Tác
giả, hiện cư trú và làm việc tại vùng San Jose, đã hai lần nhận giải
viết về nước Mỹ do Việt Báo chủ xướng. Ngay từ năm đầu tiên, với bài
"Chương Kết Của Cuộc Đời", cô được trao giải danh dự 2001. Sau 4 năm
liên tục góp thêm bài viết mới, cô nhận giải vinh danh tác phẩm Viết Về
Nước Mỹ 2005, với bài về một cựu sĩ quan Việt Nam Cộng Hoà và bài về một
quả phụ Mỹ thời chiến tranh Việt Nam. Bài sau đây trích, kể chuyện một
mình vượt biển giữa thập niên 80’ và trở thành cô giáo cho những thiếu
niên không thân nhân tại trại tị nạn.
Ngày
30 tháng Tư 1975, Saigon sụp đổ. Những gia đình đang ở trong các cư xá
sĩ quan, cư xá công chức bị đuổi ra khỏi nhà. Cùng chung số phận, gia
đình chúng tôi bị đuổi khỏi mái nhà thân yêu trong cư xá, nơi chúng tôi
có một thời nhỏ dại êm ả. Mẹ đưa chúng tôi về căn nhà riêng Ba Mẹ đã xây
nên bằng công sức của Ba Mẹ, nhưng nhà này cũng bị tịch thu. Sau hai
lần mất nhà, chúng tôi
lớn lên như câu ca dao :
"Còn cha gót đỏ như son,
mất cha lăn lóc như lon sữa bò."
Ba
chúng tôi còn sống, nhưng đang bị đầy ải trong trại cải tạo ở núi rừng
âm u đầy chướng khí của miền Bắc. Những ngày u ám đó in hằn vào đầu óc
của chúng tôi, khiến chúng tôi trưởng thành sớm hơn tuổi của mình, vì
chỉ được xã hội cho nếm mùi cay
đắng.
Đầu
thập niên tám mươi, trước những bế tắc không lối thoát, Mẹ thu xếp gởi
anh chị em chúng tôi, từng đứa, vượt đại dương để đến một vùng đất tự
do, ở đó không có khủng bố tinh thần, ở đó không có trại cải tạo giam
giữ những người hoàn toàn lương thiện, và ở đó chúng tôi sẽ được học
hành thành người. Cũng như rất nhiều người vợ lính khác, Mẹ đảm đang,
xuôi ngược nuôi chúng tôi, nuôi Ba trong các trại tù cải tạo từ Bắc vào
Nam. Tất cả những
điều đó đẩy chúng tôi đến đường cùng, không còn lựa chọn nào khác hơn
là phải đưa chính mạng sống của mình đánh cuộc với định mệnh, với đại
dương. Còn nhớ thời đó, người dân miền Nam Việt Nam vẫn truyền miệng một
câu ngạn ngữ của thời đại "Một là con nuôi mẹ, hai là mẹ nuôi con, ba
là con nuôi cá." Cứ thế một hai ba Mẹ lo cho con một mình vượt biển. Khả
năng vượt thoát chỉ là một phần ba. Ròng rã gần mười lăm năm dài, từ
cuối năm 1975 đến đầu năm 1990, hàng trăm ngàn thuyền nhân (hay theo như
cách gọi của UNHCR United Nations High Commissions for Refugees, Cao Uỷ
Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc là "Boat People") đã đến được bờ bến tự do. Cùng
lúc, hàng trăm ngàn thuyền nhân khác gởi thân vào lòng đại dương.
Chưa
qua khỏi tuổi thơ, nước mất, nhà tan, chúng tôi, không có thời mới lớn,
tự động bước vào tuổi trưởng thành trước những khó khăn của Mẹ, vượt
quá nỗi khổ của bà Tú Xương ở thế kỷ mười chín, vừa nuôi chồng trong tù
cải tạo, vừa nuôi một bầy con dại còn ở Tiểu học hoặc ở những năm đầu
Trung học. Từng đứa một, khi có điều kiện, Mẹ gởi chúng tôi ra đi.
Đến
phiên tôi, Mẹ chỉ đưa được tôi ra bến xe liên tỉnh để đi Vũng Tàu. Cả
hai mẹ con đều đội nón lá rộng vành để che những giọt nước mắt lã chã
rơi không ngừng. Mẹ khóc nhiều hơn những lần đưa các anh em trai của tôi
ra đi, vì tôi là con gái duy nhất trong nhà, thân gái dậm trường. Ngồi
trên xe đò từ Saigon về Vũng Tàu, trong một góc xe đò, tôi úp nón lên
mặt, để che đôi mắt sưng đỏ vì khóc của mình.
Gần
một tuần lênh đênh trên đại dương, chỉ có trời và nước, xanh thẫm ban
ngày, đen kịt ban đêm, không có cả một cánh chim, tôi nhớ Ba, nhớ Mẹ
quay quắt, nhưng vẫn hài lòng với chọn lựa của mình. Hai ngày đầu, như
mọi người trong lòng thuyền, tôi bị say sóng, nôn ra cả mật xanh, mật
vàng. Đó là lần đầu tiên trong đời, tôi hiểu thế nào là "mửa mật". Vậy
mà chỉ hai ngày sau, quen dần với cảm giác bập bềnh của con thuyền nhỏ
trước lực đẩy của nước ở đại dương, tôi tỉnh táo lại hoàn toàn với đầy
đủ sinh lực của "tuổi mười bảy bẻ gãy sừng trâu" mặc dù đã hai ngày
không ăn uống. Khi thuyền ra hải phận quốc tế, chúng tôi được lên khoang
thuyền hít thở không khí trong lành đầy vị mặn của đại dương, hình như
có thoang thoảng mùi vị của tự do.
May
mắn hơn những người tỵ nạn khác, chúng tôi đi bình yên, không gặp một
thuyền nào khác. Trời êm biển lặng vào tháng sáu đầu mùa hè đưa chúng
tôi đến thẳng đất liền của Mã Lai sau năm ngày sáu đêm lênh đênh trên
biến.
Lên
tới đất liền, cùng với chú lái tàu, tôi phải vận dụng vốn liếng tiếng
Anh hạn chế đã tích lũy trong những tháng năm chuẩn bị vượt biên để giải
thích cho nhân viên Cảnh sát Mã Lai biết chúng tôi là ai, tại sao chúng
tôi đặt chân đến đây. Đó chỉ là lần đầu, một khởi đầu kéo dài mãi cho
đến bây giờ, phải giải thích tương tự cho rất nhiều người khác nhau
thuộc nhiều chủng tộc hiểu tại sao chúng tôi phải bỏ quê hương ra đi để
sống đời lưu vong.
Những
giờ phút đầu tiên trên đất liền, chúng tôi lại bị "say đất". Quen với
trạng thái bồng bềnh, trôi nổi trên mặt nước; khi trở lại mặt đất bằng
phẳng, mỗi lần đặt bước chân xuống, tôi có cảm giác mặt đất chao đảo như
còn trên mặt sóng nhấp nhô. Sau hai ngày bận rộn với đủ thứ giấy tờ
khai báo với cảnh sát địa phương Mã Lai, chúng tôi được đưa ra trại
Pulau Bidong, trại tỵ nạn chính thức của Cao ủy tỵ nạn Liên Hiệp quốc
đặt trên lãnh thổ Malaysia để thành một người tỵ nạn chính thức có số
căn cước thuyền nhân, chờ được phỏng vấn định cư ở một nước thứ ba. Lần
này, hành trình từ đất liền ra
đảo Pulau Bidong vững chắc hơn trên một thuyền khá lớn của UNHCR, có
tên là "Blue Dart", khoảng cách lại ngắn, nên chúng tôi không bị say
sóng.
Trại
tỵ nạn Pulau Bidong đã dược xây dựng tương đối đầy đủ khi chúng tôi đến
đảo vào giữa thập niên 80, có đủ trường Tiểu học, Trung học cho trẻ em,
trường huấn nghệ (Vocational School) cho người lớn, có thư viện, có cả
Chùa, Nhà thờ trên "đồi tôn giáo", có Bệnh viện với cái tên khá ngộ
nghĩnh và dễ nhớ là "Sick Bay". Chúng tôi
được đón tiếp với những thùng mì ăn liền vĩ đại hãy còn bốc khói, giống
hệt như những thùng mì Liên Hiệp Quốc phân phàt cho nạn nhân của thiên
tai Tsunami ở South Asia cuối năm 2004.
Lần
đầu tiên ăn đồ cứu trợ, sống bằng lòng nhân đạo của người khác, một
thân một mình ở trại tỵ nạn của một đất nước khác, nước mắt tôi lăn dài,
nghĩ đến Ba vẫn đang mỏi mòn trong ngục tù cải tạo ở núi rừng âm u đầy
chướng khí của miền Bắc vẫn thiếu ăn, thiếu mặc; nghĩ
đến Mẹ đang vò võ một mình ở nhà, chắc là vẫn đang cầu nguyện cho bầy
con đã tứ tán mỗi đứa một quốc gia, một phương trời khác nhau, ở tuổi
chưa đến hai mươi.
Tưởng
là mình đã rất can đảm khi dám chấp nhận cảnh "thân gái dặm trường",
không ngờ, ở trại tỵ nạn Pulau Bidong, đến khu vực Cô nhi (Minor
Refugees Residential Section), dành cho các em dưới mười sáu tuổi đến
trại tỵ nạn một mình, tôi thấy em nhỏ nhất chỉ mới sáu tuổi.
Ở
đó, có Hanh, chỉ mới mười một tuổi, thông minh, đầy cương nghị, có Bố
đang bị "học tập cải tạo" -như Ba tôi- được Mẹ gởi đi vượt biển một mình
trên một thuyền bị hải tặc, mọi người đói lả gần ba ngày trước khi đến
được trại tỵ nạn. Ở trại tỵ nạn, cậu bé tuy mới mười một tuổi nhưng có
sự khôn ngoan và nét chửng chạc cúa một người ngoài hai mươi học hành
chăm chỉ, hết học Anh Văn lại quay qua học Toán, quanh quẩn cả ngày ở
trường Trung học trên đảo Pulau Bidong.
Ở
đó, có Huyên, một em gái mới mười ba tuổi, cả gia đình mất tích trên
biển khi thuyền bị lật. Như một phép màu, Huyên bám được một thùng
plastic rỗng, trôi nổi bồng bềnh giữa đại dương gần nửa ngày, trước khi
được một tàu tỵ nạn khác đi ngang vớt lên. Người ta đã thấy cô bé Việt
Nam nhỏ bé mắt nhắm nghiền, gần như hôn mê bất tĩnh. thân xác mỏng manh
như chiếc lá khô, hai tay vẫn còn bám chặt cái thùng nhựa rỗng bồng bềnh
trên đại dương.
Ở
đó, có Việt, rất thâm trầm, dù mới mười lăm tuổi, nhà cửa bị tịch thu,
Ba bị giam ở khám Chí Hòa vì "tội nhà giàu", Mẹ gởi em ra đi với nhà
hàng xóm để thoát khỏi tương lai đen tối của giai cấp "tư sản mại bản".
Còn
biết bao các em khác
nữa. Mười một tháng sau đó ở Pulau Bidong, với vốn liếng Anh ngữ từ
những năm ở trường Trung học, và những sách vở của thư viện trên đảo,
tôi đã có cơ hội giúp cho UNHCR và cả các phái đoàn Mỹ, Canada, Úc trong
việc thông dịch mỗi khi họ đến phỏng vấn thuyền nhân.
Mãi đến bây giờ, tôi vẫn còn cảm giác xót xa khi nhớ lại những lần thông dịch cho những người
đàn bà, con gái Việt Nam bị làm nhục bởi hải tặc trên đường vượt biển,
em nhỏ nhất chỉ mới mười hai tuổi. Hồi đó, Cao ủy trưởng Alan ở Pulau
Bidong chỉ định tôi chuyên làm công việc thông dịch đàn bà con gái trong
các cuộc phỏng vấn các thuyền vượt biển bị hải tặc. Đó là một công việc
rất tế nhị và đầy xót xa. Đến một độ nào đó, nỗi đau vượt quá sức chịu
đựng, người ta mất cảm giác. Nhiều người nữ thuyền nhân, mặt còn đầy nỗi
kinh hoàng nhưng kể lại từng chi tiết ô nhục mà chính mình phải gánh
chịu với giọng đều đều, thản nhiên, lạnh lùng như nói chuyện trời mưa,
trời nắng, trong khi chính tôi và cô May,
Cao ủy của UNHCR đã giọt ngắn giọt dài. Mỗi lần dịch hay viết xong một
hồ sơ tàu tỵ nạn bị cướp, tay áo tôi ướt đẫm vì nước mắt. Tôi vẫn tự hỏi
thủ phạm trực tiếp cho nỗi đau này là hải tặc Thái Lan, thủ phạm gián
tiếp thực sự là ai?
Đó
là khoảng thời gian rất bận rộn với công việc thông dịch ban ngày giúp
cho nhân viên Cao ủy Tỵ nạn. Ban đêm, tôi còn dạy thiện nguyện cho các
em, chỉ nhỏ hơn tôi vài tuổi, ở trường Trung học trên trại Tỵ nạn.
Trường chỉ
dạy hai môn Anh văn và Toán. Sách học là những quyển sách đơn giản
tương dương trình độ của bộ "English for Today" quyển I đến quyển III.
Trước ngày ra đi, tôi chỉ mới học xong quyển IV ở Việt Nam, nhưng nhờ
làm việc, tiếp xúc nhiều với các nhân viên UNHCR, và bằng lòng thương
yêu các em chân thành như em ruột của chính mình, tôi mang hết kiến thức
và hiểu biết của mình truyền lại cho các em, mặc dù tôi chưa hề được
qua một trường lớp nào về Sư phạm. Chúng tôi, những người dạy thiện
nguyện ở trường Trung hoc. vẫn đùa với nhau là mình đã theo một "trường
phái sư phạm mới", lối dạy "mèo nhỏ tha chuột lớn"
Có
lần, giải nghiã cho các em một từ mới, "dignity" -có nghĩa là phẩm giá-
tôi không biết làm thế nào để giảng cho các em hiểu, đành viết lên bằng
câu thí dụ "We lost everything, but never lose our dignity". Viết đến
đó, tự dưng nước mắt tôi lăn dài, các em ở tuổi mười bốn, mười lăm lúc
đó cũng khóc theo. Những giọt nước mắt đó vẫn còn đọng trong tâm khảm
tôi cho đến bây giờ, cùng có niềm tin ở một thế hệ trẻ lưu vong có đầy
đủ đầu óc và trái tim Chắc chắn, các em học sinh lúc đó, trên bước đường
tha hương sau này, sẽ nhớ và hiểu nghiã chữ "dignity" hơn ai hết, và
các em sẽ sống xứng
đáng với lòng kỳ vọng của thân sinh các em, khi Ba Mẹ các em đã phải
đứt ruột gởi con ra biển một mình.
Mỗi
tuần hai lần, tàu "Blue Dart" của UNHCR cho nước ngọt, mì gói, gạo và
thực phẩm tươi gồm gà và rau cải, đôi khi còn có dưa hấu hay thơm vào
cho thuyền nhân.
Hầu
hết chúng tôi đến trại tỵ nạn chỉ với một bộ quần áo dính trên người.
Chúng tôi được phát áo quần từ một kho áo quần "second hand", tương tự
như áo quần cũ bán trong Goods Will ở Mỹ. Áo quần thường rộng thùng
thình, quá khổ, nhưng chúng tôi tự sửa lại đúng với kích thước của mình.
Cao ủy tỵ nạn Liên Hiệp quốc đã rất là chu toàn trong việc bảo vệ và
chăm lo cho những người tỵ nạn chính trị,
Đến
lúc được chuyển qua trại chuyển tiếp Bataan ở Philippines để được hướng
dẫn về đời sống văn minh của Mỹ trước khi chính thức đến Mỹ như một
người tỵ nạn, chúng tôi được huấn luyện chương trình buổi sáng, buổi
chiều làm "Teacher Aid" cho các giảng viên người Phi. Ở đó, đời sống đầy
đủ hơn, và lạc quan hơn vì chúng tôi biết chắc chắn ngày mình được định
cư ở Mỹ. Và cũng ở đó, tôi có thì giờ tự học nhiều hơn cho chính mình,
chuẩn bị một thời kỳ gian nan khác, một khởi đầu từ con số không ở quê
hương thứ hai. Một vài lần được về chơi ở Manila (thủ đô của
Philippines), những chuyến du lịch đặc biệt bằng xe bus dành riêng cho
các "Teacher Aid", chúng tôi vẫn ngậm ngùi thương cho sự lạc hậu của đất
nước mình ngay cả khi
so sánh với các nước Á châu khác như Philippines.
"Nỗi
buồn nhược tiểu" đó càng tăng cao khi trên đường bay qua Mỹ, tôi được
dừng chân hai ngày ở Tokyo-Nhật, thủ đô của nước Á châu giàu mạnh nhất
sau khi nếm bài học xương máu với hai cột khói trắng hình nấm khổng lồ ở
Hiroshima và Nagasaki cuối thế chiến thứ hai. Tokyo văn minh sáng rực
ánh đèn ban đêm tương phản với Saigon lạc hậu tranh tối, tranh sáng,
Nước mắt tôi lại chảy xuống cho sự thụt lùi của quê hương đã bị
bỏ lại sau lưng.
Tôi
đến Mỹ một tuần trước lễ Giáng sinh, cùng một thuyền nhân Việt Nam
khác, hoàn thành nhiệm vụ cuối cùng được giao từ UNHCR, giúp đoàn người
tỵ nạn gồm 85 người kể cả một vài người Lào và Cambodia cũng trốn chạy
khỏi quê hương như chúng tôi. Giữa những hành khách Mỹ tự tin, cao to,
với nhiều hành lý cồng kềnh về nước đoàn tụ với gia đình nhân dịp Giáng
sinh và Tết dương lịch, rất dễ nhận ra những người tỵ nạn nhỏ bé, mảnh
mai mắt mở to vui
mừng lẫn ngơ ngác, chỉ có hai bàn tay trắng với những túi xách của
UNHCR và IOM (International Organization for Migration) chỉ có giấy tờ
nhập cư vào Mỹ và giấy tờ tùy thân.
Được
chuẩn bị đầy đủ với gần 6 tháng học về "American Culture Orientation" ở
trại chuyển tiếp Bataan, Philippines, với trình độ Anh văn tương đối
sau một năm tiếp xúc và làm thông dịch viên cho nhân viên Cao ủy Tỵ nạn
LHQ, tôi không đến nỗi bị lâm vào cảnh"mán về thành", nhưng thật sự đời
sống ở Mỹ khác
xa với đời sống ở quê nhà như mặt trời với mặt trăng, như ngày với đêm.
Hình
ảnh của Ba với mái tóc bạc trắng ở tuổi năm mươi trong lao tù cải tạo,
hình ảnh Mẹ với đôi mắt buồn trong những ngày chuẩn bị gởi chúng tôi ra
đi là nguồn nghị lực không bao giờ cạn, tiếp sức cho chúng tôi trong
thời gian chân ướt chân ráo ở quê hương thứ hai.
Từ
nhiều trại tỵ nạn ở nhiều nước khác nhau: Thái Lan, Indonesia,
Malaysia, Philippines, anh chị em chúng tôi đến Mỹ trong nhiều thời gian
khác nhau, được trùng phùng, như trăm sông đổ về biển, và mang sức sống
của tuổi hai mươi lao vào đất nước của tự do và cơ hội.
Một
người bạn cũ của Ba, qua Mỹ từ năm 1975, đang làm ở tổ
chức thiện nguyện USCC, giúp tôi có được trợ cấp một lần là 650 dollars
dành cho người tỵ nạn mới đến , bác viết cho tôi một reference letter
và từ đó "I' m on my own way". Bác cũng giới thiệu cho tôi đến tìm việc
làm ở một vài nơi. Trời thương, "thánh nhân đãi kẻ khù khờ", tôi được
nhận vào làm full time ở một công ty lớn chỉ hai tuần sau ngày đến Mỹ.
Lúc đó là đầu tháng giêng, giữa mùa Đông ở Mỹ, trời lạnh buốt, buổi sáng
tôi thức dậy từ sáu giờ ba mươi, trời còn tối, ra đứng chỗ xe bus ở đầu
đường, trời lạnh cóng, dưới 40 độ Fahrenheit, tôi phải mặc ba bốn lớp
áo, nhưng áo quần cũ chị em chúng tôi đã mua từ Goods Will để vừa với
túi tiền của mấy chị em lưu lạc quê người, chỉ có hai bàn tay trắng, với
lòng tin của Ba Mẹ
đặt ở mỗi chúng tôi. Một tuần sau, chịu không nổi cái lạnh gần đông đá,
từ 32 đến 39 độ Fahrenheit của mùa đông thứ nhất ở Mỹ, tôi dùng cái
paycheck đầu tiên của mình thuê người dạy lái xe và dốc hết tiền trợ cấp
một lần cho người mới đến mua một cái Toyota Celica đã mười bốn tuổi,
để đi học và đi làm.
Đời
sống lúc đó, còn nhỏ, là một hình tam giác với ba đỉnh là nhà, trường
học và sở làm không hề có giải trí, không có cả thời gian để buồn và nhớ
nhà.
Đến
Mỹ muộn màng, sau gần mười năm miền Nam sụp đổ, biết thân phận mình là
"trâu chậm", chúng tôi lao đầu vào học, không dám để phí thêm một giờ
phút nào. Mùa hè, học phí cao hơn, tôi chỉ ghi danh theo học một lớp, và
làm part time cho một trạm bán xăng ở gần nhà. Nghĩa là lúc đó, tôi đi
làm full time, đi học full time quanh năm. Nhiều lúc quá mệt mỏi, tôi
lại tự nâng đỡ tinh thần mình bằng câu nói cửa miệng của người Mỹ "No
pain, no gain", và nhớ đến kỳ vọng của Ba
Mẹ đã đặt ra cho chúng tôi. Buồn nhất là những lần bất chợt nghe được
những câu hát rất đúng với tâm trạng của mình "Ai trở về xứ Việt nhắn
giùm tôi người ấy ở trong tù .....", nghĩ đến Ba, nước mắt tôi vẫn lăn
dài, và tự bảo lòng mình phải cố gắng học giỏi hơn để Ba Mẹ vui hơn, đủ
nghị lực sống trong đời sống bị khủng bố tinh thần thường xuyên ở quê
nhà.
Có lần được phát biểu cảm tưởng với thời gian ba phút trong một lần nhận học bổng, tưởng là
sẽ cảm ơn đủ tất cả mọi người và hứa với "scholarship foundation" sẽ cố gắng nhiều hơn, nhưng tôi chỉ nói được gần hai phút:
-
Xin cảm ơn tất cả thầy cô đã có công dạy dỗ tôi, xin cảm ơn Hội đồng
trao tặng học bổng cho tôi. Xin tri ân đất nước Hoa Kỳ đã cưu mang và
cung cấp một đời sống tự do, no đủ cho tất cả những người tỵ nan, lưu
vong. Vinh dự hôm nay xin được dành riêng cho tất cả những người đã nằm
xuống cho chúng tôi có được ngày hôm nay, và xin đặc
biệt danh riêng cho Ba tôi, người vẫn con đang bị đày ải trong lao tù
Cộng sản vì đã ở trong một quân đội bảo vệ tự do, xin được dành riêng
cho Mẹ tôi, người đã rất chu toàn trong việc nuôi dậy con cái một mình.
Một
phút còn lại, tôi không nói được vì cử tọa trước mặt đã mờ đi sau màn
nước mắt, mùi vị đắng cay sau năm 75 ở quê nhà vẫn kéo về với đầy nỗi
xót xa, ngay cả trong giờ phút ngọt ngào nhất. Một thầy giáo người Mỹ
gốc Ba Lan đã tỵ nạn Cộng sản từ
cuối thập niên 60, dạy tôi từ năm đầu Đại học, hiểu rất rõ tâm trạng
của một người tỵ nạn, đã lên diễn đàn giúp tôi hoàn tất lời phát biểu.
Lần đó, tôi được đặc cách đề cử trực tiếp cho học bổng niên khoá kế
tiếp, mà không phải qua những thủ tục bình thường. Món tiền tuy không
lớn, cũng đủ để trang trải chi phí sách vở, học phí, ăn ở cho một năm
học, là một yểm trợ vật chất lớn lao cho tôi trong ba năm đầu chân ướt
chân ráo ở quê người.
Có
những
điều hằn sâu trong ký ức, lúc nào cũng tưởng như mới vừa xẩy ra, như
chuyện say sóng đến độ "mửa mật" của những ngày lênh đênh trên đại dương
vẫn ám ảnh tôi không nguôi. Cho nên, có lần được chọn là "Employee of
the year" được tặng vé cho một chuyến đi cruise trên biển một tuần cho
hai người, nhớ lại cảm giác đắng nghét ở miệng, cảm giác mất thăng bằng
của những ngày mới đặt chân lên đất liền, tôi đã nhường lại phần thưởng
đó cho "the runner up" trước con mắt ngạc nhiên của mọi người làm cùng
chỗ.
Đó
không phải là điều duy nhất người bản xứ không hiểu những người tỵ nạn,
những người Mỹ gốc Việt lưu vong. Họ cũng không hiểu tại sao rất nhiều
người Việt Nam nhỏ bé ốm yếu vẫn đội mưa đội gió hàng giờ giương cao
những tấm biểu ngữ "Human Right for VietNam", "Freedom for VietNam" ở
một góc đường nào đó trong đời sống lạnh lùng, đầy tất bật của đất nước
Hoa kỳ.
Sau
khi đã ổn định, -đã có một "career" đàng hoàng thay
cho cái "job" để kiếm sống - có thời tôi đi dạy thiện nguyện cho một
trường Việt ngữ ở điạ phương, học sinh là các em teenagers. Dù cùng tuổi
nhưng học trò của tôi bây giờ vô tư, ngây thơ, khác xa các em trong
trại tỵ nạn chững chạc, trưởng thành trước tuổi.
Ở
trường Việt ngữ, ngoài bài giảng từ sách của trường, thì giờ còn dư,
chúng tôi giảng trích đoạn từ tác phẩm "Mùa hè đỏ lửa" của nhà văn Phan
Nhật Nam, từ bài thơ bất khuất "Nếu ai hỏi" của nhà thơ Nguyễn
Chí Thiện để các em hiểu rõ hơn giá trị của tự do, và biết yêu thương
cha mẹ hơn, biết ơn cha mẹ các em đã hy sinh rất nhiều để các em có được
ngày hôm nay.
Đời
sống ở Mỹ vốn tất bật, nhưng một phút bình lặng nào đó của tâm hồn, dù
đang bị kẹt xe trên một xa lộ xe cộ tất tả ngược xuôi hay đang ở trong
một cuộc họp ở sở, đầu óc tôi vẫn lang thang về với quê nhà, và buồn
thay, bao giờ cũng vậy, mùi vị đắng nghét như đang bị "mửa mật", mùi vị
chua cay của
một thời vẫn hiện về, rõ ràng, mồn một như chuyện hôm qua.
Và
có một lần "chuyện hôm qua" càng rõ nét hơn. Đến thăm Massachusetts
Institute of Technology (MIT) nổi tiếng về chuyên ngành Toán và Kỹ
thuật, đang ngồi chờ người bạn ở cafeteria của trường, bỗng một sinh
viên người Á châu đi qua, đi lại trước mặt tôi nhiều lần. Sau cùng, anh
ta dừng lại, lịch sự hỏi bằng tiếng Mỹ:
- Xin lỗi, chị có phải là cô Thuyên ở trường Trung học Pulau Bidong năm 1988 không?
Tôi trả lời bằng tiếng Việt:
- Đúng rồi, em có thể nhắc cho tôi nhớ em là ai không?
Người thanh niên vui mừng, rồi bằng một thứ tiếng Việt rõ ràng và lễ độ, anh ta trả lời:
- Em là Hanh đây chị, em học cùng lớp với Huyên và Việt ở Pulau Bidong. Chị nhớ em không?
Hanh
vẫn nhận ra tôi sau mười lăm năm không gặp, nhưng tôi thì không thể
nhìn ra được anh thanh niên cao lớn chững chạc trước mặt mình là cậu bé
đen nhẻm, chững chạc, chăm học ở trại tỵ nạn năm xưa
Hanh
lúc đó đang ở năm cuối của chương trình Tiến sĩ Toán, như ước mong ngày
nào em đã trình bày trong một giờ thực tập nói tiếng Anh ở lớp học nhỏ
xíu, mái lợp tôn thô sơ giữa đảo Pulau Bidong. Hanh kể cho tôi nghe về
chuyện em đến Mỹ một mình ở tuổi mười hai, cùng với một nhóm người Việt
Nam tỵ nạn đặt chân đến Mỷ ở phi trường San Francisco, Hanh đổi máy bay về Massachusetts. Đi một mình, dưới mười lăm
tuổi, nên Hanh được một cô Stewardess đích thân dắt lên máy bay trước.
Ra
đón cậu bé tỵ nạn Việt Nam ở phi trường Logan Boston- là đại diện của
một tổ chức thiện nguyện và cha mẹ nuôi của Hanh. Đó là một gia đình
ngươi Mỹ gốc Tiệp Khắc, qua Mỹ tỵ nạn từ thập niên 60s. Dù chưa bao giờ
có ý định xin con nuôi, nhưng thấy Hanh là một cậu bé mới mười một tuổi
vượt biển một mình, không có thân nhân, nên họ muốn đưa Hanh về nuôi.
Cả hai ông bà đều dạy Trung học. Ông dạy Toán, bà dạy Home Economics
(tương tự như môn Nữ công gia chánh ở Việt Nam). Người con duy nhất đi
học xa, ông bà vẫn làm việc thiện nguyện ở một Nhà thờ Tin lành vào cuối
tuần. Khi thấy tên Hanh, một em nhỏ tỵ nạn Việt Nam mới mười một tuổi,
không có thân nhân ở Mỹ, được nhà thờ tìm người bảo trợ, họ xin nhận
Hanh làm con nuôi. Vẻ chín chắn cùng sự khôn ngoan trước tuổi của Hanh
đã chinh phục được lòng thương yêu của bố mẹ nuôi người Mỹ từ lúc đầu.
Vì cả hai ông bà đều là nhà giáo, Hanh lại có căn bản
về cả tiếng Anh lẫn học lực, lại chăm chỉ học hành nền em được vào
thẳng lớp bảy như các học sinh bản xứ mà không gặp trở ngại nào.
Lên
Trung học, Hanh tốt nghiệp thủ khoa Trung học. Với sự hướng dẫn quý báu
của cha mẹ nuôi, với thành tích học tập xuất sắc trong bốn nâm Trung
học, cậu bé Hanh tỵ nạn năm xưa nhận được học bỗng toàn phần của MIT, trong niềm hãnh diện của cha mẹ nuôi ở Mỹ lẫn cha mẹ ruột ở Việt Nam.
Giữa
thập niên 90s của thế kỷ hai mươi, ba mẹ sinh thành cùng hai em của
Hanh được qua Mỹ theo chương trình nhân đạo HO. Vậy là Hanh có đến hai
ông bố, hai bà mẹ, và hai gia đình cùng ở tiểu bang Massachusetts, trong
hai thành phố kế cận nhau
Không
muốn làm mất lòng gia đình nào, và để được tập trung học tập, Hanh vào
nội trú trong MIT. Mổi thứ bảy về với cha mẹ ruột, ăn món ăn Việt Nam do
mẹ nấu, nghe ba kể về những đọa đày ông phải gánh chịu trong các trại
"cải tạo". Và mỗi chủ nhật, về lại căn phòng thân thuộc mà cha mẹ nuôi
đã dành cho Hanh từ ngày cậu bé Việt Nam, da còn đậm màu nắng gió của
trại tỵ nạn, chân ướt, chân ráo đến Mỹ. Căn phòng dù không còn được dùng
thường xuyên, nhưng trong closet vẫn còn treo hai bộ áo quần kỷ niệm
của Hanh, một bộ Hanh mặc khi mới
đến Mỹ được người bảo trợ ra đón, và bộ kia là bộ áo quần đầu tiên Hanh
được bố mẹ nuôi mua cho. Ở một góc bàn học, vẫn còn cái lọ thủy tinh có
cắm hai lá cờ nhỏ, một sọc trắng đỏ với năm mươi ngôi sao của Mỹ, một
màu vàng với ba sọc đỏ của Việt Nam. Trên tường vẫn còn hình Hanh năm
mười tám tuổi, chững chạc trong áo mũ và dây choàng thủ khoa
(valedictorian) ngày tốt nghiệp Trung học.
Một
chi tiết rất cảm động trong câu chuyện của cậu bé tỵ nạn ở Pulau
Bidong năm xưa là hồi mới đến Mỹ mỗi lần được cho kẹo chocolate, Hanh
chỉ ăn một phần nhỏ và để dành hầu hết kẹo để gởi về Việt Nam cho hai em
và cho các bạn Điều "bí mật" đó bị phát hiện khi hai ông bà Mỹ thấy cậu
con nuôi ăn uống rất chừng mực từ tốn nhưng luôn luôn xin được mua thêm
chocolate. Kẹo "để dành" thường được Hanh gói cẩn thận trong những túi
nylon dán kín để trong một góc tủ áo quần. Halloween đầu tiên ở Mỹ, đi
học về, làm xong bài vở, trời vừa sụp tối, Hanh xin phép ba mẹ nuôi cho
đi xin kẹo. Cậu bé miệt mài đi bộ một mình trong thời tiết se lạnh đầu
mùa thu ở miền Đông Bắc trên bốn năm con đường, gõ cửa từng nhà xin kẹo.
Kêt quả rất khả quan, sáng hôm sau Hanh gởi được một thủng kẹo mười hai
lbs (khoảng
5kg) về Việt Nam mà cước phí còn cao hơn cả tiền mua kẹo. Có nguồn gốc
là người Tiệp Khắc, một thời đã phải sống dưới chế độ Cộng sản, bố mẹ
nuôi của Hanh hiểu ngay mọi chuyện. Và ông bà càng quý Hanh, cậu bé Việt
Nam tuổi còn nhỏ nhưng tấm lòng đã rất lớn.
Đến phiên tôi, tôi cũng kể cho Hanh nghe giòng đời đã đẩy đưa tôi từ trại tỵ nạn năm xưa đến California như thế nào.
Có nằm mơ, tôi cũng không tưởng tượng nổi mình gặp lại được cậu học trò
đen nhẻm vì vị mặn của gió biển ở Mã Lai, có đôi mắt sáng nhưng lúc nào
cũng buồn ở trường Trung học trên đảo Bidong ngày nào.
Ước
gì tôi cũng gặp được Huyên và Việt, cũng như đã hội ngộ rất bất ngờ với
Hanh ở một góc trường MIT ở miền Đông Bắc nước Mỹ.
Nhưng dù chưa hay không có dịp tái ngộ với Huyên và Việt, tôi vẫn tin
hai em đã rất thành công như Hanh, chứng minh mình có thể làm được nhiều
điều, chẳng hạn như chuyện học hành, mà có một thời ở trong nước, sau
tháng 4/75, chình quyền không cho phép mình làm.
Tất cả chúng tôi đều
giống nhau ở chỗ phải xa nhà, bỏ đất nước ra đi một mình, dù lúc nào
trong tâm tưởng của chúng tôi cũng có một vị trí trang trọng cho quê
hương chôn nhau cắt rốn đã phải bỏ lại sau lưng. Chúng tôi đã phải mang
cả sinh mạng của mình ra đánh cuộc với định mệnh, với đại dương; một cái
giá không một khoán tiền nào, dù lớn đến đâu có thể mua được. Những
được mất với cuộc đời hãy còn ở trước mặt, nhưng chắc chắn chúng tôi sẽ
cố gắng không ngừng để xứng đáng với cái giá mình phải đánh đổi.
Chia
tay Hanh hôm đó, tôi mang theo câu nói của Hanh với khuôn mặt rất
nghiêm trang, già trước tuổi, và vẫn với đôi mắt buồn xa vắng như lần
đầu tiên tôi gặp em ở trường Trung học trên đảo tỵ nạn:
-
Điều em vui nhất là đã đền đáp được phần nào ơn nghĩa sinh thành của
cha mẹ ruột và ân tình cưu mang của bố mẹ nuôi. Em vẫn cố gắng hết mình,
cố gắng đến hết cuộc đời để luôn làm cho cả Ba Mẹ lẫn Mommy,
Daddy của em vui. Điều duy nhất không chắc em có làm được hay không, là
"gánh sơn hà" mà đôi lúc Ba em và các bác, các chú cùng thời vẫn nửa
đùa nửa thật là đã trao lại cho thế hệ của mình
Hanh dừng một chút rồi hỏi một câu mà đến bây giờ tôi vẫn chưa biết cách trả lời:
-
Gánh sơn hà nặng lắm một mình em hay cả hai chị em mình không thể nào
gánh nổi! Chị ơi, làm thế nào để cả thế hệ của mình đủ sức gánh nổi sơn
hà hả chị?
Câu
hỏi đó cứ quanh quẩn trong tôi và chắc là phải còn lâu, lâu lắm, tôi
mới biết được câu trả lời chính xác Nhưng tôi tin là chỉ cần một phần
mười của một thế hệ Việt Nam (cả ở hải ngọai lẫn trong nước) biết đoàn
kết, có nhiệt
tâm gánh vác non sông với chí khí của Trần Quốc Toản, với lòng yêu nước
của Nguyễn Thái Hoc. và với đầu óc của Lê Quý Đôn thì gánh sơn hà sẽ
nhẹ nhàng như cái cặp đi học rất thân thuộc của một thời đèn sách.
(Viết cho Lan Hương, Tiến, Tuấn và những thuyền nhân "đi biển" một mình) |
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire