Lê Hữu Uy
LÀNG NHƠN ÁI 200 NĂM KHAI KHẨN
Bài 3
VI. LÀNG NHƠN
ÁI ĐỊA LINH NHÂN KIỆT
Làng Nhơn Ái có nhiều gia đình
trung lưu cho con du học bên Pháp hay ra Hà Nội học cao đẳng, nhất
là bắt đầu thập niên 1920. Trung học thì gởi xuống Sóc
trăng học trường La San, hay qua Mỹ Tho học Collège de My Tho, hoặc lên
Sài Gòn học Pétrus Ký. Đến năm 1927 Cần Thơ mới có
trường Collège de Can Tho (Sau này là Trường Phan Thanh Giản) thì
học sinh ở Cần Thơ mới học trường này.
Truyền thống “nề nếp” học
hành đó tạo nên một số con cháu sau này mà người
ta gọi Nhơn Ái là vùng địa linh nhân kiệt.
Làng Nhơn Ái có các giòng họ có
nhiều người nổi tiếng, cứ nhìn vào sự hưng thịnh của
họ mà người ta có thể biết được làng thăng trầm
như thế nào.
A . Các giòng họ:
Các giòng
họ có đông đảo con cháu và thành công nhất đó
là hai họ Lê và họ Trần.
1- Gia tộc ông Lê Tam: Đến đời thứ 4 do ảnh hưởng của
ông Hội Đồng Giáp nên một số con cháu theo ông làm ăn.
Mua bán lúa gạo, mở công ty xuất nhập cảng, công ty dịch vụ
trong lảnh vực thương mại. Họ trở thành những thương gia giàu
có như: Ông Lê Hữu Thuận, Lê Hữu Sáu, Nguyễn Duy Thăng,
Lê Hữu Trí, …Đổ đạt thì có các ông Lê Hữu
Chính (Bác vật Chính), Lê Hữu Thượng (Kỷ sư), Diệp Thị
Nguyên (con gái út của ông Hội Đồng Giáp) đổ Thạc
sĩ, làm Tổng Thư Ký tòa đại sứ Việt Nam tại Paris. Cô
Lê Hữu Như Khuyên, một võ sư Vovinam trẻ nhất môn phái,
đoạt nhiều huy chương vàng toàn quốc, được phong danh hiệu
“Kiện Tướng Quốc Gia”.
Con
cháu ra nước ngoài theo hai đợt: 1954 qua Pháp và 1975 qua Mỹ. Số
còn lại sau 75 bị các đợt đánh tư sản mại bản qua
chiến dịch đổi tiền:
-
Chiến dịch X1, tháng
9/1975,
- Chiến dịch X2, tháng 5/1978,
-
Chiến dịch X3, tháng
9/1985.
Theo chiến dịch đánh
gục tư sản của chính quyền cộng sản Việt Nam, một số đông
họ thực sự bị ngã gục.
2- Gia tộc ông Lê Đăng Chánh: Họ là những nhà nho cấp tiến. Khi phong trào Cần Vương,
Văn Thân, Đông Du liên tiếp thất bại, dân làng Nhơn Ái
nhất là con cháu ông Lê Đăng Chánh ủng hộ lập trường
của ông Phan Chu Trinh theo Tây học, nâng cao dân trí, cải tạo xã
hội để rồi lột ách thống trị của thực dân. Do đó
làng Nhơn Ái có nhiều cậu công tử theo Tây học và du
học tại Pháp. Nhờ khuynh hướng này nên đã đưa làng
Nhơn Ái trở thành giàu có nhất Nam Kỳ trong đầu thập niên
1940. Đáng lưu ý ở 2 sự kiên:
* Ông Lê Quang Huính (chữ “Huính” viết i ngắn) do thư
ký làm khai sanh viết sai chính tả, theo đúng là “Huýnh”.
Ông Lê Quang Huýnh tham gia phong trào của ông Phan Chu Trinh bị Pháp bắt
đưa qua Pháp học vì còn là học sinh vị thành niên dưới
18 tuổi, nếu không đi sẽ bị ở tù. Cùng đi đợt này
có hai người nữa là ông La Dolce Vita (không nhớ tên Việt) khi
về nước ông viết những quyển sách ngắn lấy bút hiệu
là Vị Tâm. Một người nữa không nhớ tên khi về nước
mở trường tư thục dạy học (theo lời kể của bác sĩ Lê
Hiếu Để là con của ông Huýnh). Ông vai chú của Thủ Tướng
Lê Văn Hoạch.
* Ông Trương
Duy Toản, (xin xem ông Trương Duy Toản ở phần sau) cũng có quan hệ
với ông Cường Để và ông Phan Chu Trinh.
Trong gia tộc ông Lê Đăng Chánh có nhiều người
nổi tiếng như: Bác sĩ Lê Văn Hoạch làm Thủ Tướng, ông
Lê Quang Hộ làm Bộ Trưởng Nội Vụ, ông Lê Quang Trường
làm Tổng Trưởng Tài Chánh, ông Lê Quang Huýnh làm Tổng
Giám Đốc Nha Ngoại Thương, ông Lê Quang Minh Giám Đốc Nghi
Lễ Phủ Thủ Tướng sau làm Tham Vụ Ngoại Giao tòa Đại Sứ
VNCH tại Hoa Kỳ, các Bác Sĩ: Lê Quang Tuấn, Lê Hiếu Để,
Lê Hữu Chí, Lê Thị Ngọc Dung, Lê Thị Hải Yến, Lê Thị
Bích Liên ... Chuẩn Tướng Lý Bá Hỷ, Tư Lệnh Phó Biệt
Khu Thủ Đô, gọi Bác sĩ Hoạch bằng cậu ruột.
3- Gia tộc ông Trần Văn Chiến: Hai anh em ông Trần Văn Chiến là tướng
võ thời vua Minh Mạng quê ở quận Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên,
bỏ vào Nam lập nghiệp. Người em đi lạc nên định cư ở
Cai Lậy tỉnh Mỹ Tho. Gia tộc này cũng là một giòng họ lớn,
giàu có và cũng có nhiều nhiều người khoa bảng: Ông Trần
Ngọc Lân, làm giám đốc Hợp Tác Xã Nông Nghiệp miền
Tây Nam Phần, sau này nâng lên cấp toàn quốc trong chương trình
viện trợ của Hoa Kỳ. Các bác sĩ Trần Ngọc Bá, Trần Ngọc
Thành, ông Trần Ngọc Thượng Thanh Tra Giám Sát Viện, các Kỷ
sư: Trần Văn Gia, Trần Ngọc Tín, Trần Ngọc Trí, …
Cả hai giòng họ Lê và họ Trần cùng
một số gia đình khác đều có con cháu ở hải ngoại
khoa bảng và thành đạt trong lảnh vực kinh doanh trở thành triệu
phú. Đến nay con cháu của 3 giòng họ này đến đời
thứ 10. Chúng tôi chỉ ghi lại một số con cháu sinh vào thập
niên 40 tại làng Nhơn Ái, hay sĩ quan từ cấp Trung Tá trở lên
và những người rời làng thì không kể.
B. Một số họ khác:
- Họ Phạm, ông Phạm Tân làm Lảnh sự của Pháp
tại Vân Nam Trung Hoa, một người khác đổ Tiến Sĩ, …
- Họ Thái, ông Thái Văn Dành là tổ tiên của ông
Bá Hộ Nhiêu (Thái Văn Nhiêu) ở cách vàm Trà Ếch khoảng
2 Km, có các con cháu là Bác sĩ Thái Ngọc Ẩn (
Ảnh bên trái), Trung Tá Thái Lê Trương, quận Trưởng
quận Hồng Ngự (Cao Lảnh), Thái Kim Anh Giáo sư, …
C. Một số khác
cũng là con cháu làng Nhơn Ái:
1. Thời Pháp:
- Ông Lê Bá Cang (con nuôi của ông
Lê Quang Chiểu) và ông Huỳnh Ngọc Bỉnh (rể ông Lê Quang Nho)
làm Hội Đồng quản hạt.
- Đốc Phủ Ngân, tỉnh Trưởng Vũng Tàu trước
năm 1945 (gánh họ Nguyễn ở Rạch Chuối gần Thánh Thất Cao Đài).
2. Thời Việt Nam Cộng Hòa:
- Đại Tá Nguyễn Vạng Thọ, Chánh Án tòa án
quân sự đặc biệt.
- Dược sĩ
Nguyễn Thị Sương (em Đại Tá Thọ).
- Đại Tá Nguyễn Lễ Trí, theo ông Dương Văn
Minh.
- Đại Tá Nguyễn Lễ
Tín. Hai ông Đại Tá Trí và Tín là con của ông Nguyễn
Lễ Nghi.
- Đại Tá Hồ Văn
Thành, chỉ huy trưởng Quân Vận vùng 3.
- Trung Tá Hồ Văn Khải.
- Trung Tá Nguyễn Thời Rê, Tỉnh Trưởng
tỉnh Long Xuyên.
- Trung Tá Lê
Quang Phát, Pháo Binh.
- Tiến sĩ Khoa
Học Trương Quang Sĩ (con ông Trương Quang Liêm).
- Ông Đinh Ký Ngọ, Bí Thư Nha Tổng Thư
Ký Bộ Công Chánh. Ông còn là Trọng Tài túc cầu. Nói
đến đá banh thì ai cũng biết đến Huyền Vũ và trọng
tài Ngọ.
- Ông Tám
Thọ, họ Lương, thuyền trưởng tàu viễn dương (hàng hải
dân sự), con ông cả Phúc ở vàm mương Điều.
- Dược sĩ Lý Thu (không rỏ chữ
lót) con ông Lý Hà một Hoa Kiều du học và tốt nghiệp tại
Pháp.
- Bác sĩ Huỳnh Hữu
Cữu, quê ở làng Nhơn Ái vì gia đình đông anh em nên
được người dì ở Cái Răng nuôi cho ăn học đổ
Bác sĩ Nhản Khoa.
- Ông Liêu
Quốc Nhỉ, nhà dịch thuật nổi tiếng dịch các tác phẩm
của Quỳnh Dao tiếng Tàu sang tiếng Việt.
- Soạn giả cải lương: Điêu Huyền. …
3. Sau năm 1975, thời
chính quyền Cộng Sản:
-
Họ Trần có ông Trần Ngọc Đăng, Thứ Trưởng Bộ Y Tế.
- Họ Lê có ông Lê Vũ Hùng,
Thứ Trưởng Giáo Dục và Đào Tạo, ông Lê Hữu Phẩm
Giám Đốc Ngân Hàng, ông Lê Quang Đệ Chánh sở Nông
Nghiệp thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại Tá Huỳnh Thanh Phương, Tham Mưu Trưởng Tỉnh
Đội.
Ba ông Đại Tá Khác
không rỏ họ:
- Đại Tá
Bé (tự Tám Giấm) tỉnh đội trưởng Cần Thơ.
- Đại Tá Chà (Bảy Chà, con thầy
Sang) làm Văn Phòng tổng kết chiến tranh tỉnh Cần Thơ.
- Đại Tá Nghĩa, Giám Đốc cảng
Trà Nóc.
- Thiếu Tướng
Huỳnh Thủ, Tư Lịnh quân khu 9.
-
Ông Trịnh Quang Hưng, Giám
đốc sở Văn Hóa.
- Thạc sĩ tin
học Trần Quang Thông.
- Tiến sĩ Nguyễn
Học Sĩ, dạy Đại Học Sư Phạm Cần Thơ.
- Ông Sáu Hóa, nhạc sư đàn tranh đoạt
huy chương vàng toàn quốc. ..
Có lẽ còn
nhiều thiếu sót, xin được các con cháu làng Nhơn Ái bổ
túc thêm.
D. Vài nhân vật nổi tiếng:
Vài nhân vật có nét đặc biệt và được
quan tâm nhiều đó là anh hùng Đinh Sâm, Cai Tổng Lê Quang Chiểu,
ông Trương Duy Toản, Thủ Tướng Lê Văn Hoạch, ông Lảnh
Sự Phạm Tân và ông Liêu Quốc Nhỉ .
1- Anh Hùng Đinh
Sâm:
Năm 1868 trước gót giày
xâm lăng củ giặc, khắp nơi dân chúng hừng hực khí thế
đấu tranh chống ngoại xâm. Ông Đinh Sâm một nông dân ở
rạch Trà Niềng làng Nhơn Ái là một người hào sảng,
giỏi võ, đứng lên qui tụ dân làng đánh giặc Pháp.
Dân chúng ủng hộ rất đông có trên 200 nghĩa quân từ
Ba Láng chạy dài vô tới Cầu Nhiếm Ba Se là địa bàn hoạt
động của ông. Hay tin ông Vĩnh ghé thăm ông Cai Tổng Mười
ở gần vàm Ba Láng, nghĩa quân tổ chức phục kích: giăng
dây luộc xéo ngang sông, nước ròng chãy xiết, chiến thuyền
của ông Vĩnh vướng dây tấp vào bờ. Người cận vệ
của ông làm nội ứng, nghĩa quân dùng câu liêm tấn công,
thiếu phòng bị nên ông Vĩnh bị giết chết. Sau đó quân
Pháp từ Cần Thơ kéo vô bắn giết, đốt phá làng để
trả thù. Ông Đinh Sâm có lần định đánh tòa Tham Biện
(Dinh Tỉnh Trưởng) ở Cần Thơ nhưng kế hoạch không thành. Sau
những trận chống trả sự càn quét của giặc, thế cô sức
yếu nhất là yếu kém về vũ khí nên nghĩa quân thất
bại. Ông bị bắt và bị giặc giết. Một số nghĩa quân
rút về vùng Thất Sơn. Cuộc khởi nghĩa của ông Đinh Sâm
tuy không thành công nhưng dân làng Nhơn Ái cũng cho giặc Pháp
một phen phải kinh hồn.
Được hung
tin anh hùng Đinh Sâm đền nợ nước ông Phan Văn Trị có
làm hai câu đối:
Võ kiếm xung thiên, Ba Láng giang đầu lưu
huyết hận
Văn tinh lạc
địa, Trà Niềng thôn lý đoái sầu nhan!
Tạm dịch là:
Võ kiếm lòa trời, Ba Láng vàm
kia còn máu hận
Văn tinh rơi
đất, Trà Niền thôn ấy đượm màu sầu!
2- Ông Cai Tổng Lê Quang Chiểu (1852-1924) (mộ bên trái): Là chắt của ông Lê Đăng
Chánh, là ông nội của ông Tổng Trưởng Tài Chánh Lê
Quang Trường. Khi còn trẻ, Ông là người hiếu nghĩa, hào
phóng và ưa thích văn chương. Sau đó làm Cai Tổng tổng
Định Bảo. Trong thời gian này Ông có quen biết ông Phan Văn Trị
nên kết bạn làm bạn vong niên. Ông tự nhận là học trò
của ông Trị chớ vốn liếng thơ văn của ông Chiểu học
từ gia đình không phải học với ông Phan Văn Trị. Vì khi
ông Trị tản cư đến làng Nhơn Ái thì ông Chiểu đã
trưởng thành, làm Cai Tổng và đã nổi tiếng giỏi thơ
văn rồi (theo lời kể trong giòng họ). Ông cũng có làm 10 bài
thơ liên hoàn, họa lại 10 bài thơ của ông Tôn Thọ Tường
với lập trường và khuynh hướng như ông Phan Văn Trị.
Bài họa lại thơ Tôn Thọ Tường
của ông Lê Quang Chiểu:
“Rèn lòng đinh sắt hãy còn
đây
Nín mẫm cho
qua cái hội này
Hạc lộn bầy
gà thương nỗi kẻ
Chồn mang lớp cọp gớm cho bây
Lỡ duyên cả nước đang chờ vận
Gặp lúc rồng mây há chẳn ngày
Sớm tính che phên ngừa gió cả
Cột rường chống chỏi sẽ lung lay”.
Mặc
dù là Cai Tổng nhưng không tích cực làm việc cho thực dân
Pháp. Sau đó Ông rủ áo từ quan, Ông cũng có làm mấy
bài thơ châm biếm những tay sai đắc lực cho Pháp như các
bài thơ “Con Bò”, “Chó cắn trộm”, Khóc quan Tổng
Đốc Cái Bè” (chửi xéo ông Trần Bá Lộc) … Năm
1903, Ông xuất bản tập thơ “Quốc âm thi hiệp tuyển” của
nhiều tác giả, là một trong những tập thơ bằng chữ quốc
ngữ in sớm nhất nước ta. (Chúng tôi sẽ trình bày đến
quý bà con những tài liệu, tác phẩm của ông Lê Quang Chiểu
khi có dịp). Nữ sĩ Trần Ngọc Lầu, vợ thứ hai của ông Chiểu
cũng giống như chồng tôn ông Phan Văn Trị là thầy chớ không
có học với ông Trị. Vốn liếng thơ văn của bà học từ
thân phụ là cụ Thủ Khoa Trần Xuân Sanh ở Vĩnh Long.
3- Ông Trương Duy Toản: Hiệu là Mạnh Tự, quê ở Vũng Liêm, Vĩnh Long. Ông làm
chủ bút tờ báo Trung Lập. Là một nhà văn, nhà báo tiền
phong, Ông cũng còn là một soạn giả sớm nhất có công soạn
nhiều bài ca ra bộ.
Năm 1913, Ông
Toản theo ông Cường Để xuất du nhiều nơi như Hồng Kông,
Trung Hoa, Đức và Pháp để vận động cách mạng. Ông
Toản nhận sứ mạng đem thơ của ông Cường Để gởi chính
phủ Pháp cho ông Phan Chu Trinh để nhờ chuyển giao. Lúc đó Đức
- Pháp đánh nhau nên các ông Trương Duy Toản cùng đi có
ông Đổ Văn Y và ông Phan Chu Trinh bị Pháp bắt giam vào nhà
tù La Santé. Sau đó chính phủ Pháp xét thấy không có
gì liên quan tới Đức nên được trả tự do. Nhưng hai ông
Toản và ông Y bị trục xuất về nước. Ông Toản bị đưa
về quản thúc tại làng Nhơn Ái. Ở đây Ông kết giao
với những người có tinh thần chống Pháp và suốt thời gian
lưu ngụ ở làng Nhơn Ái Ông chú tâm phát triển phong trào
đờn ca ra bộ, tiền thân của ngành ca kịch cải lương miền
Nam nên được xem là ông tổ của ngành Cải Lương.
Ông gởi gấm tâm tình mình qua các
tác phẩm, bộc lộ nổi câm hờn và khát vọng của người
dân bị trị qua một bài hát thể điệu hành vân:
“Mật anh hùng, mật yên hùng
Giống Triệu Thường Sơn
Đường cung kiếm, cái chí nam nhi
Núi sông là phận.
Từ đây quyết vẫy vùng cho sóng dậy
trần ai .
Rền một trời
đùng đùng xao động.
Tài oanh liệt mấy ngọn gươm vàng
Rạch một sơn hà, mặc dầu ngang dọc
Giửa trời đây sợ ai ?
Công hầu vương bá,
Thả giửa giang hồ, cây núi tưng bừng
Mặc sức tung hoành, chơi hoành chơi
.
Ngang triều đình đứng
riêng một nơi,
Công hầu khanh
tướng, làm chi cho nhọc tấm thân”.
(Đề cao nhân vật Từ Hải trong truyện kiều,
soạn vào khoảng năm 1918-1922).
4- Thủ Tướng Lê Văn Hoạch (1886-1978)
(Ảnh trái): Ông tốt nghiệp Y Khoa ngành
Nhản Khoa tại Hà Nội. Sau khi đổ đạt, thành danh làm đến
Thủ Tướng Chính Phủ thời Nam Kỳ Quốc. Bác sĩ Hoạch là
Bảo Sanh Quân, chức sắc cao cấp trong đạo Cao Đài. Ông là
ông Cả cuối cùng của làng Nhơn Ái vì từ năm 1945 làng
Nhơn Ái không còn ông Cả nữa. Năm 1945 Ông làm Trưởng
Ty cảnh sát tỉnh Cần Thơ.
Trong thời gian làm Thủ Tướng Nam Kỳ Quốc, ông Hoạch
có phái ông Nguyễn Bá Chưởng vào tiếp xúc với Việt
Minh. Trọng tâm công tác điệp báo này là móc nối với
Trung Đoàn Tây Đô, bí số là 122 (?) về với phe Quốc Gia.
Công tác thất bại, ông Nguyễn Bá Chưởng bị Việt Minh giết
ở ngọn sông Cái Bé, Rạch Giá. Trung Đoàn Tây Đô
là một đại đơn vị võ trang duy nhất của Việt Minh. Có
lần đánh nhau với một Trung Đoàn của Pháp ở tỉnh Sóc
Trăng, cả hai bên đều bị tổn thất nặng nề. Đơn vị
của Pháp do ông Dương Văn Minh chỉ huy tơi tả chạy về Sóc
Trăng (lúc đó ông Minh mới là sĩ quan cấp tá, sau này
lên đến Đại Tướng). Trung Đoàn Tây Đô do ông Huỳnh
Thủ chỉ huy tan rả xóa tên. Từ đó, lực lượng võ trang
của Việt Minh không còn thành lập đại đơn vị cấp trung
đoàn mà chỉ cấp tiểu đoàn, rút kinh nghiệm từ trận
đánh này, đại đơn vị dễ bị lộ khi hành quân làm
mục tiêu cho không quân và pháo binh của Pháp gây tổn thất
nhiều.
Thời Đệ II Cộng Hòa
Ông làm Quốc Vụ Khanh. Trong thời gian này, chính phủ Miền Nam có
phái ông Hoạch vào tận chiến khu D để mật đàm với
giới chức chỉ huy của cục R là cơ quan đầu não của Cộng
Sản tại Miền Nam. Nội dung của cuộc mật đàm không được
tiết lộ. Chỉ có các vị lảnh đạo cao cấp Miền Nam và
Cục Trung Ương Tình Báo Sài Gòn mới biết mà thôi. (Xin
quí vị nào biết về vụ đó hãy vén màn bí mật
nho nhỏ của trang lịch sữ này).
Bác sĩ Hoạch không phải chỉ giỏi về nhản khoa mà
còn giỏi về môn giải phẩu nữa. Có lần giải phẩu ung thư
vú cho bà Lê Hữu Trọng, lành bệnh và còn sống đến
ngày nay tại Phong Điền. Nếu có cuộc giải phẩu quan trọng thì
bác sĩ Hành và bác sĩ Diêu từ Cần Thơ vào phụ. Có
ông y tá Mẹt làm phụ tá thường trực tại bệnh xá.
Vùng hoạt động của Ông rộng lớn, nhiều bệnh nhân đến
từ xa như: Cầu ngang (Vĩnh Bình), Vĩnh Châu (Bạc Liêu), Châu Giang
(Châu Đốc), …Có lần bác sĩ Hoạch giải phẩu mắt bị
mù cho ông Bang Tộ, chủ hảng rượu Công Xi (còn gọi là
rượu máy) Trà Ôn. Để đền ơn bác sĩ Hoạch làm
cho Ông sáng mắt lại, ông Bang Tộ mua tặng chiếc xe hơi thể thao
đắt tiền nhất thời bấy giờ hiệu Amica.
5- Ông Lảnh
Sự Phạm Tân:
Có lẽ Ông
là người Việt Nam đầu tiên giử chức vụ cao cấp trong chính
quyền thuộc địa của Tây. Ông làm tới chức Lảnh Sự
của Pháp tại Vân Nam Trung Hoa (Lảnh Sự chớ không phải nhân viên
tòa Lảnh Sự).
Trước kia đỗ
Tú Tài, Ông làm công chức cho Pháp. Ông có dáng cao lớn
như người Pháp nên hay bị chế diễu: “To con như vậy mà
đi xách cạc-táp cho Tây!” Ông quyết chí đi du học
cho Tây xách cạc-táp cho Ông, và Ông đã làm được.
Được tin Ông về làng Nhơn Ái, từ các quan cấp Tỉnh
đến các quan địa phương, thân hào nhân sĩ, có cả
ban quân nhạc của Pháp … chuẩn bị đón tiếp Ông tại
cầu tàu (bến chợ Phong Điền củ). Nhưng chờ hoài không thấy
Ông đâu cả. Thì ra Ông đã đón ghe chèo về nhà
ở rạch Vông, rồi từ nhà đi bộ ra gặp quan chủ Tỉnh (Tham
Biện/Tỉnh Trưởng). Ý Ông muốn làm một con cháu làng Nhơn
Ái về thăm mà thôi. Các quan Tây, quan Ta lớn nhỏ bèn lục
đục giải tán.
6- Ông Liêu Quốc Nhĩ:
Một người Hoa tại chợ Phong Điền, là
nhà dịch thuật nổi tiếng được nhiều người biết đến,
Ông đã dịch một số sách của Quỳnh Dao từ chữ Tàu
ra chữ Việt.
E . Vài chú rể làng Nhơn Ái:
Làng
Nhơn Ái có 3 chú rể khá nổi tiếng: Ông Phan Văn Trị, Ông
Diệp Văn Giáp và Ông Huỳnh Công Miêng.
1- Ông Phan Văn
Trị: Người Tỉnh Gia
Định, sinh năm 1830 và mất năm 1910 tại làng Nhơn Ái. Ông
đậu Cử Nhân năm 1849, không ra làn quan. Khi Pháp chiếm 3 tỉnh
Miền Đông Ông lui về Bến Tre hợp cùng ông Đồ Chiểu
cố vấn cho nghĩa quân chống Pháp. Trong khi đó ông Tôn Thọ
Tường là một nhà nho ra hợp tác với Pháp. Ông làm thơ
kêu gọi sĩ phu ra làm việc với tân trào:
Ảnh:
Mộ Ông Phan Văn Trị
Tự thuật
Giang sơn ba tỉnh
hãy còn đây
Trời đất
xui chi đến nổi này
Chớp nhoáng
thẳng bon đường thép kéo
Mây tuôn đen
kịt khói tàu bay
Xăng văng chậm
tính thương đòi chổ
Khấp khởi riêng lo biết những ngày
Miệng cọp hàm rồng chưa dễ chọc
Khuyên đàn con trẻ chớ thài lay!
Ông
Phan Văn Trị họa lại bài thơ trên mở đầu cho cuộc bút
chiến lôi kéo nhiều sĩ phu tham gia, Ông Phan được mọi người
tán thưởng nể phục.
Tự thuật
Hơn thua chưa quyết đó cùng đây
Chẳng đã nên ta phải thế này
Bến nghé quản bao cơn lửa cháy
Cồn rồng dù mặc bụi tro bay
Nuôi muông giết thỏ còn chờ thuở
Bủa lưới săn nai cũng có ngày
Đừng mượn hơi hùm rung nhác khỉ
Lòng ta sắc đá há lung lay!
Sau
khi Pháp chiếm Vĩnh Long (Bến Tre còn thuộc Vĩnh Long) Ông Trị tản
cư về làng Nhơn Ái. Ông kết giao với các ông Bùi Hữu
Nghĩa, Huỳnh Mẫn Đạt, … tiếp tục yểm trợ tinh thần cho nghĩa
quân ở Miền Hậu Giang (Trích Đặc San Tiền Giang- Hậu Giang).
Ông mất 1910, được mai táng trên
đất ông Cai Tổng Chiểu, nay là phần đất của ông Lê
Quang Thừa (cháu nội ông Chiểu) tại ấp Nhơn Lộc I, làng Nhơn
Ái. Năm 1985, mộ ông được trùng tu khá khang trang.
Theo gia phả họ Đinh vợ ông Trị là
người trong giòng họ ông Đinh Sâm (có người phải đổi
họ Trần để tránh sự truy lùng của quân Pháp, sau cuộc
khởi nghĩa của ông Đinh Sâm) một lảnh tụ kháng Pháp (1868)
tại vàng Ba Láng chạy dài đến Cầu Nhiếm - Ba Se.
Ông Đinh Văn Sử là cháu ông
Đinh Sâm, vợ là bà Huỳnh Thị Thu, có 8 người con:
1- Ông
Đinh Văn Hậu,
2- Bà Đinh Thị Phượng, vợ ông Lê Túc
(con ông Lê Tam)
3- Bà Đinh Thị Hương, vợ ông Lê Ý
Mỹ (con ông Lê Đăng Chánh)
4- Ông Đinh Văn Trung, có 2 người
con là:
- Bà Đinh Thị Thanh, vợ ông Phan Văn Trị.
- Bà Đinh Thị Nhàn.
5- Ông Đinh Văn Hiếu
6- Ông
Đinh Văn Hớn
7- Ông Đinh Văn Thoại
8-
Ông Đinh Văn Tú,
là ông nội của ông Mười Bé hiện đang sống tại rạch
Trà Niềng.
Ông Phan Văn Trị có
4 người con: Bà Phan Thị Đào, Ông Phan Văn Tòng, Ông Phan Văn
Đường, và Bà Phan Thị Mai. Cháu, chít của ông Phan Văn
Trị hiện nay cũng đang sinh sống tại làng Nhơn Ái.
*Trên tuần báo Tri Tân số 75 ra ngày 10 tháng
12 năm 1942, nhà báo Kiều Thanh Quế đăng bài “Hoài niệm
vong linh Cử Trị” có đoạn:
“ … Tưởng ít ra cũng là một ngôi mả tầm thường,
nhưng hởi ơi! Không mộ bia, không tam cấp đá, không có gò
đất đấp vun lên, chỉ bằng phẳng một thảm cỏ xanh rì!
Chú thủ bộ thừa làng Nhơn Ái, chắc ngày nay không còn
ai mà làm sao biết được đó là nơi yên nghĩ ngàn
thu của một thi tài lỗi lạc, một trung thần nghĩa sĩ của bản
triều Pháp-Nam sơ giao như Cử Trị …” (Trích Quê Hương Xa Mãi Ngút Ngàn
trang 30).
*Có hai cụ ở làng
Nhơn Ái biết ông Phan Văn Trị và kể lại cho ông Lê Quang
Diệp là ông Lê Hòa Hiệp và ông Hương Hòa Khiết (1892-1992).
Ông Khiết ở gần Thánh Thất Cao Đài. Hai Ông đều kể
lại với tôi (Lê Quang Diệp) rằng: “Ông Phan Văn Trị đi
nhậu với bạn bè Ông thường cởi áo dài vắt lên vai,
ca hát nghêu ngao trên đường về …”. Qua bài báo Kiều
Thanh Quế và lời kể của Ông Lê Hòa Hiệp và ông Hương
Hòa Khiết thì cuối đời ông Phan Văn Trị sống trong cảnh
thanh bần.
2- Ông Diệp
Văn Giáp (Hội Đồng Giáp):
Hương lộ dọc theo sông Cần Thơ gọi là lộ Phong
Điền được trải đá. Các điền chủ, nhà giàu
khác thì đi ghe hầu 4 chèo, 6 chèo hay 8 chèo, có chạm trổ
sơn son thếp vàng mà thôi. Có lẽ chiếc xe hơi thường chạy
tới chạy lui trên lộ này là của ông Hội Đồng Giáp.
Ông Diệp Văn Giáp là người gốc
Hoa. Tổ tiên Ông lập nghiệp vùng Sóc Trăng. Ông có nhiều
ruộng đất ở các quận Đại Ngãi, Long Phú, Lịch Hội
Thượng (Gòi) và cù lao Dung, khoảng 25.000 mẩu. Tuy ruộng đất
có nhiều nhưng còn thua ông Trần Trinh Trạch, cha của công tử
Bạc Liêu (Trần Trinh Qui), người có trên 30.000 mẩu, là người
giàu nhất Việt Nam thời bấy giờ. Ngoài ruộng đất, ông Giáp
còn kinh doanh một số ngành nghề có liên quan đến lúa gạo
từ việc trồng lúa đến xuất cảng như cất nhà máy xay
lúa, sắm ghe chài, cất phố cho thuê, rạp hát, lập công-xi rượu
(hảng rượu máy), công ty xuất nhập cảng lúa gạo,...Cảng
Bải Xàu là nơi xuất cảng lúa gạo của vùng Ba Thắc (Sóc
Trăng - Bạc Liêu) có khi có đến 150 chiếc thuyền buồm Hải
Nam đậu chờ để lấy hàng. Khi nạn đói miền Bắc tháng
3 năm Ất Dậu (1945) làm hơn 2 triệu đồng bào ta chết đói
thì tại cảng Bải Xàu có tổ chức một đoàn ghe buồm
Hải Nam 10 chiếc chở đầy gạo đi cứu đói, nhưng chỉ có
2, 3 chiếc là ra đến Bắc. Số còn lại bị phi cơ đồng
minh bắn chìm trên đường đi dọc theo ven biển vì lầm tưởng
là đoàn vận tải của quân Nhật. Ông Hội Đồng Giáp
thường về làng Nhơn Ái vì đó là nhà vợ Ông
là bà Lê Thị Nghiệm, con gái ông Hương Sư Lê Hữu Thành
Thành.
3- Ông Huỳnh Công Miêng:
Là con của Lảnh Binh Huỳnh Công Tấn, du học và
tốt nghiệp tại Pháp. Về nước làm việc cho Pháp vài năm
thì từ quan sống cuộc đời miễn tử lưu linh. Ông có người
vợ là bà Lê Thị Túy, em gái ông Lê Quang Chiểu, một
người nổi tiếng là tiểu thư khuê các lại văn hay chữ
tốt. Ông Miêng không đi bằng ghe hầu như các nhà quyền thế
khác mà đi bằng ghe chài. Ông võ công rất cao, từ ghe đậu
giửa sông Ông rún chân nhảy nhẹ nhàng lên bờ hoặc biểu
diển nhảy từ dưới sân lên mái nhà dễ dàng.
Câu chuyện treo cô Hai Sáng lên cột
buồm là chuyện để đời. Khi đến cầu Nàng Mao thuộc tỉnh
Chương Thiện ngày nay, vì ganh ghét tiếng tăm của cậu cô
Hai Sáng cho đàn em hất đổ bàn đèn hút thuốc phiện
nên cậu bắt cô Hai Sáng treo lên cột bườm ghe chạy đến
vàm Nàng Mao mới thả xuống. Sau đó về Sài Gòn, cậu Hai
Miêng bị cô Hai Sáng phục thù rửa hận. Cô Hai Sáng cũng
là tay bản lảnh, cô huy động hơn 40 sát thủ đều là
hàng cao thủ đương thời, nhờ có ông Bang người Tàu
ở Chợ Lớn đứng ra hòa giải nên cậu Hai Miêng mới thoát
nạn.
Cuộc đời ông Huỳnh
Công Miêng được viết thành một quyển sách nổi tiếng
“CẬU HAI MIÊNG”.
VII. CHUYỆN KỂ LINH TINH:
1- Cai Tổng Nguyễn
Văn Vĩnh: Trong khi tinh thần
chống Pháp, không hợp tác với Pháp âm ỉ trong lòng người
dân làng Nhơn Ái thì có ông Nguyễn Văn Vĩnh ra làm Cai
Tổng. Thầy Cai Tổng này (không hiểu sao không gọi quan Cai Tổng như
quan Phủ, quan Huyện mà gọi là Thầy) bị dân Phong Điền, Láng
Hầm, Tầm Vu theo ông Đinh Sâm giết chết. Ông Vĩnh đi công tác
chỉ đem theo vài vệ sĩ, bị một toán nghĩa quân bất ngờ
xông ra đánh, thiếu phòng bị nên tử thương. (Theo lời kể
của con cháu ông Đinh Sâm và con cháu ông Vĩnh đều trùng
hợp nhau). Đầu thầy Cai Tổng bị nghĩa quân chém văng xuống
sông mất phải làm cái đầu bằng sáp mà chôn (1868). Chính
quyền Pháp treo giải thưởng ai tìm được cái đầu ông
Cai Tổng Vĩnh thì thưởng 1.000 đồng, là cả một gia tài kết
xù đối với người nông dân thời bấy giờ. Có một
bà cụ rất nghèo van vái: “Ông thần làng Nhơn Ái
linh thiêng hãy cho bà tìm thấy cái đầu của ông Cai Tổng
để bà lảnh thưởng cho đở cảnh nghèo khó”. Làng
Nhơn Ái có đình thờ ông Thần Hoàng, hể ai có việc
gì thì người ta đến đó van vái hay thề thốt: “
Tui mà có gian dối cho ông Thần làng Nhơn Ái văn họng”.
Vậy mà bà cụ được “ông Thần làng Nhơn Ái
linh thiêng” ban phước cho bà. Bơi xuồng ngang vàm Ba Láng thì
bà vớt được cái đầu ông Cai Tổng lờ đờ trôi
gần xuồng bà, bà lảnh thưởng và cái đầu thì trả
về cho gia đình ông Cai Tổng.
Lần đó, lảnh Binh Huỳnh Công Tấn là người hiểu
rỏ đường đi nước bước dẫn quân Pháp và lính
Mã Tà (Cảnh Sát) càng quét vùng này. Chỉ có dân
chúng phải kinh hoàng vì nghĩa quân rút đi hết từ lâu
đâu còn ở đó nữa.
2- Ông Lê Bá
Cang (hay ông Cai Cang): Ông Cai Cang làm Hội Đồng Quản Hạt, nổi tiếng
là đại điền chủ tại Cần Thơ. Sau kinh Xáng đào ngay
ruộng đất của Ông từ kinh Xà Xo đến kinh Ô Môn dài
hơn 20 km, lấy tên Ông đặt cho con kinh, gọi là kinh Cai Cang. Ông Lê
Bá Cang là con một tá điền nghèo bị mướn đi du học
thay thế cho con một nhà điền chủ. Chính sách của Pháp thời
đó khuyến khích nhưng thật ra gần như bắt buộc con nhà khá
giả qua Pháp du học. Ông Cai Cang sau đó đổ đạt và trở
nên giàu có. Ngôi nhà của Ông là ngôi nhà đồ sộ,
sang trọng. Có máy bay riêng, trên bộ có xe hơi, dưới bến
sông có ca-nô … Ông Lê Bá Cang có giúp một nhà điền
chủ khác, cho mượn bằng khoáng nhà, đất thế chấp cho chà
Chetty để vay bạc. Năm 1929-1930, thời kỳ khủng hoảng kinh tế nên
lúa mất giá, chủ nợ trả không nổi, do đó nhà cửa
ruộng đất của Ông bị chà Chetty thi hành (tịch biên). Ông
đành phải ở trong một căn phố hẹp trong chợ Phong Điền (củ).
3- Ông Hai Giỏi: Ông
là một người nông dân hiền lành trong làng. Người ta nói
hai ông bà khắc khẩu nên hay cải nhau, mà mỗi lần cải nhau thì
đánh nhau tưng bừng dậy xóm! Một phen đám con nít (đến
nay năm 2001, đám con nít này ở vào lúc tuổi … thất
thập cổ lai hy) bu quanh coi như đi coi “hát Sơn Đông”. Bà
đánh roi rất giỏi, có lẽ gốc Bình Định mà! Không
cần phải:
“Ai
ra Bình Định mà coi,
Con gái Bình Định đi roi, đi quyền”
Vì ở làng Nhơn Ái cũng có
nữa … Hai cụ đánh nhau bằng roi là cây tầm vong, dài non 2
mét dùng làm cây gài cửa. Bà có ý nhường ông
và chọc tức ông thôi, nên chống roi nhảy qua hàng rào cây
xương rồng trồng quanh nhà cao khoảng 2 mét. Ông tức quá nhưng
phải chạy vòng qua cửa để rượt bà. Bà lại nhảy qua
rào trở ra, thì ông lại phải chạy vòng qua cửa lần nữa
để trở ra. Một lần khác, hai cụ đang bửa củi mà cải
nhau, ông giận quá lấy củi phan bà . Nhưng bà bình tỉnh chụp
lấy từng cây củi chất thành một đống ngay ngắn. Khi ông
hết củi để phan thì bà quát: “Bây giờ đến phiên
tôi đây nghe! Đở nè …!” Quí vị có biết ông
phản ứng ra sao không? Ông áp dụng kế 36 của Tôn Tử là
“Dĩ đào vi thượng”.
Các cụ làng Nhơn Ái có nhiều người giỏi võ,
nổi tiếng nhất là ông Lê Hữu Lễ và ông Lê Quang Hiển
thuộc phái Tây Sơn, Bình Định.
4- Cậu Mười
Hai hay ông Cai Dư: Cậu
Mười Hai tên là Lê Hữu Dư, con Út thứ 12 của ông Hương
Sư Thành. Ông học hết ban Trung Học, không chịu đi du học, không
chịu làm việc cho Pháp. Con Út trong một gia đình giàu có
làm cậu công tử phong lưu là chuyện thường, khác với cách
phong lưu của công tử Bạc Liêu đem cả bao tiền để thi đua
đốt giấy bạc 100 đồng đung sôi nồi nước! 100 đồng
thời bấy giờ là 2 lượng vàng. Muốn phong lưu như ông Trần
Trinh Qui cũng không được vì diện tích cả cái làng Nhơn
Ái chỉ bằng khoảnh đất nhỏ của ông mà thôi. Phong lưu
ở đây là không phải quỵ lụy đồng tiền, biết “bao”
cho bạn bè, em út, xài tiền rộng rải, trọng cái tình, cái
nghĩa hơn của cải vật chất. Cậu Mười Hai thích đá gà,
hốt me là mấy môn cờ bạc thịnh hành thời bấy giờ. Cậu
cũng còn mê võ thuật, cũng là môn thể thao phổ thông thời
đó, Cậu thường lên đánh võ đài. Khi trưởng thành
người ta gọi cậu là ông Cai Dư. Cai ở đây không phải
cai đội hay Cai Tổng mà là một “Ông Trùm” - một tay chơi
nổi tiếng được mọi người nể mặt. Ông cùng người
anh là ông Bác Vật Chính lập đội banh làng Nhơn Ái.
Có một việc ông Cai Dư đảm trách
nhưng ít người biết, ông mạo hiểm vô U Minh để đưa
thầy thuốc Nhung (Nha sĩ Nguyễn Văn Nhung) đang là Ủy Viên của Ủy
Ban Hành Chánh Kháng Chiến Nam Bộ về Sài Gòn giử chức vụ
Tổng Trưởng Kinh Tế trong chính phủ Nguyễn Văn Tâm dưới thời
Quốc Trưởng Bảo Đại. Nhận thấy được dã tâm của
người Pháp, ông Nhung từ chức sau 3 tháng tham gia Nội Các. Người
ngạc nhiên không biết bằng cách nào mà ông Nhung từ U Minh
về Sài Gòn một cách bí mật và an toàn.
5- Ông Hồ
Viết Nghị: Ông Hồ
Viết Nghị là rể ông Cai Tổng Vĩnh, một nhà giàu có, dưới
bến sông có trồng hai cây kè từ chợ Phong Điền lên hướng
Cầu Nhiếm khoảng 500-700 mét.
Khi
xưa còn xài tiền kẻm Gia Long (1 quan là 600 đồng). Tiền phải
ví bồ chứa như chứa lúa, khi đi mua sắm phải có người
gánh tiền đi theo. Ông Nghị giàu đến đổi tiền đổ
vô bồ xài hoài không hết nên lớp dưới bị rỉ mục
phải cho người nhà lúc ban đêm (sợ người ta thấy) gánh
xuống ghe đem ra vàm Trà Niềng mà đổ ..!!!
Ở sau nhà có một hầm nuôi cá sấu,
mua đến hai ghe cá sấu từ miệt dưới (Sóc Trăng - Cà Mau)
đem lên bán, lớn nhỏ có đến 70-80 con. Nuôi cá sấu làm
kiểng coi chơi … Thỉnh thoảng bắt một con làm thịt ăn trở
bửa, heo gà ăn hoài cũng ngán…!
Đến khi ông mãn phần, con cháu cực kỳ bày
tỏ lòng hiếu thảo nên đám ma ông rình rang, linh đình
và quàng đến 6 (sáu) tháng mới đem chôn. Mỗi đêm
đều có gánh hát bội hát, vật heo gà cơm nước đãi
khách suốt nửa năm trời! Thấy thương ông bầu gánh hát
hơn hết! Thoạt tiên thấy hợp đồng hát liên tiếp sáu
tháng lại trả tiền hậu nữa thì ham. Nhưng đào kép làm
sao hát nổi 180 đêm liền, chưa kể đến tuồng không đủ
để hát, phải hát đi hát lại làm người ta chán bỏ
về … Lúc đầu là mùa khô, gặt hái xong rảnh rang có
nhiều người đến. Vài tháng sau sa mưa vào mùa cấy lúa
ai cũng bận, lại mưa dầm, gió lạnh, nên khách thưa dần …
lúc đó ông bầu gánh hát bội xin chủ nhà cho ngưng hát.
Không biết hai bên điều đình thế nào mà gánh hát
vẫn tiếp tục trình diễn. Thế là đào kép khan cổ rồi
tắt tiếng … không hát được nữa. Ông bầu bèn lạy
gia chủ xin hủy hợp đồng.
VIII. NHỮNG NĂM KHÓI LửA:
(Xin
xem tiếp Bài 4- Hết)
VIII. Những Năm Khói lữa .
IX. Ý Nghĩa Làng Nhơn Ái .
VIII. NHỮNG
NĂM KHÓI LỮA:
(Sẽ
post vào tuần tới)
IX. Ý NGHĨA LÀNG NHƠN ÁI
Nhơn là Người, Ái là
Tình. Nhơn Ái là Tình Người.
Khi làng đông
dân tách ra lập làng mới thì đặt tên là làng Nhơn
Nghĩa để vùng đất này được gọi là vùng đất
“ Tình Nghĩa Con Người”. Đây không phải chỉ có
trên cái tên của làng, mà thể hiện cách sống của dân
làng Nhơn Ái . Nó trở thành truyền thống từ buổi khai hoang
lập ấp. Những người đến trước đã an cư lạc nghiệp
thì thực hiện câu “Lá lành đùm lá rách” . Người
dân ở vùng đất mới này thích khôi hài nên mới thêm
một câu nữa: “Lá rách đùm lá tả tơi”. Họ không
nói suông. Trong những năm mất mùa đói kém, hay loạn lạc,
ở dưới bến sông của mấy cái nhà ngói có cái chòi
lá nhỏ trong đó có một khạp gạo và một hủ muối,
đôi khi là một hủ mắm nghĩa tình, đở lòng cho những
ai lở bước khi đi khẩn hoang hay đói khổ trong lúc chạy giặc
… Cảnh khốn khổ đó mà tổ tiên hoặc chính họ đã
từng trãi qua. Giá trị con người không ở tiền bạc hay huyết
thống, nhưng là ở thái độ tích cực: “ Lâm nguy bất
cứu mạc anh hùng” (Đối với đồng loại). “ Bần tiện
chi giao mạc khả vong” (Đối với bạn bè). Cung cách xử thế
đó mang đậm nét tình người.
Trong gia phổ gia tộc ông Lê Đăng Nguyệt, nguồn
gốc Qui Nhơn nơi xuất phát
phong trào Tây
Sơn: “ … vì loạn lạc Tây Sơn nên mới di cư vào
Nam Việt …”. Một triều đại lẩy lừng nhưng sao gọi là
loạn lạc Tây Sơn? Đó là vì vào những năm cuối thế
kỷ 18 đầu thế kỷ 19, cuối triều đại Tây Sơn, anh em Nguyễn
Nhạc, Nguyễn Huệ bất hòa đánh nhau. Khi Nguyễn Huệ mất (1792),
con là Quang Toản lên nối ngôi mới 10 tuổi lấy niên hiệu là
Cảnh Thịnh. Nguyễn Nhạc mất, con là Nguyễn Bão lên nối ngôi
bất mãn với vua Cảnh Thịnh nên bị vua Cảnh Thịnh bắt giết
đi. Vua Cảnh Thịnh còn quá nhỏ không đủ uy quyền để
ổn định triều đình. Tướng lảnh và các quan đại
thần giết hại nhau tranh giành quyền lợi nên triều đại Tây
Sơn chỉ tồn tại có 14 năm (1789-1802). Thế sự này làm cho sĩ
phu thời bấy giờ phải suy ngẫm!
Ba cây sao được
trồng từ lúc mới khai hoang, phải chăng để nhắc nhở con cháu
làng Nhơn Ái ngàn năm sau ghi nhớ câu:
“ Một cây làm chẳng nên non,
Ba cây chụm lại nên hòn
núi cao”.
(Ca
dao)
Dù là một triều đại lẩy lừng
cũng phải sụp đổ trong chốc lát chỉ vì thiếu đoàn
kết mà họ đã chứng kiến!
Gia Tộc Ông Lê Tam, cạnh cố đô Huế (Huyện Phong Điền.
Tỉnh Thừa Thiên) thì tại sao phải ra đi? Khi Nguyễn Ánh thắng
Tây Sơn lập nên nhà Nguyễn (1802) là vua Gia Long, ban hành luật lệ
khắc khe, cho phép trừng phạt cả họ hàng đến ba đời . Hình
phạt thì vô cùng man rợ, duy nhất trong lịch sữ, nhất là sự
trả thù đối với kẻ thù củ là Tây Sơn:
- Chém bêu đầu, treo đầu giửa chợ cho ruồi
nhặng đục khoét …!
- Ngựa xé:
Tứ chi của kẻ xấu số bị cột vào 4 con ngựa để xé
ra từng mảnh, trước khi chết trong khoảnh khắc còn thấy mình
bị phanh thây!
- Voi dầy, dùng voi dậm
cho thân thể dập nát ra như hành hình nữ tướng Bùi Thị
Xuân!
- Xử lăng trì, lột da người
đang sống, rồi lóc từng miếng thịt cho chó ngao ăn (loại chó
săn), như hành hình tướng Trần Quang Diệu!
- Người chết rồi cũng không yên, quật mồ lấy hài
cốt tán nhỏ trộn với thuốc súng bắn ra biển. Lấy cái
đầu lâu làm dụng cụ phóng uế cho lính, như trường
hợp đối với vua Quang Trung! Những hình phạt trả thù hết sức
rùng rợn đó chẳng có chút tính người chút nào
nói chi đến tình người!
Một người ở gần Huế, chán nhà Nguyễn; Một người
ở Qui Nhơn chán Tây Sơn, rồi họ cũng có cơ duyên gặp
nhau để cùng nhau lập nên vùng đất như họ hằng mơ ước.
Có lẽ chính những điều này là nguyên nhân sâu xa nhất
để họ đặt tên là làng Nhơn Ái – làng Nhơn Nghĩa,
một cách đặt tên làng độc đáo, độc nhất vô
nhị trên đất nước Việt Nam.
Đất Nhơn Nghĩa còn đó, sông Nhơn Ái còn
đây! Muôn đời chứa chan tình nghĩa con người, ai ơi còn
nhớ không?
LÀNG NHƠN ÁI, MỘT MẢNH ĐẤT HAI CHIẾN
TRƯỜNG
Năm
1946, Ủy Ban Kháng Chiến Hành Chánh Nam Bộ đặt tại làng Nhơn
Ái, Bộ Tư Lệnh Quân Khu 9 do Tướng Huỳnh Phan Hộ cũng đặt
Bộ Tư Lệnh tại đây, ở vàm rạch Cai Cẫm. Ủy Ban Kháng
Chiến cho làm 3 cái cảng: Một cảng xóc nọc bằng cây sầu
riêng, cau, dừa dưới bến sông nhà ông Hội Đồng Quí,
ở cuối ngọn sông Cần Thơ. Cảng thứ hai cũng xóc nọc bằng
cây có nhận chìm 2 chiếc ghe chài chở đầy gạch ở sông
Phong Điền, dưới bến sông nhà ông Lê Quang Toại. Cái cảng
chính là cảng Gạch, gồm 9 chiếc ghe chài chở đầy gạch
lấy từ các ngôi nhà trong vùng nhận chìm xuống sông để
làm cảng, tại Ba Cây Sao, dưới bến sông nhà ông Lê Đức
Thiệu (ông Cả Neo) để ngăn tàu Tây đánh thọc sâu vô
vùng kháng chiến, do đó nơi đây là bải chiến trường.
Làng Nhơn Ái bị tàn phá, điêu linh … Tàu Tây “phum”,
loại tàu đổ bộ LCM và LCVP có tháp cao bố trí đại
liên 30 hoặc 12, 7 mm để khi nước ròng mực nước sông xuống
thấp hơn bờ đất có thể từ tháp cao bắn xuống mục tiêu.
Cái tháp đó giống như cái chuồng gác chim cu nên dân
ta gọi là “Tàu Chuồng Cu”. Mấy chiếc máy bay “Cồng Cộc”
loại khu trục T.28 chúi mủi xuống bắn đại liên hay đại bác
20 mm, giống như con chim cồng cộc chúi mủi xuống bắt mồi nên
gọi là máy bay cồng cộc. Dưới sông là tàu, trên trời
máy bay, từng tràng đại liên xối xả trút xuống thôn làng.
Cau dừa xác xơ gảy gục, khắp nơi mịt mù khói lữa. Người
con gái làng Nhơn Ái dắt mẹ bồng em chạy giặc, ngoảnh nhìn
cảnh tan hoang của xóm làng mà rưng rưng ngấn lệ:
“ … Còn em giửa tuổi
trăng thề ước,
Lữa
cháy thôn làng, cau xác xơ …!”
N.X.H.Q.
Đó là
chiến trường với giặc Pháp.
Còn cái chiến
trường thứ hai là giửa các phe phái người Việt với nhau
cũng vô cùng thê thảm! Chủ trương “giết lầm hơn thả
lầm” của Việt Minh làm ban đêm chó không dám sủa. Rồi
thì sáng hôm sau có cái xác trong bao bố lềnh bềnh trôi tấp
vào cảng Gạch, đó gọi là “bịt miệng bao”. Còn cái
xác cột vào cục đá chìm xuống đáy sông thì gọi
là “đi mò tôm”. Đôi khi trôi tấp vào cảng Gạch
không phải một hai xác mà cả chục xác bị xỏ xâu! Ở
nhượng nơi gót chân bị cọng dây chì gài xỏ qua, hai tay
trói thúc ké ( hai tay trói quặp ra phía sau) rồi luồn vào cây
tre, đó gọi là “khất nhượng xỏ xâu”. Ai mà biết
được những xác đó là những ai? Nước lớn trôi
vô, nước ròng trôi ra! Cá tôm rỉa tưa tải hết đâu
còn nhận diện được. Nhưng có điều chắc chắn họ
đều là người Việt Nam: Đảng phái Quốc Gia? Đảng viên
Cộng Sản? Hòa Hảo ? Cao Đài ? Việt gian? Hay họ chỉ là những
nông dân chất phát không can dự gì đến chính trị? Có
trời mà biết ! Có oái oăm, oan trái không khi con người đối
với con người tàn tệ dã man như thế trên vùng đất
được mệnh danh là tình người?!
Đến năm 1954, thanh bình trở lại sau chín năm
khói lữa ngút trời, hoang tàn đổ nát. Lau sậy mọc dầy
đặc khắp nơi. Dân làng Nhơn Ái một số tản cư ra Cần
Thơ hay lên Sài Gòn rồi không trở lại. Một số vì mồ
mả ông bà mà họ đổ mồ hôi, sót con mắt lần nữa
như tổ tiên đi khai hoang cũng bằng cái dao phay, cái rựa quéo
ngày xưa đốn cây ruồng cỏ. Sầu riêng, chôm chôm, bòn
bon, cam … lần hồi đâm hoa kết quả. Rồi cái phảng, cái
cù nèo, bừa cào dọn đất, cái nọc cấy những cây
mạ xanh để ruộng đồng phục hồi sức sống.
Làng Nhơn Ái, một mảnh
đất hai chiến trường khốc liệt! Tàn phá quá nặng nề,
sâu xa. Mặc dù vẫn là một làng trù phú, nhưng hơn phân
nửa thế kỷ qua không thể nào phục hồi sự phồn thịnh như
xưa!
NHÌN LẠI CON ĐƯỜNG ĐÃ QUA
* Đầu thế kỷ 19:
Hơn hai trăm
năm trước những người đi khai khẩn làng Nhơn Ái, họ đi
trên chiếc xuồng độc mộc hay chiếc thuyền nan. Họ chống lần
qua mấy dề lục bình, thỉnh thoảng gặp cá sấu lờ đờ
ngâm mình dưới nước. Mấy bầy khỉ nghe động kêu lé
ché, khèn khẹt trên mấy đục bần rồi tuộc xuống túa
chạy, xa xa văng vẳng tiếng voi kêu, cọp rống … Họ phải quyết
liệt phấn đấu với thiên nhiên, thú dử … đốt rừng,
đốn cây làm ruộng, lập vườn. Từng tất đất không
biết bao nhiêu là mồ hôi đã tưới xuống cho mầm xanh vươn
lên.
Khoảng năm 1820
đầu đời Minh Mạng, Nhơn Ái có nhiều dân đến khai khẩn
nên thành lập Nhơn Ái thôn.
* Giửa thế kỷ 19:
- Năm 1853 đời vua Tự Đức, chính sách
nhà Nguyễn cho lập đồn điền chiến lược và dinh điền
trở lại để củng cố quốc gia sau những năm loạn lạc. Khuyến
khích mạnh mẻ dân Ngủ Quảng (Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng
Nam, Quảng Ngãi và Bình Định) vào Nam lập nghiệp. Từng đoàn
trên các chiếc ghe bầu tiếp nối công trình của người đến
trước khai khẩn đất đai rộng lớn, trù phú hơn.
- Thời Pháp xâm lăng
(1862), Pháp chiếm miền Đông, một số dân không chịu sống
dưới chế độ cai trị của ngoại bang nên tản cư về làng
Nhơn Ái. Đến năm 1867, miền Tây cũng lọt vào tay giặc, dân
tản cư về đây ngày càng đông hơn. Rất nhiều ghe xuồng
đậu dọc theo bờ sông, trên bờ mấy cái chòi lá cất
tạm bợ che mưa nắng qua ngày rải rác khắp nơi. Phần lớn
là nghĩa quân chống Pháp thất trận và các gia đình không
chịu hợp tác với Pháp. Lý do mà họ đến đây là
vì:
- Làng Nhơn Ái cách xa ảnh
hưởng của giặc,
- Làng dân cư đông
đúc có nguồn nhân lực,
- Làng trù
phú là có nguồn tiếp tế lương thực,
- Hội Tề làng không tích cực hợp tác với Pháp,
nói một cách khác là bao che cho nghĩa quân,
- Làng lại tiếp giáp với rừng kéo dài đến
U Minh, địa bàn rất thuận lợi cho cuộc kháng chiến chống Pháp.
Cuối thế kỷ 19, làng
Long Tuyền có 11,939 cư dân, làng Nhơn Ái có 10,464 cư dân, tương
đương với làng Tân An là tỉnh lỵ Cần Thơ lúc bấy
giờ với 10,000 cư dân (theo Guide annuaire illustré de la Cochinchine pour 1899 claude et cie
… Saigon).
* Đầu thế
kỷ 20:
- Năm 1908, đánh dấu sự thành công của hệ thống
kinh đào, một công trình to lớn nhất của nhà nước thuộc
địa tạo nên những cánh đồng mênh mông bát ngát. Bắt
đầu sự hưng thịnh vượt bực của làng, dư ăn dư để.
Làng Nhơn Ái chỉ có vài người mới có ruộng đất
“thẳng cánh cò bay”, “chó chạy vẹo sườn”
là ông Lê Bá Cang và ông Huỳnh Ngọc Bỉnh, nhưng đất
đó ở nơi khác. Phần lớn cơ bản vẫn là ruộng, sau đó
là vườn đặc sản cam, quit, sầu riêng … Họ còn kinh doanh
mua bán lúa gạo, lập nhà máy xay lúa, cất phố để buôn
bán hoặc cho thuê, không phải chỉ ở trong làng mà còn ra tỉnh
hay lên Sài Gòn làm ăn. Cho nên “thả cầm thi”, “đờn
ca”, “đá gà”, “đá banh” … là những sinh hoạt
rất sôi nổi là chuyện đương nhiên.
- Sau cuộc khủng hoảng kinh tế
năm 1929, ruộng đất trúng mùa liên tiếp 4-5 năm, giá lúa
tăng vọt, giàu lại giàu thêm! Họ đua nhau cất nhà Tây,
một số đã có từ trước. Từ đầu làng đi vô
có nhà của các ông Lê Quang Diên, Hội Đồng Quí, Hội
Đồng Chân, Nguyễn Bá Chưởng, ông Cả Đính, Trần Văn
Thống, Trần Văn Luyện, Lê Quang Xáng, Trần Ngọc Huấn, Trần Ngọc
Điển, Lê Quang Diệm, Lê Quang Hinh, Lê Quang Dệ, ông Cả Phúc,
Thái Văn Nhiêu, Thái Văn Mười, Thái Văn Chư … dài
vô hướng Cầu Nhiếm có nhà các ông Lê Bá Cang, Hồ
Viết Nghị, Lê Đức Thiệu (Ông Cả Neo), Lê Quang Hiển, Lê Hữu
Thành, ông Mười Thiệu, Lê Văn Ký, ông Giáo Tiến…
và cuối cùng ngang chợ Cầu Nhiếm là nhà ông Cai Tổng Nguyễn
Văn Vĩnh (còn một số không nhớ hết). Thường một làng
thuở đó có 5-7 nhà như thế là làng giàu có lắm
rồi. Chưa hết, họ sắm ca-nô có Bác Sĩ Lê Văn Hoạch,
ông Lê Bá Cang, ông Lê Quang Xáng. Xe hơi thì BS Hoạch có chiếc
xe đua hiệu Amica là loại xe đắt tiền nhất thời bấy giờ,
ông Mười Thiệu có chiếc xe hiệu Ariès, các ông Lê Bá
Cang, Hội Đồng Giáp, Ông Trần Ngọc Điển có xe Traction hiệu
Citroen. Nhà ông Điển ở bên kia sông nên phải cất nhà để
xe phía bên lộ ở gần lò vôi. Nhưng đó cũng là thường
thôi, có máy bay nữa! Đầu tiên là ông Lê Bá Cang, loại
thũy phi thoàng cánh đôi có dây sắt chằng chịt, đáp
dưới nước. Có lần ông Cang cho máy bay chạy cất cánh dưới
sông, ông Hoạch lấy ca-nô chạy rượt theo bị sóng làm lật
úp ca-nô. Về sau, ông Hoạch mua máy bay, thỉnh thoảng bay về thăm
Phong Điền, trước khi đi ông bay vài vòng đưa tay chào bà
con …! Đó là thời cực thịnh của làng Nhơn Ái! Năm
1943, làng Nhơn Ái là làng giàu có nhất Nam Kỳ, được
Thống Đốc Nam Kỳ đến kinh lý.
* Giửa Thế Kỷ 20:
Qua hai thời kỳ chiến tranh, làng Nhơn Ái bị “tàn
phá quá nặng nề” và “tàn phá rất sâu
xa”!
- Thời chiến tranh Việt-Pháp (1945-1954):
Tất cả chợ,
phố, cơ sở công nghiệp, những ngôi nhà đồ sộ …hoàn
toàn bị phá hủy, chỉ còn lại cái nền đúc. Bến
chợ thì còn cái cầu tàu đúc bê-tông bằng đá
trứng dưới bờ sông. Đến ngôi đình làng (tương đương
ngôi Đình làng Long Tuyền, Bình Thũy ngay nay) cũng không còn
dấu vết. Sự phồn thịnh của làng ở tiền bán thế kỷ
20 chỉ còn lại trong ký ức của các cụ (70 tuổi), nhưng trong
số này ngày nay không còn mấy ai.
Mọi kiến trúc trước năm 1945 đều thành
bình địa, có đến mấy trăm đàn ông, con trai dân làng
bị giết thả trôi sông hay rải rác khắp ruộng đồng! Đó
là sự “tàn phá quá nặng nề”!
- Tiếp theo là cuộc
chiến tranh Quốc Cộng (1954-1975)
Tuy thiệt hại về vật chất và thương vong không nhiều,
nhưng đó là sự tàn phá độc hại nhất! Không phải
chỉ đối với làng, mà còn trong từng giòng họ, từng gia
đình anh em ruột thịt với nhau … Giòng họ nào mà không
có người ở bên này (Quốc Gia) hay người ở bên kia (Cộng
sản)? Cả hai phe đều có cùng mục đích muốn làm cho dân
giàu nước mạnh, độc lập tự do: một theo con đường vô
sản chuyên chính - một theo con đường tư sản tự do, nó lại
trở thành một thảm nạn!
Anh Lê Cần
Thơ kể lại trong “ Quê Hương xa mãi ngút ngàn” tấn
kịch bi thương trong một gia đình:
Anh Đổ Thành
Tây là Thiếu Úy Pháo Binh thuộc Sư Đoàn 21 Bộ Binh (Quốc
Gia).
Anh Đổ Văn Bảy, tự Đổ Quang Trung
tức Bảy Trung làm Tiểu đoàn Trưởng Tiểu Đoàn Tây Đô
(Cộng Sản).
Lần đó đóng quân
tại Kinh Cùng thuộc tỉnh Chương Thiện. Đơn vị pháo binh của
Thiếu Úy Tây chỉ huy hướng nòng đại bác bắn vào
khu Nhà Máy Cháy, lên đầu đơn vị của đứa em mình
đang chỉ huy. Hôm đó bà mẹ của hai anh lặn lội
vào thăm con mình trong vùng sâu, được anh Bảy đưa ra một
khoảng cho bà quá giang xuồng về Cần Thơ qua ngả Kinh Cùng.Tới
Kinh Cùng bà gặp thằng con trai lớn đang hướng đại bác bắn
vào em ruột của nó, bà mẹ chỉ lặng khóc mà không thể
nói được gì!
Sau 30 tháng 4 năm
1975, Bảy Trung về thăm gia đình gặp anh mình trước khi có lệnh
gọi các Sĩ Quan và viên chức chánh quyền Sài Gòn tập
trung cải tạo. Hai anh em tranh luận với nhau thế nào không biết mà
anh Tây đã tự sát! Niềm đau này chính bà mẹ của
hai người bạn cùng lớp gánh chịu cho đến khi bà nhắm mắt
xuôi tay …! (Anh Lê Cần Thơ, anh Đổ Thành Tây, anh Đổ Văn
Bảy và tôi - tác giả bài viết - trước kia đều là
những người bạn cùng lớp: Trường Tiểu Học Phong Điền,
và Trường Trung Học Phan Thanh Giản, Cần Thơ).
Những oan khiên nghiệt ngã
là sự thù hận, chia rẻ … nỗi đau thương và mặc cãm
mất mát trong lòng dân làng tôi bao giờ mới nguôi ngoai ?! Đó
là sự “tàn phá rất sâu xa!”.
Để tạm ngưng bài viết
ở đây, xin quý bà con hãy nghe anh Lê Quang Diệp (San José, CA) kể
một câu chuyện “Bánh Hỏi Mặt Võng”:
- “ … Những người làm bánh hỏi mặt võng là
quí bà Lê Quang Thưởng, Lê Thị Kim Chi, Lê Kim Xinh, Bà Chín
Nu ở gần vàm Cai Cẩm, khi có ai đặt thì họ mới làm.
Bánh hỏi mặt võng chào đời vào giửa
thập niên 1950, đoạt giải Danh Dự trong cuộc thi kỳ lễ Hai Bà
Trưng 1958 tại Cần Thơ. Bánh Champagne kỳ đó của các bà
Lê Thị Hoa và bà Lê Thị Thành đoạt giải Vô Địch.
Họ “trúng rùa” như ông Archimètre …!
Lúc rê họ ngủ gục nên rê không đều thành hình mặt
võng nhưng vụng về, thấy hay hay nên các bà mới chỉnh lại
cho khéo. Các bà không có giấu nghề, nhưng không phải ai muốn
làm cũng được. Làm phải có đồ nghề, khuôn và
bàn ép, lại còn nồi hấp rồi mới tới khéo tay … Đâu
phải là chuyện đơn giản …!”
Kể từ lúc tổ tiên đi khai hoang lập ấp, làng
có nhiều sáng kiến hay:
- Chuyển hóa
từ “đờn ca ra bộ”thành ca kịch “Cải Lương”
ngày nay.
- Trồng cam trái mùa .
- Bánh hỏi mặt võng …
Đó là một số sáng
kiến mới lạ của dân làng ở các đời sau.
Và sáng kiến nào để làm cho Nhơn Nghĩa, Nhơn
Ái là vùng đất muôn đời chứa chan tình nghĩa con người?
(Tập
sách LÀNG NHƠN ÁI 200 NĂM KHAI KHẨN- 2005, của Lê Hữu Uy. Tái
bản lần thứ hai tại Phoenix, Arizona, Hoa Kỳ. Gồm 3 thứ tiếng Việt-Anh-Pháp)
trích
http://www.ptgdtdusa.com/id1629.html
đọc thêm
http://www.ptgdtdusa.com/id1623.html
đọc thêm
http://www.ptgdtdusa.com/id1623.html
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire