào núi để làm hầm được khoan lần đầu
vào ngày 20.5.2001. Sau bốn năm, đường hầm Đèo Hải Vân được khánh thành ngày
5.6.2005 với phí tổn 252 triệu tiền Mỹ nhưng do Nhật tài trợ. Hầm chính
dài 6 cây số 280 thước, hầm phụ dài 6 cây số 286 thước. Đây là một trong 30
đường hầm lớn
nhất thế giới và lớn
nhất vùng Đông Nam châu Á. Đường hầm Đèo Hải Vân được thiết kế và
giám sát kỹ thuật bởi hai hãng : Louis Berger International Inc của Mỹ và
Nippon Koei của Nhật Bản. Hai công ty trực tiếp xây dựng đường hầm là Hazama
của Nhật và Dong Ah của Đại Hàn. Công nhân thợ máy, thợ hồ, thợ điện v.v dĩ
nhiên là đồng bào khốn khổ của mình.
Còn các cán bộ cộng sản lởn vởn ở đây chỉ là đám "theo
đóm ăn tàn" và "ăn hại đái nát" mà thôi (ai nói ngày nay Cộng
Vẹm làm cái này, cái nọ là còn ngu ). Đi
xe hơi qua đường hầm Đèo Hải Vân, từ Lăng Cô tới Kim Liên chỉ mất 15
phút nhưng chỉ thấy toàn bê tông với đèn pha. Nếu đi đường của tiền nhân khai
phá thuở nào thì hơn hai giờ đồng hồ, nhưng đổi lại được nhìn thấy mây, núi,
suối, sông và biển cả quyện vào nhau ngay trước mắt, và cũng thấy được công ơn
cùng xương máu của biết bao thế hệ xa xăm đã hy sinh cho con, cháu ngày hôm nay
có được nước non nầy. Tổ tiên ta ngày trước chỉ cần những con đường mòn, cheo
leo bên vách núi mà mở rộng bờ cõi đến tận Mũi Cà Mau. Ngày hôm nay kẻ cướp
nước cho xây những tòa nhà tráng lệ, mở những xa lộ rộng thênh thang với
đủ các loại xe hơi bóng nhoáng chỉ với mục đích che mắt người đời, làm mờ
mắt người dân để họ không thấy Ải Nam Quan, biển, đảo v.v đang mất
dần bởi bọn bán nước là Cộng Vẹm.
+++++++++++++++++++++++++
Nói về Đèo Hải Vân, ông Lê Quý
Đôn (1726-1784) đã ghi lại như sau trong cuốn Phủ Biên Tạp Lục :
..."Hải Vân dưới sát bờ biển, trên chọc tầng mây là giới hạn của hai xứ Thuận Hóa và Quảng Nam. Sáu thế kỷ trước
vùng đất này thuộc về hai châu Ô- Rí của nước Champa. Được vua Cham là Chế Mân
cắt làm sính lễ cầu hôn công chúa Huyền Trân
đời Trần..". Sách Đại Nam Nhất Thống Chí của Quốc Sử Quán
thời vua Tự Đức (1829-1883) ghi : .."Núi Hải Vân ở Đông
Nam huyện Phú Lộc, là chổ giáp giới giữa Phủ Thừa Thiên và Quảng Nam. Nửa đèo phía Bắc thuộc huyện Phú Lộc Phủ Thừa
Thiên, nữa đèo phía Nam thuộc huyện Hòa Vang Phủ Quảng Nam. Phía Tây có
núi Bà Sơn, phía Bắc là núi Hải Sơn, ba ngọn liên tiếp xen nhau trên cao chót
vót đến tầng mây, dưới chạy dăng tới bờ biển, đường đi chín khúc vòng mới
vượt qua đèo, hai bên cây cối um tùm, người đi như vượn leo, thật là hiểm trở.
Trên núi có 5 cái khe là Khe Kỷ; Khe Vu; Khe Hổ Lang; Khe Bé; Khe Lớn.
Phía Bắc chân núi có bãi biển Hang Dơi, có Bãi Cháy. Tương truyền xưa có
sóng thần, thuyền qua đây hay bị chìm nên trong dân gian có câu ca : "Đi
bộ thì sợ Hải Vân. Vượt biển lại sợ sóng thần Hang
Dơi"..."
Về thơ thì có ông Huỳnh Mẫn
Đạt (1807-1882) với bài "Lên Đèo Hải Vân"
:
Đồi liễu ngàn mai cảnh quạnh hiu.
Chia hai Thuận-Quảng một con đèo.
Lá dòm mặt nước cây mong lội.
Biển bọc chân non sóng muốn trèo.
Mặt
đất day ngang đường khuất khúc.
Sườn non dựng ngược đá cheo leo.
Vén
mây muốn bước lên trên tót.
Đoái lại vầng trăng lẽo đẽo theo .
Ông Trần Bích San (1840-1877)
cũng có bài "Qua Ải Hải Vân" như sau :
"Tam niên tam thướng Hải Vân Đài.
Nhất
điểu thân khinh độc vãn hồi.
Thảo trụ bán không đê nhật nguyệt.
Càn-Khôn chích nhãn tiểu trần ai.
Văn phi sơn thủy vô kỳ khí.
Nhân
bất phong sương vị lão tài.
Mạc đạo Tần quan chinh lộ hiếm.
Mã đầu hoa tận đới yên khai".
(Người dịch, ông Nguyễn Tấn Hưng ( -? )
"Ba năm ba lượt Hải Vân.
Chiếc thân chim nhẹ mấy lần ngược xuôi.
Cỏ cây vắt vẻo lưng trời.
Càn- Khôn chếch mắt nhỏ nhoi lạ thường.
Văn không sông núi tầm thường.
Người chưa dày dạn phong sương há tài !
Nẻo Tần chớ bảo chông gai.
Khói tuôn đầu ngựa dặm dài nở hoa" .
Ông Cao Bá Quát (1808-1885)
cũng có hai câu : "Nhất bích ngưng vi giới.
Trùng vân nhiễu tác thành".
(dịch tạm : Một vùng xanh biếc khắp.
Vô vàn
mây dựng thành ).
Lòng người dân xứ Quảng :
"Chiều chiều mây phủ Hải Vân.
Chim kêu gành đá gẫm thân lại buồn".
********************X*********************
Chú thích cho phần Đèo Hải
Vân.
(1): Vua Trần Nhân Tông là
người sáng lập ra phái thiền Trúc Lâm Yên Tử. Ngài còn có
những đạo hiệu khác như Trúc Lâm Đầu Đà; Điều Ngự Giác Hoàng .
(2): Vua Trần Nhân Tông là vị
vua cho bỏ tập tục bắt buộc con dân nước Việt phải xăm mình, một lệ đã có từ
nhiều ngàn năm trước.
(3): Công chúa Huyền Trân xuất
gia đi tu năm 1309 tại núi Trâu Sơn (Bắc Ninh), pháp danh Hương Tràng. Năm 1311
bà đến làng Hổ Sơn (Nam Định) lập am
tu hành ở dưới chân núi Hổ. Bà qua đời ngày 9/1/1340, được nhìều nơi
lập đền thờ. ( Chú thích về công chúa Huyền Trân thật ra khá dài mà Tập San
Biệt Động Quân thì số trang có giới hạn.
Đành phải tách riêng ra để viết một bài đầy đủ hơn) .
(4): Hoàng hậu thứ nhất người
Chiêm Thành, con trai cả của bà là thái tử Chế Chí, sau lên ngôi vua. Hoàng hậu
thứ hai là công chúa Tapasi của nước Java (Nam Dương
sau nầy). Sau khi ông Chế Mân qua đời bà trở về nước, công chúa Huyền
Trân cũng vậy. Không hề có chuyện các bà phải lên giàn thiêu, và chuyện ông
Trần Khắc Chung qua bày kế đem bà về
cũng không có. Tất cả chỉ là chuyện thêu dệt thêm của đời sau mà thôi. Sẽ có
một bài viết về vấn đề nầy.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire