“Nhớ Đào Quốc Đương, Hiến và Tiến”
- Phần 1 -
Mạc Thiên
Một phần tư thế kỷ đã trôi
qua, kể từ cái ngày đau đớn ấy. Chẳng một ai sung sướng gì khi nhớ lại, nhắc
lại một quá khứ cùng cực, đắng cay, những nhục hình đày đọa. Có ích gì để nuôi
dưỡng mãi trong lòng một nỗi hận thù vô vọng. Những hận thù đốt cháy lòng ta,
những mũi dao đâm thấu suốt trái tim cùng khổ, để mắt trừng lên uất nghẹn, nhận
chìm ta trong oán hờn quay quắt phận người.
“ Đem yêu thương vào nơi oán thù... Đem thứ tha vào nơi lăng nhục...”
Ôi, lạy Chúa, thật vậy sao?
“Lạy Chúa là cha cả chí nhân
Bởi chưng lòng Chúa rộng muôn
phần
Và con cũng bởi lòng yêu mến
Yêu mến nên con mới oán hờn!”
Vâng, thì con cũng muốn quên đi, quên đi hết, nhưng có những điều không thể, những điều mãi nhớ, bởi vì những điều được nhắc lại, nhớ lại... nó như những niềm - vui - đau - xót, như một chút an ủi của những đằng đẳng, tối tăm trong những tháng năm nghiệt ngã - để trong quá khứ mênh mông nhục hình kia còn le lói một vài ánh lửa nồng ấm. Những dòng chữ tiếp nối sau đây không hẳn là những trang hồi ký mà chỉ là một chùm ký ức thế thôi! Một chùm ký ức bất chợt của những đoạn đời không tiếp nối...
... Chiếc tầu Sông Hương đưa chúng tôi ra Bắc vào nửa đêm ngày 19/06/1976, với lối 6,700 người lúc nhúc trong hầm tối của khoang tàu. Không một ai nghĩ rằng chúng tôi đang được chuyển ra Bắc, chỉ đến khoảng 8,9 giờ sáng hôm sau, khi thấy mặt trời nằm bên tay phải, lúc đó mới biết rằng chúng tôi đang trực chỉ phương Bắc.
Bữa ăn của chúng tôi là những phiến lương khô của Trung Quốc được ném xuống từ trên boong tàu, cả nước uống cũng được chuyển xuống bằng ống cao xu. Cuộc sống gom lại trong bốn khoang tàu chật hẹp. Ở một góc khuất, tôi nhìn thấy anh Thanh Tâm Tuyền đang ngồi bó gối tư lự, không ai muốn nói chuyện với ai, tất cả đang đắm chìm trong những riêng tư. Sau này tôi mới biết một số anh em bên Lôi Hổ, bên 81 Biệt Kích Dù mưu toan đánh cướp con tàu. Linh mục Nguyễn Quốc Túy nói lại với tôi về việc đó, nhưng nếu điều ấy xẩy ra, (và bất thành) chắc có lẽ chúng tôi chẳng một ai sống sót.
Phía sau lưng tôi là dòng sông rộng với những chiếc thuyền buồm đảo qua, đảo lại. Có những con mắt núp lén đang tò mò quan sát chúng tôi từ phía sau cánh buồm của con thuyền, khiến những bộ đội áp tải phải quơ súng hăm dọa họ mới lảng dần đi. Người cán bộ, chiếc nón cối và ngôi sao vàng, đứng trên bục cao quát vọng xuống:
“Các anh đang ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa giàu đẹp, đảng và nhân dân tạo điều kiện để các anh học tập cải tạo tiến bộ thành người lương thiện...”
Tôi đưa mắt nhìn sang bên kia bờ sông đã phảng phất bóng tối, nghĩ thầm “đảng và nhân dân, vậy đảng khác, nhân dân khác, đảng không phải là nhân dân, vậy đảng là gì?...” Tôi mỉm cười với ý nghĩ ngộ nghĩnh trong óc.
Tiến nhìn tôi ngơ ngác hỏi:
“ Cậu cười gì vậy?”
Tôi nhìn thân thể gầy gò của Tiến đang nằm trên một tấm ván làm băng ca vừa chuyển lên. Tiến bị thương nặng, nát bấy một chân và một cánh tay, thân thể đầy thương tích, vẻ mặt đầy âu lo và đau đớn. Tiến bị thương do một trái lựu đạn liệng vào trong “lán” làm một số chết, một số bị thương, trong đó có Tiến, lại được may mắn được đảng và nhân dân “ưu ái tạo điều kiện đưa ra miền Bắc xã hội chủ nghĩa giàu đẹp” để tiếp tục cải tạo. Tôi nhìn Tiến ái ngại... (Tiến là trưởng khối CTCT của TTHL/ Phù Cát, Bình Định... Ôi Tiến, giờ này cậu còn sống... không? Nếu có phép mầu nào mà cậu còn sống ra được nước ngoài, xin liên lạc về tòa soạn...)
“Gắng mà cười Tiến ạ! Còn cười được thì cứ cười.”
Tiến nhếch môi héo úa và nụ cười méo xệch, nước mắt lả chả không che dấu được....
*
Chúng tôi lần lượt rời con tàu Sông Hương. Những họng súng vây quanh. Một “ông” bộ đội còn rất trẻ, quát lớn:
“Tù hàng binh! Chúng mày nghe rõ không? Tập trung lại!”
(Ôi, anh Dương Tử, anh nghe rõ không? Điều anh khao khát một chính danh đã được cậu bé bộ đội quát lên rồi đấy! Ít ra cậu bé bộ đội kia cũng còn có lần nói thật, phải không anh?)
Sáng ngày hôm sau, 25/6/76, chúng tôi được dồn lên toa xe lửa chở súc vật và hàng hóa, tất cả đều bít kín dưới cái nắng chang chang của trời miền Bắc tháng 6. Tàu đến Yên Bái vào buổi chiều, 1/4 số người bất tỉnh được khiêng ra, một vài người đã chết.
Chúng tôi được đón tiếp rất “long trọng”. Những nhà bạt bằng vải trắng đã được dựng lên, y tá và bác sĩ, áo blou trắng, ống nghe và những lọ thuốc được bày ra, và nào là quay phim, nào là chụp ảnh lều bạt, y tá, bác sĩ và những lọ thuốc trống không, bày ra rồi dẹp đi mau chóng. Tôi nói với Đào Quốc Đương và Hoàng Minh Tiến (không phải Tiến CTCT):
“ Cao cả thay lòng nhân ái của đảng!”
Khi lều trại y tế được dẹp bỏ, rồi thì một đoàn thiếu niên và dân chúng tiếp đón chúng tôi. Những thiếu nữ thắt giây lưng, quấn “xà cạp” lăm lăm những khẩu CKC chắn giữa chúng tôi và dân chúng. Một trận mưa đá đổ lên đầu chúng tôi. Một viên đá từ tay một thiếu nữ ném trúng vào người tôi. Tôi nhìn cô bé, hỏi nhẹ:
“Sao lại ném nhẹ thế! Phải căm thù mạnh hơn lên mới được, cô bé ạ!”
Cô bé liếc nhìn quanh, nhìn tôi, cúi đầu nói :
“Cháu xin lỗi! Cháu không muốn thế!”
Cô bé lấy tay lau nhẹ ngấn nước mắt, len lén lẫn vào đám đông.
Tôi thầm nghĩ: “Cám ơn cô bé, cô đã cho tôi một trong những điều nhớ mãi...”
Tôi nhìn qua Tiến, bỗng chợt thấy vẻ cương cường trong khóe mắt Tiến bừng lên, môi Tiến vo lại huýt một điệu sáo nhẹ theo điệu nhạc...”Ta như nước dâng... dâng ngập có bao giờ cạn...”, và một cán bộ Việt cộng quắc mắt nhìn Tiến, hằn giọng:
“Anh kia! Vui lắm hả?!”
Tiến mỉm cười:
“Dạ vui!”
Y bực bội quay đi, lẩm bẩm:
“Vui... vui con mẹ chúng mày!”
Tiến bảo Đương và tôi:
“Chúng muốn đày đọa ta đau khổ, ta không đau khổ, tất nhiên chúng đau khổ! Mày thấy không?!”
Ngay chiều hôm ấy, chúng tôi đến Bến Ô Lâu. Không hiểu sao tôi hình dung ra một dòng sông trôi lều bều những chiếc đầu lâu đen xỉn vì nhiễm độc. Một cụ già khoảng trên 80 tuổi chở đò ngang trên bến sông cột thuyền gần chỗ chiếc phà đưa chúng tôi sang sông, ái ngại nhìn chúng tôi, nói bâng quơ:
“Thêm một đoàn tù nữa đi qua đây, bao nhiêu lần đi mà chưa thấy có người nào trở lại!”
(Về sau này, chúng tôi chuyển trại từ vùng núi rừng Yên Trấn, Xuân Hồng về Thác Bà, lại đi ngang qua bến phà này, tôi gặp lại cụ già lần trước. Lần này chúng tôi qua sông bằng những con đò ngang, và ngay trên con đò bé của cụ. Đôi mắt cụ già ánh lên niềm vui, nói: “Năm nay lão đã 84 tuổi, chở đò ngang đã 71 năm. Có rất nhiều đoàn tù vượt bến Ô Lâu mà chẳng thấy một ai trở lại. Núi rừng Việt Bắc thâm u, độc địa lắm, nuốt hết cả! Lần dầu tiên lão thấy được đoàn tù trở về. Các ông hồng phúc lắm!”)
Chúng tôi sang phà, bên kia sông là một đoàn Molotova chờ đón và mang chúng tôi phân tán vào núi rừng Việt Bắc, bắt đầu những tháng ngày rét mướt, gian lao, đói khổ, nhục hình...
Ta dừng chân nơi này
Ta dừng chân nơi này
*
Chúng tôi được đưa đến Trại 4 Xuân Hồng thuộc đoàn 776 quản lý vào lúc trời đã khuya. Đêm đầu tiên nghe tiếng vượn hú, và sáng sớm hôm sau, nghe tiếng chim “bắt cô trói cột”, không hẹn mà mọi người trong chúng tôi đều đổi thành “khó khăn khắc phục”.
Tổ chúng tôi gồm Linh Mục Nguyễn Quốc Túy, Linh Mục Lai Chư Khanh, và các anh Đào Quốc Đương, Hoàng Minh Tiến, Nguyễn Duy Côn, Nguyễn Văn Quý, Hồ Văn Hòa, Luyện, Hiếu và tôi. Đó là tổ duy nhất không chia phần ăn. Bữa cơm đầu tiên là một rá bắp xay và chén nước muối. Mỗi người được hai chén lưng, và hết hai chén lưng thì tự ý ngưng lại. Vậy mà lần nào cũng dư một chén cơm trong rá. Đương cao lớn, nên với hai lưng chén, giống như muối bỏ bể, nhưng Đương nhất định không chịu ăn chín cơm còn dư. Làm sao mà “dư” được, đó là chén của cha Khanh để lại nhường cho Đương. Cha nói dối là no không ăn thêm được.
(Ôi Chúa, Chúa ở trên cao xanh kia có bắt tội vị linh mục nói dối ấy không? Ước gì tôi bắt chước được cái tội nói dối ấy! Bây giờ cha đã về với Chúa, cha có còn nhớ cha đã phạm bao nhiêu lần nói dối như thế?!)
Hàng ngày, chúng tôi chia nhau làm công việc của tổ để thay cha Khanh ốm yếu ở nhà. Cha Khanh lẩn thẩn nhặt rau rệu, đọt sắn, rau sam... lén lút nấu nồi canh đợi chúng tôi về. Có lần, rau dền gai, rau tàu bay, rau cải trời nấu chung cay xộc lên mũi mà vẫn thấy vô cùng ngon, ngon vô cùng mà ứa nước mắt. Thấy chúng tôi đoàn kết, một hôm đi làm trở về thì thấy Cha Khanh và Cha Túy đã được chuyển đi lên Trại 10, và anh em chúng tôi thì bị phân tán mỗi người một tổ. Mấy hôm sau, khoảng 80 người chuyển từ Cần Thơ ra, tôi thoáng thấy thiếu tá Hinh (Anh Thảo Trường). Thấy anh nhưng không được lại gần, vì bị cấm tiếp xúc. Tôi nhớ một lần, đi lấy nước, phải qua trại 6, trại 12, tôi gặp Phan Nhật Nam và Chinh Yên, tay cầm dao, túi quần nhét chiếc găng tay bảo hộ lao động tự chế, dáng vẫn nghênh ngang, vẫn đùa cợt. Ôi, công tử Lục Tỉnh phiêu lưu ký. Công tử Lục Tỉnh là chữ của Phan Nhật Nam, còn Chinh Yên mệt mỏi lết phía sau. Dường như Chinh Yên đã chết ngày ấy...!
Mấy hôm nay trời rét giá, nhiệt độ xuống dưới hai độ, cái lạnh nhức buốt như kim châm, bào xé thịt da. Gió bấc vật vã trên sườn núi, cuộn sóng trên mặt hồ bốc khói sương. Tấm chăn đơn mỏng và căn trại giò lùa, không tài nào ngủ được, chúng tôi xúm xít lại với nhau, tựa vào nhau ngủ ngồi quanh đống lửa. Anh Lê Văn Chương (thiếu tá cảnh sát) đã chết chiều hôm trước. Cái đói kèm theo cái lạnh khắc nghiệt đến tận cùng.
Thế nhưng, dẫu trời mưa gió lạnh giá, vẫn không một ngày nghỉ, kể cả ngày Chúa nhật. Mỗi người phải lấy 1m3 củi cho nhà bếp, đêm đến phải học tập, sinh hoạt, phê bình, kiểm điểm, bới móc đủ điều. Tiêu chuẩn ăn chỉ còn 9 ký gạo mỗi tháng, song lại đổi thành sắn tươi, 1 gạo 5 sắn, mỗi ngày chia ra 1,5 kg sắn tươi, chưa bóc vỏ. Toán nhà bếp xin trại cho đi cải thiện rau rừng để có thêm rau xanh cho bữa ăn. Rau tàu bay, rau cải trời, lá sắn... đem về nộp cho trại, trại bán lại cho trại viên 50 xu mỗi ký, trừ béng vào tiền vệ sinh hàng tháng là 3 đồng.
Rau tàu bay cay xé miệng, nước mắt, nước mũi ràn rụa, không biết có phải cay vì cải trời? Cán bộ quản giáo Đội 5 Đặng Quang Ba nói rít qua hàm răng:
- Các anh không biết à! 4 ký lá sắn có chất dinh dưỡng bằng một cân thịt bò!
Đào Quốc Đương ghé sát vào tai tôi nói nhỏ:
- Thịt bò lăn, thịt bò càng!
Sương Biên Thùy làm bài thơ ca ngợi sắn, tôi không nhớ được hết, nhưng đại khái như sau:
Hãy cuốc xuống thật sâu
*
Tôi nhớ mãi ngày đầu ra Bắc, cán bộ quản giáo, viên thượng sĩ điểm danh, khệnh khạng lên lớp chúng tôi. Chẳng biết ông ta đánh vần ra sao mà tên anh Lương Văn Học lại đổi thành Nương Nộc Nắc, và Đào Quốc Đương thành ra Đào Cuốc Đường, rồi hắn chỉ vào mặt Đương:
- Phản động! Phản động! Cái tên cũng phản động! “Đã Đào” nại còn Cuốc Đường”, đắp mô lữa”!
Chúng tôi cố nín cười. Thấy vẻ mặt chúng tôi, y hét lớn:
- Thế mà tú tài 1, tú tài 2, tao tú tài mười còn chưa thèm lói lữa nà!
Có lẽ y nghĩ tú tài 1, tú tài 2 là lớp một, lớp hai. Từ đó, không biết ai đặt cho y cái tên là A ni ba ba và con cù nần”. Rồi từ đó không ai còn nhớ đến tên thực của y là gì nữa.
*
Chúng tôi chỉ còn da bọc xương, nhưng mặt thì phù lên. Để chống lạnh, chúng tôi được phát hai bộ quần áo trận rằn ri, các túi được tháo gỡ may găng tay, vớ đi rừng để chống vắt, nhưng rồi găng lẫn vớ cũng chỉ vài ngày là rách bươm. Tôi lấy hai chiếc áo may vào làm một, giữa hai lớp áo là lá chuối khô, nhưng gặp hôm trời mưa thì thật là khốn khổ. Cũng may, ngày đầu ở Long Giao, tôi lượm được một số bao cát còn lành, gỡ sợi ra làm chỉ, mài giây điện đồng cho nhọn, đục lỗ thành kim may được hai bộ đồ, quả thật là tiện dụng. Tôi may cả được cái áo lạnh hai lớp, nhưng chỉ dám mặc bên trong, ấm áp vô cùng.. Hai bộ quần áo ấy theo tôi suốt mười mấy năm trong đời tù đày. Nó dễ giặt và mau khô. Ôi bao cát, bao cát sống mãi trong sự nghiệp tù tội của tôi!
Khuya hôm ấy, trời rét cóng, con trâu già đã chết. Đã bao nhiêu lần người ta muốn giết nó, bởi vì bất cứ người lính cộng sản nào đội nón cối, mang súng lại gần nó là nó nổi hung lên, bứt giây, tấn công liền; nhưng ngược lại, khi chúng tôi lại gần nó, nó lại vô cùng nhu mì và hiền lành, lừ đừ suốt ngày như một nhà hiền triết về già. Nó làm việc siêng năng. Nó kéo gỗ từ chân núi, nơi bãi gỗ được phóng từ triền núi cao xuống theo lòng rãnh. Cái rãnh phóng gỗ ấy, cả đội chúng tôi phải bạt cây, xẻ đá, đóng cọc gỗ, làm đà... để mang những thân gỗ dài 2,3 mét, có vòng hoành 150 trở lên... Nó kéo gỗ suốt ngày. Gỗ được chuyển ra bờ hồ, đóng thành bè để bán cho lâm sản lấy tiền bỏ túi cho đảng... Thế nhưng, khi tiếng kẻng của trại vang lên, là dù đang kéo gỗ, nó nhất định ngừng lại, được dỗ dành cũng cứ lì ra. Buổi xế chiều, khi tiếng kẻng vang lên báo giờ lao động, nó lại uể oải đứng lên, không cần ai giục giã. Khi gặp khúc gỗ lớn, nó ngần ngại, bỏ vào trong bụi nằm. Lúc ấy, anh giữ trâu phải bồi dưỡng cho nó bằng cỏ non và muối nó mới chịu đi làm. Những lần ấy, anh em dùng cây xeo giùm nó qua những chỗ gồ ghề. Đôi mắt hiền từ của nó nhìn chúng tôi như biết ơn. Sau này, chúng tôi bảo nhau không hạ những cây có hoành quá lớn nữa. Hôm nó chết, cả đội buồn rầu, không đụng đến phần thịt nó. Từ chối một bữa thịt trâu vào lúc đó, quả thật là một sự hy sinh lớn lao vô bờ bến.
*
Tôi vẫn thường tự nhủ, những nhục hình, đày ải, chẳng nên nhớ lại làm gì, ví dầu có nhớ lại, có nói ra... cũng chẳng bao giờ nhớ và nói cho hết, cho đủ; nó chỉ làm đau đớn, u uất thêm cho cuộc sống vốn đã chẳng có được niềm vui, mà chỉ toàn là những bất hạnh trùng trùng cho đến tận lúc này, và có lẽ cho đến ngày nhắm mắt.
Những ngày buốt giá ấy, ông T. vẫn ngồi đấy, bên đống lửa, vẫn bộ quần áo rách mướp, nhưng lần này khác hơn, là ông đứng lên chào chúng tôi - tôi và Q - khi chúng tôi ghé vào chỗ ông ngồi đan lát. Tôi hỏi như không chú ý:
- Trời rét quá, sao bác không mặc chiếc áo dạ vào?
Ông cười:
- Chiếc áo đẹp quá, em để dành khi chết mang theo, xuống âm phủ không tủi thân như anh em đã chết năm xưa. Vả nại, mặc chiếc áo ấy, khốn khổ chứ chẳng không!
Từ hôm ấy, tôi và Q mang tặng gia đình ông bất cứ thứ gì mà chúng tôi không dùng: quần áo “quần si, quần tẹc” từ khi ra đi vẫn nằm yên trong ba lô.
Tôi bảo ông:
- Những gì dùng được thì cứ để dùng, nếu bán được thì coi như chúng tôi giúp gia đình bác.
Vợ chồng ông cảm động không nói thành lời. Từ đấy, tôi bảo ông mua thuốc lào, đường, kẹo... để tôi giúp đổi cho ông những thứ gì ông có thể bán được có giá. Đôi lần, ông mua cho chúng tôi thứ này, thứ khác, nhưng tôi và Q nhất định không nhận, có khi tôi phải gắt lên ông mới chịu nghe, nhưng bù lại, chỉ tiêu của tôi và Q luôn luôn được ông T. lo liệu trước. Ông T. có 4 người con, hai người con trai lớn đã lấy vợ, làm công nhân ở Yên Bái, chẳng dư giả gì để giúp đỡ gia đình. Cô con gái thứ ba tên Mận, chừng trên 20, và cậu con út 19. Mận được giao làm dịch vụ” mang hàng” ra Yên Bái cho người anh trai lớn đổi chác, mua bán. Cậu con út, một tay cày bừa, trồng trọt mấy sào ruộng khai hoang ven chân núi. Chính cậu em út đã giúp chúng tôi thực hiện chỉ tiêu để sẵn. Chúng tôi nói hoài cũng không chịu nghe.
Năm ấy, ông T. giỗ bố tươm tất hơn tất cả, cố nài chúng tôi đến ngày hôm sau. Tôi thoái thác. Ông T. và cả nhà mang “cỗ” lên trên núi, dọn quang khoảng đất dưới tàn một cây cổ thụ, nơi khuất vắng, ít ai lai vãng đến. Mận đón chúng tôi ở ngoài cửa núi. Mận không đẹp, cũng chẳng xấu, nhưng lại có duyên ngầm những lúc nàng e thẹn. Dấu tích vất vả, cực nhọc hằn trên đôi bàn tay thô xạm. Mận biết tay mình không được đẹp, nên mỗi lần nàng nói chuyện có mặt của Q, Mận luống cuống che dấu đôi bàn tay.
Hôm ấy, sáu người ngồi chung trên chiếc chiếu cói, ông T. và gia đình đứng lên đón hai người chúng tôi:
- Thưa hai ông, sở dĩ năm nay nhà em có được bữa giỗ tươm tất như thế lày, cũng nà do hai ông đem nại cho, đành mạo muội cúng thần rừng, thần lúi, mời hai ông dùng chén rượu nhạt gọi nà, xin hai ông chiếu cố cho!
Tôi hết sức cảm động, còn Q lơ đãng nhìn tàn cây phủ bóng rợp. Tôi nói:
- Ông bà bày vẽ làm gì! Nhưng ông bà đã cho thì phải nhận, có phải không cô Mận?
Nói xong, tôi kéo Q ngồi xuống. Ông T. và cả nhà ngồi chung quanh. Ông T. ngồi cạnh tôi, Q ngồi bên trái, kế đó là cậu Bưởi, đến Mận và bà T.. Ông T. rót rượu ra chung, chiếc chung bằng men sứ cổ, và hai ly thủy tinh không đều nhau, cũ kỹ. Q cười:
- Ông bà tha thứ, tôi không uống rượu được!
Ông T. có ý không vui, tôi đỡ lời:
- Thằng này lái máy bay, giặc lái không biết uống rượu, bởi vậy, đến nay nó vẫn còn ế vợ! Thôi, để tôi uống thay vậy!
Tôi chập hai ly, mời và chúc ông bà T. và gia đình, ngửa cổ uống cạn cả hai. Bà T. cười móm mém:
- Chắc ông nái xe tăng?
Quí chen vào:
- Y là giặc viết, giặc mồm!
Cả nhà ngớ ra, Q cười rũ người xuống.
Ông T. suy nghĩ một lúc, rồi à lên:
- Thôi em biết rồi! Ông đây nà chiến tranh tâm ný, chúng nó gọi như vậy. Ông nà nhà báo, nhà văn?
Q cười vỗ vai tôi:
- Đúng rồi! Y là nhà báo cô, báo đời, văng mạng!
Cả nhà lây cái không khí vui vẻ của Q. Ông T. rót ly rượu mời, tôi đỡ lấy:
- Tôi uống chung này nữa thôi nhé, tam bôi tửu, nói vậy chứ, đây là quốc cấm, họ mà biết tôi uống rượu ở đây với ông bà thì khổ cả lũ!
Chúng tôi chẳng khách khứa gì, ăn sạch trơn mọi thứ, no ứ đến cổ mà miệng vẫn còn thèm. Cô Mận đã dọn dẹp bát đũa vào chiếc thúng, đậy tấm vĩ cói. Ông T. bảo con:
- Dấu vào một chỗ, tối em mày nó đem xuống!
Tôi đưa cho Mận 5 chiếc lon Guigoz. Mận nói:
- Thưa ông, hôm trước, 3 chiếc lon Guigoz cháu đổi được 3 con gà, 12 phong An Thái và 1 bịch kẹo vừng.
Tôi bảo:
- Gà kệ cô! Tôi chỉ lấy 6 phong An Thái và bịch kẹo vừng.
Cô Mận phản đối:
- Vậy đâu có được! Sao ông lấy ít thế!
Q cướp lời:
- Ít sao được mà ít, mỗi phong An Thái 20 gram, chỉ cần 1 lon một phong An Thái là chúng nó mừng húm!
Bưởi hỏi Q:
- Chú Q lái tầu bay gì? Có ra Bắc đánh không?
Tôi đỡ lời:
- Thằng cha này nhát chết mẹ! Sợ phòng không mà chỉ huy một phi đoàn đến mấy chục chiếc!
Ông T. có chút rượu, vui lên thấy rõ:
- U con mày không biết đâu. Hai ông đây nà Quan Lăm, còn lớn hơn Ba Tay Ông xếp ngày xưa của tao đến hai cấp. Ông Quan Ba khạc ra khói, uy quyền ghê gớm nắm, bây giờ các ông đây nỡ vận, vận nước, vận non... mà khổ đến thế lày, đâu có như trung tá của bọn vẹm, nếch thếch như quân ăn mày!
Tôi cản ông T.:
- Chuyện cũ bỏ qua đi, quên đi ông T. ạ!
Bà T. buồn bã:
- Thầy nó ạ! Nhắc nại nàm gì, mang vạ, khổ cho mấy ông đây nữa!
Tôi nhìn thấy cô Mận núp sau lưng bà mẹ, qua vai áo, tôi thấy đôi mắt cô long lanh đang đăm đăm nhìn Q; Q vô tình, mãi nói chuyện với Bưởi không để ý. Bỗng dưng lòng tôi chìm ngập lòng thương xót.
Buổi chiều, trên đường về, tôi hỏi Q:
- Cậu thấy cô Mận thế nào?
Q nhìn tôi đăm đăm:
- Thế nào?
Tôi nhìn thẳng vào mắt Q:
- Cậu không để ý ánh mắt cô bé nhìn cậu lúc sáng này hay sao?
Q cười:
- Cậu đúng là lẩm cẩm, hay tưởng tượng vớ vẩn!
Tuy nói vậy, nhưng trên đường về, Q có vẻ bần thần, nghĩ ngợi.
Hôm sau, chúng tôi lên khu rừng nứa của tôi, đã thấy một đống nứa chặt sẵn, một lon Guizoz trà, một bịch kẹo vừng, loại kẹo Q thường khen ngon, và chiếc lon Guizoz Q để quê trong rừng bữa trước. Lon Guizoz trà còn nóng ấm.
Q ngồi thừ người, dựa vào thân cây. Một lúc lâu, Q cầm lon Guizoz uống một hớp, y nhăn mặt, vì đúng là trà quặn đậm đặc. Q nói giọng bùi ngùi:
- Không phải lỗi tại tôi, tôi đã tránh hết sức!
Tôi thở dài:
-Tình yêu như cuộc rượt đuổi bóng hình. Tôi có nói là lỗi ở cậu đâu nào! Chỉ có điều tội nghiệp. Cậu phải thật khéo léo. Tình yêu đầu đời của người con gái mãnh liệt và liều lĩnh!
Giọng Q trầm xuống:
- Tôi đâu phải hạng người ấy!
- Sao cậu lại tự trách mình thế, tình yêu là biên giới giữa thiên đàng và địa ngục, sự thất vọng của đền đáp biến thành tai họa của địa ngục.
- Tôi hiểu lòng tốt của cậu. Tôi sẽ cố gắng tế nhị, nhưng cậu đừng cho ai biết!
- Tại sao cậu phải dặn dò như thế?!
Q thở dài:
- Xin lỗi!... Biết ra sao phận mình!
Từ hôm ấy, Q cố tránh gặp mặt Mận. Tôi cũng cố tránh nhìn vào khuôn mặt âm thầm và buồn trĩu của nàng. Mận giữ ý, không hỏi tôi về Q, tôi càng tội nghiệp nàng hơn.
Tôi nói cho Q biết điều ấy. Lúc này, dường như gia đình ông T. đã có chút vốn. Ông T. mua một cặp heo và hai bầy gà con, 4, 5 con gà mái đẻ và một con gà trống.
Một hôm tôi bắt gặp Q và Mận nói chuyện với nhau. Hai người không thấy tôi. Tôi đến nơi khuất vắng này bằng một con dường riêng mà chỉ có tôi và Q biết được, luồn lách qua những bụi giang uốn cong như một nhà vòm, rồi mới đến được “thánh địa” của chúng tôi, xuống dưới một thung lũng, rồi bò lên cao dần, nơi rừng trúc của tôi có một doi đất phẳng, che khuất bởi đám cây săng đá thẳng như cột nhà.
Hai người ngồi cách xa nhau, tôi nhìn thấy đôi mắt của Mận đầm đìa nước mắt, giọng của Q trầm, nhỏ nhẹ. Bỗng Q cầm tay Mận, nàng chùn tay ngượng ngập, nhưng lại để yên trong tay Q, đôi mắt nàng vụt long lanh một niềm vui, hai má đỏ hồng e thẹn.
Tôi biết Q chân chính, tôi âm thầm lùi xa và bỏ đi. Đến chiều, lúc vát nứa xuống núi, vẻ mặt Q hơi khác lạ. Tôi cũng chẳng đề cập gì đến việc tôi đã bắt gặp họ trong rừng. Khi xuống tới chân núi, chúng tôi dừng lại nghỉ, Q ngồi xuống bên tôi, khẽ nói:
- Trưa nay nàng tìm gặp tôi.
Tôi giả vờ hỏi:
- Có chuyện gì không?
- Cậu cứ tin ở tôi, tôi xắp xếp tốt đẹp cả, tôi không làm điều gì tệ hại...
Tôi vỗ đầu Q và cười:
- Tôi biết, tôi tin ở cậu! Chỉ cầm tay chút xíu thôi!
Q trợn mắt:
- Cậu thấy à! Tại sao bỏ đi không đến nói chuyện?
Tôi cười, nhìn vào mắt Q:
- Tôi có thấy gì đâu! Trưa nay nằm ngủ bên hốc cây, nằm mơ vậy mà!
Q nghĩ là tôi nói giỡn, giọng Q chân thành:
- Tôi viết thư cho bà cụ, nhờ Mận ra Yên Bái lấy địa chỉ người anh, gửi thư cho bà cụ. Tôi cố giúp cho Mận, cho gia đình này, gọi là chút đền đáp...
Mùa hè năm 1977, T3 tăng cường 5 đội chủ lực làm công tác gánh gạch cho đoàn T76 để xây cất ngôi trường trung học phổ thông. Lò gạch cách nơi tập trung 2 km. Mỗi trại viên được giao 120 viên gạch cho mỗi ngày, riêng ngày Chúa nhật, chỉ tiêu là một nửa. Công việc thoạt ai cũng cho là không đáng kể, nhưng tôi, tôi không nghĩ như thế, quả thật, cho đến khi nhìn thấy viên gạch là một khối đất nung đặc cứng, không có lổ như những viên gạch ống, 24 cm chiều dài, 12 cm chiều rộng và 6 cm chiều dày, gạch đã bị thầm nước nặng không dưới 2kg mỗi viên, và chặng đi về mỗi chuyến trên 4 km.
Chuyến đầu tiên, anh Tường Duy Lợi, võ sư đệ ngũ đẳng huyền đai nhu đạo, người có trái tim bên phải, đã phải hạ từ 36 viên chuyến đầu tiên xuống chỉ còn 24 viên cho chuyến thứ nhì., và chúng tôi cố gắng đến quặn xương, cũng chỉ có thể lê lết 20 viên mỗi chuyến. Q mồ hôi nhễ nhại, xiêu vẹo, thở dốc, lê lết mỗi chuyến chỉ được 16 viên. Năng xuất mỗi ngày một giảm xuống, quản giáo gào thét hăm dọa, cũng không làm sao đạt nổi chỉ tiêu ấn định. Cuối cùng, biện pháp “chế thực” được áp đặt, nghĩa là chỉ phát cơm chiều cho những ai hoàn thành chỉ tiêu. Trông Q hốc hác hẳn đi, tôi bảo Q:
- Cậu đừng mất công mỗi chuyến mỗi xếp, cứ đổ chung một đống với tôi, để tôi xếp cho!
Q cười như mếu:
- Xếp trước sau gì chẳng thế, quan trọng là có đủ 120 viên hay không!
Tôi lừ mắt:
- Thì cứ xếp 8 viên và cao 15 lớp là đủ!
Q văng tục:
- Nói như cục C, có gì khác, tám viên nhân 15 thì dễ thường 100 viên à?
Tôi nói nhỏ:
- Cậu cứ cố gắng có được 100 viên, còn bao nhiêu để tôi phụ cho!
Vẻ cảm động hiện trong đôi mắt, Q lắc đầu:
- Không được, cậu cố gắng hết sức còn chưa đủ, làm sao phụ cho tôi được? Với lại, tôi không thể ỷ vào cậu được!
Tôi cười, nháy mắt:
- Tôi phụ xếp cho cậu, hai đứa 200 viên là đủ, nghe rõ chưa thằng ngốc?! Q đờ mặt ra, một lúc sau cười toét miệng:
- Rỗng ruột à?
- Vớ vẩn! Rỗng đâu mà rỗng! Có điều không được đặc!
Từ hôm ấy, chỉ phải gánh 6 chuyến là đủ, chúng tôi dậy thật sớm, “tranh thủ” tránh cái nắng như đổ lửa buổi trưa, 25 km đường dài cho một ngày đi về. Dù không đến nỗi bết bát, nhưng bọn tôi cũng phải cày cho đến lúc mặt trời lặn mới xong được chỉ tiêu. Nguyên tắc gánh nặng thì phải chạy, đòn gánh phải dẻo, nhún nhẩy lên xuống, sức nặng do đó giảm đị Chỉ tội cho hai bắp chân và đôi vai còm cõi. Đoạn đường chỉ hơn 2 km mà chúng tôi phải nghỉ từ 3 đến 4 lần suốt dọc đường.
Một hôm, hai đứa tôi nghỉ cạnh một ngôi nhà lụp xụp, dưới một tàn cây, để tránh cái nắng như đổ lửa, mồ hôi nhễ nhại, miệng khô đắng vì quá khát. Tôi bảo Q:
- Cậu ngồi đây, tôi vào xin miếng nước.
Q cản:
- Không được đâu! Họ cấm không được liên lạc với dân, vả lại, chắc gì họ cho.
Tôi cười:
- Bộ cậu không nhìn thấy cặp mắt họ nhìn chúng ta à?
- Mắt làm sao?
Tôi cười chế nhạo:
- Tớ chẳng hiểu sao cậu lại mang đến lon trung tá được, chỉ ở tầm binh nhất là cùng!
- Sao vậy? Dễ còn cậu ngang tầm tướng lãnh chắc! Mà ăn thua gì đến con mắt?
- Tớ ấy à! Tớ chỉ ngang tầm cỡ Từ Hải, hoặc giả hơn Khổng Minh chút đỉnh!
Q bật cười:
- Thằng này dốc tổ mẹ, nhưng con mắt thì sao?
- Cậu không nhìn thấy ánh mắt ái ngại, thương xót của họ nhìn chúng ta à?! Q chun mũi:
- Thôi được, để xem, tớ liều theo cậu một chuyến...
Người đàn bà cằn cỗi nhìn chúng tôi ngạc nhiên, và khi tôi lên tiếng xin bà cụ một miếng nước uống, từ ánh mắt ấy chợt bùng lên lửa giận, bà đứng bật dậy, chỉ tay vào mặt chúng tôi, xỉa xói:
- À, quân mặt dày, quân mặt mo, chúng mày còn dám vác mặt vào đây xin nước uống nữa à! Q mặt tái mét, toan chạy. Tôi giữ tay Q lại, nhìn thẳng vào ánh mắt nóng giận nhưng không một chút căm thù của người đàn bà.
Chúng tôi đứng im nghe bà già nói mà không đoán được tuổi tác bà; có thể bà cụ chừng 70, mà cũng có thể chỉ cỡ tuổi 50:
- ...Tao tưởng chúng mày vào Nam làm vương làm tướng gì, hóa ra chỉ là bọn ăn hại đái nát, tham ô, móc ngoặc, tranh danh, đoạt lợi. Bà đặt hy vọng vào chúng mày, suốt bao năm trông đợi, bây giờ bà tuyệt vọng, cha tổ bố....
Giọng bà nghẹn đi, nước mắt ứa ra, khuôn mặt co rúm lại vì đau xót... và hốt nhiên, cả tôi lẫn Q đều nước mắt chan hòa, cúi đầu xót xa. Giọng bà trầm xuống sau một lúc im lặng:
- Đã đến dường này, thôi thì cũng là số mệnh, bọn này nó tàn ác lắm, ráng nhẫn nhịn mà chịu đựng để có ngày về với vợ, với con...
Bà cụ kéo chúng tôi vào nhà, gian nhà tối om, bà bảo chúng tôi ngồi xuống tấm phản, rồi bà mang từ trong bếp ra một rổ khoai đã luộc, và một “siêu” nước:
- Các em ăn đi! Chị nghèo lắm! Chẳng có gì hơn thế này, đừng giận chị, ráng cắn răng mà chịu đựng...
Và bà chép miệng, lắc đầu thở dài.
Từ hôm ấy, dưới tàng cây, khuất trong bụi rậm, thường xuyên có một vò nước, và đôi khi có củ khoai, củ sắn bọc trong một mảnh lá chuối.
Không chỉ riêng T3 phải tăng cường gánh gạch mà còn nhiều trại khác, nhưng đảm trách từng lò gạch khác nhau. Tôi gặp lại một số bạn bè cũ như Tôn Thất Trai, Nguyễn Văn Lộc... Tôi không hiểu làm thế nào Trai có thể kham nổi 120 viên gạch mỗi ngày với đôi chân Trai bị gẫy vào “Mùa Hè đỏ lửa” 1972. Nhìn Trai xơ xác, còm cõi, xanh xao mà lòng tôi quặn thắt. Lộc thì hàm răng cửa không còn lấy một cái. Chúng tôi đứng nhìn nhau, trao đổi bằng ánh mắt rồi quay đi như người không quen biết. Nội qui của trại gồm 39 điều qui định và 20 điều về “nếp sống văn hóa mới”. Một trong 39 điều nội qui mà chúng tôi phải thuộc làu... là là trại viên không được xưng hô với nhau theo những liên hệ cũ, cho dù là cha, con, chú, bác... Tất cả chỉ có anh và tôi. Và đó cũng chính là “nếp sống văn hóa mới” của chế độ. Bao nhiêu điều tự hỏi, nhưng không biết trả lời thế nào!
Ngày tôi gặp lại Trai là ngày Chúa Nhật ở chợ phiên. Tuy gọi là chợ phiên, cả một vùng rộng lớn 15 ngày mới có một phiên chợ, vậy mà chỉ lác đác vài chục người, hàng quán thì đơn sơ. Trong buổi chợ ấy, chúng tôi gặp Mận. Tôi thấy Mận đầu tiên và chỉ cho Q, vì chúng tôi ở sân trường, nơi những viên gạch được xếp thành từng hàng, cách nơi họp chợ vài chục mét. Mận ôm con gà, đứng nhìn về phía sân trường, vẻ mặt ngơ ngác, tìm kiếm. Khi nhìn thấy Q, Mận xăm xăm bước đến. Gã bộ đội ôm súng ngồi ở hiên trường, nhận ra Mận, gọi lớn:
- Con Mận, mày đi chợ đấy à!
Mận giật mình đứng lại. Gã bộ đội xách súng đi tới, cợt nhả:
- Mày bán gà à? Bán chịu cho tao, sang năm tao trả cả vốn lẫn lời!
Mận hậm hực, chua ngoa:
- Có tiền thì mua, không có tiền thì nhịn!
Gã bộ đội cười hềnh hệch, đểu cáng:
- Ông thèm gà của mày rớt cả nước dãi!
Mận quắc mắt nhìn gã, nhổ nước miếng, bỏ đi. Gã bộ đội bẽ mặt nói vọng theo:
- Con chó phét! Ông lại bóp... cho vãi đái ra ấy chứ lị...!
Chúng tôi vội vã tản ra. Gã quát lớn thị uy:
- Chúng mày nhìn cái gì? Muốn chống đối phỏng!
Chẳng ai trong chúng tôi ngạc nhiên về “nếp sống văn hóa mới” ấy. Thực tình mà nói, không phải tất cả bộ đội cộng sản đều như thế cả, họa hoằn chúng tôi cũng gặp được vài người tốt, song không một ai dám tỏ vẻ thân cận, hỏi han chúng tôi nếu có từ 2 người trở lên. Họ giữ miếng nhau từng chút.
Tôi còn nhớ, có một gã bộ đội còn rất trẻ; gã thường ngồi một mình, rất ít nói, rất ít khi quát nạt. Một hôm gặp gã ngồi thơ thẩn dưới tàng cây gần chân núi, thấy tôi một mình vác nứa đi xuống, nhìn quanh không thấy ai, gã nhỏ nhẹ:
- Ngồi xuống đây nghỉ một lát đã!
Tôi mỉm cười nhìn gã e dè, đứng lại, cách xa trên 6 bước. Chúng tôi không được phép lại gần cán bộ, vì họ có thể bắn chết rồi vu cho là tấn công, cướp súng, phản loạn. Đã có ít nhất là hai trại viên bị bắn chết trong trường hợp như thế, vì khi được gọi tới, họ đã vô tình đến quá gần mà trong tay còn cầm dụng cụ, cuốc xẻng... Nếu được gọi đích tên, trại viên phải bỏ cuốc, xẻng, dao, rựa xuống, đến cách xa cán bộ trên 6 mét, bỏ mũ xuống, đứng nghiêm. Do đó, khi thấy tôi đứng cách xa gã trên 6 mét, gã hiểu ý, nhỏ nhẹ:
- Chú ngồi xuống đi!
Tôi ngạc nhiên vô cùng khi nghe được tiếng chú từ miệng một cán bộ bộ đội - thay vì chỉ duy nhất tiếng anh, hoặc mày, tao... được dùng, dù rằng người đó có là một ông già đáng tuổi ông nội.
Tôi ngồi xuống, ngó lơ chỗ khác. Tôi càng ngạc nhiên hơn khi gã nói với tôi:
- Cháu biết các chú khổ lắm. Mẹ cháu thường dặn cháu không được hỗn láo. Gia đình cháu cũng người Công giáo. Họ biên chế cháu lên đây để theo dõi thái độ của cháu, chẳng phải ai cũng hung ác hết cả đâu. Thôi chú ngồi nghỉ nhé!
Nói xong, y bỏ đi, vậy mà khi có người khác, y làm như không hề đã nói chuyện với tôi một lần như thế.
Vâng, thì con cũng muốn quên đi, quên đi hết, nhưng có những điều không thể, những điều mãi nhớ, bởi vì những điều được nhắc lại, nhớ lại... nó như những niềm - vui - đau - xót, như một chút an ủi của những đằng đẳng, tối tăm trong những tháng năm nghiệt ngã - để trong quá khứ mênh mông nhục hình kia còn le lói một vài ánh lửa nồng ấm. Những dòng chữ tiếp nối sau đây không hẳn là những trang hồi ký mà chỉ là một chùm ký ức thế thôi! Một chùm ký ức bất chợt của những đoạn đời không tiếp nối...
... Chiếc tầu Sông Hương đưa chúng tôi ra Bắc vào nửa đêm ngày 19/06/1976, với lối 6,700 người lúc nhúc trong hầm tối của khoang tàu. Không một ai nghĩ rằng chúng tôi đang được chuyển ra Bắc, chỉ đến khoảng 8,9 giờ sáng hôm sau, khi thấy mặt trời nằm bên tay phải, lúc đó mới biết rằng chúng tôi đang trực chỉ phương Bắc.
Bữa ăn của chúng tôi là những phiến lương khô của Trung Quốc được ném xuống từ trên boong tàu, cả nước uống cũng được chuyển xuống bằng ống cao xu. Cuộc sống gom lại trong bốn khoang tàu chật hẹp. Ở một góc khuất, tôi nhìn thấy anh Thanh Tâm Tuyền đang ngồi bó gối tư lự, không ai muốn nói chuyện với ai, tất cả đang đắm chìm trong những riêng tư. Sau này tôi mới biết một số anh em bên Lôi Hổ, bên 81 Biệt Kích Dù mưu toan đánh cướp con tàu. Linh mục Nguyễn Quốc Túy nói lại với tôi về việc đó, nhưng nếu điều ấy xẩy ra, (và bất thành) chắc có lẽ chúng tôi chẳng một ai sống sót.
Chiều xuống, tối ngày 23/6/76,
tàu cập bến Sáu Kho. Chiếc thang giây được đưa xuống, mọi người rời rã leo lên
trước những họng súng dày đặc ở chung quanh. Trước mặt chúng tôi là thành phố
Hải Phòng lác đác những ánh điện vàng võ. Cũng tại nơi này, tháng 4/1955, tôi
đã nhảy xuống dòng sông bơi theo chiếc LST 28 vừa rời khỏi bến, chiếc tàu cuối
cùng đưa những người di cư cuối cùng rời khỏi miền Bắc. Tôi là người trèo lên
tàu cuối cùng của chuyến cuối cùng ấy. Hai mươi mốt năm sau, tôi trở lại nơi
này trong thân phận một người tù. “Là tù mà chẳng được xưng là tù” như một câu
thơ trong “Long Giao Ngâm” của anh Dương Tử Dương Văn Đệ. Thành phố tiêu điều,
hoang vắng hơn 21 năm trước khi tôi rời bỏ nó.
Phía sau lưng tôi là dòng sông rộng với những chiếc thuyền buồm đảo qua, đảo lại. Có những con mắt núp lén đang tò mò quan sát chúng tôi từ phía sau cánh buồm của con thuyền, khiến những bộ đội áp tải phải quơ súng hăm dọa họ mới lảng dần đi. Người cán bộ, chiếc nón cối và ngôi sao vàng, đứng trên bục cao quát vọng xuống:
“Các anh đang ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa giàu đẹp, đảng và nhân dân tạo điều kiện để các anh học tập cải tạo tiến bộ thành người lương thiện...”
Tôi đưa mắt nhìn sang bên kia bờ sông đã phảng phất bóng tối, nghĩ thầm “đảng và nhân dân, vậy đảng khác, nhân dân khác, đảng không phải là nhân dân, vậy đảng là gì?...” Tôi mỉm cười với ý nghĩ ngộ nghĩnh trong óc.
Tiến nhìn tôi ngơ ngác hỏi:
“ Cậu cười gì vậy?”
Tôi nhìn thân thể gầy gò của Tiến đang nằm trên một tấm ván làm băng ca vừa chuyển lên. Tiến bị thương nặng, nát bấy một chân và một cánh tay, thân thể đầy thương tích, vẻ mặt đầy âu lo và đau đớn. Tiến bị thương do một trái lựu đạn liệng vào trong “lán” làm một số chết, một số bị thương, trong đó có Tiến, lại được may mắn được đảng và nhân dân “ưu ái tạo điều kiện đưa ra miền Bắc xã hội chủ nghĩa giàu đẹp” để tiếp tục cải tạo. Tôi nhìn Tiến ái ngại... (Tiến là trưởng khối CTCT của TTHL/ Phù Cát, Bình Định... Ôi Tiến, giờ này cậu còn sống... không? Nếu có phép mầu nào mà cậu còn sống ra được nước ngoài, xin liên lạc về tòa soạn...)
“Gắng mà cười Tiến ạ! Còn cười được thì cứ cười.”
Tiến nhếch môi héo úa và nụ cười méo xệch, nước mắt lả chả không che dấu được....
*
Chúng tôi lần lượt rời con tàu Sông Hương. Những họng súng vây quanh. Một “ông” bộ đội còn rất trẻ, quát lớn:
“Tù hàng binh! Chúng mày nghe rõ không? Tập trung lại!”
(Ôi, anh Dương Tử, anh nghe rõ không? Điều anh khao khát một chính danh đã được cậu bé bộ đội quát lên rồi đấy! Ít ra cậu bé bộ đội kia cũng còn có lần nói thật, phải không anh?)
Sáng ngày hôm sau, 25/6/76, chúng tôi được dồn lên toa xe lửa chở súc vật và hàng hóa, tất cả đều bít kín dưới cái nắng chang chang của trời miền Bắc tháng 6. Tàu đến Yên Bái vào buổi chiều, 1/4 số người bất tỉnh được khiêng ra, một vài người đã chết.
Chúng tôi được đón tiếp rất “long trọng”. Những nhà bạt bằng vải trắng đã được dựng lên, y tá và bác sĩ, áo blou trắng, ống nghe và những lọ thuốc được bày ra, và nào là quay phim, nào là chụp ảnh lều bạt, y tá, bác sĩ và những lọ thuốc trống không, bày ra rồi dẹp đi mau chóng. Tôi nói với Đào Quốc Đương và Hoàng Minh Tiến (không phải Tiến CTCT):
“ Cao cả thay lòng nhân ái của đảng!”
Khi lều trại y tế được dẹp bỏ, rồi thì một đoàn thiếu niên và dân chúng tiếp đón chúng tôi. Những thiếu nữ thắt giây lưng, quấn “xà cạp” lăm lăm những khẩu CKC chắn giữa chúng tôi và dân chúng. Một trận mưa đá đổ lên đầu chúng tôi. Một viên đá từ tay một thiếu nữ ném trúng vào người tôi. Tôi nhìn cô bé, hỏi nhẹ:
“Sao lại ném nhẹ thế! Phải căm thù mạnh hơn lên mới được, cô bé ạ!”
Cô bé liếc nhìn quanh, nhìn tôi, cúi đầu nói :
“Cháu xin lỗi! Cháu không muốn thế!”
Cô bé lấy tay lau nhẹ ngấn nước mắt, len lén lẫn vào đám đông.
Tôi thầm nghĩ: “Cám ơn cô bé, cô đã cho tôi một trong những điều nhớ mãi...”
Tôi nhìn qua Tiến, bỗng chợt thấy vẻ cương cường trong khóe mắt Tiến bừng lên, môi Tiến vo lại huýt một điệu sáo nhẹ theo điệu nhạc...”Ta như nước dâng... dâng ngập có bao giờ cạn...”, và một cán bộ Việt cộng quắc mắt nhìn Tiến, hằn giọng:
“Anh kia! Vui lắm hả?!”
Tiến mỉm cười:
“Dạ vui!”
Y bực bội quay đi, lẩm bẩm:
“Vui... vui con mẹ chúng mày!”
Tiến bảo Đương và tôi:
“Chúng muốn đày đọa ta đau khổ, ta không đau khổ, tất nhiên chúng đau khổ! Mày thấy không?!”
Ngay chiều hôm ấy, chúng tôi đến Bến Ô Lâu. Không hiểu sao tôi hình dung ra một dòng sông trôi lều bều những chiếc đầu lâu đen xỉn vì nhiễm độc. Một cụ già khoảng trên 80 tuổi chở đò ngang trên bến sông cột thuyền gần chỗ chiếc phà đưa chúng tôi sang sông, ái ngại nhìn chúng tôi, nói bâng quơ:
“Thêm một đoàn tù nữa đi qua đây, bao nhiêu lần đi mà chưa thấy có người nào trở lại!”
(Về sau này, chúng tôi chuyển trại từ vùng núi rừng Yên Trấn, Xuân Hồng về Thác Bà, lại đi ngang qua bến phà này, tôi gặp lại cụ già lần trước. Lần này chúng tôi qua sông bằng những con đò ngang, và ngay trên con đò bé của cụ. Đôi mắt cụ già ánh lên niềm vui, nói: “Năm nay lão đã 84 tuổi, chở đò ngang đã 71 năm. Có rất nhiều đoàn tù vượt bến Ô Lâu mà chẳng thấy một ai trở lại. Núi rừng Việt Bắc thâm u, độc địa lắm, nuốt hết cả! Lần dầu tiên lão thấy được đoàn tù trở về. Các ông hồng phúc lắm!”)
Chúng tôi sang phà, bên kia sông là một đoàn Molotova chờ đón và mang chúng tôi phân tán vào núi rừng Việt Bắc, bắt đầu những tháng ngày rét mướt, gian lao, đói khổ, nhục hình...
Ta dừng chân nơi này
Núi cao ngửa cổ hát
Xá chi đời lất lây
Môi cười chia tiếng khóc
Ta dừng chân nơi này
Trăm năm nào xá kể
Mây buồn ngang đỉnh cây
Trôi theo đời bóng xế...
*
Chúng tôi được đưa đến Trại 4 Xuân Hồng thuộc đoàn 776 quản lý vào lúc trời đã khuya. Đêm đầu tiên nghe tiếng vượn hú, và sáng sớm hôm sau, nghe tiếng chim “bắt cô trói cột”, không hẹn mà mọi người trong chúng tôi đều đổi thành “khó khăn khắc phục”.
Tổ chúng tôi gồm Linh Mục Nguyễn Quốc Túy, Linh Mục Lai Chư Khanh, và các anh Đào Quốc Đương, Hoàng Minh Tiến, Nguyễn Duy Côn, Nguyễn Văn Quý, Hồ Văn Hòa, Luyện, Hiếu và tôi. Đó là tổ duy nhất không chia phần ăn. Bữa cơm đầu tiên là một rá bắp xay và chén nước muối. Mỗi người được hai chén lưng, và hết hai chén lưng thì tự ý ngưng lại. Vậy mà lần nào cũng dư một chén cơm trong rá. Đương cao lớn, nên với hai lưng chén, giống như muối bỏ bể, nhưng Đương nhất định không chịu ăn chín cơm còn dư. Làm sao mà “dư” được, đó là chén của cha Khanh để lại nhường cho Đương. Cha nói dối là no không ăn thêm được.
(Ôi Chúa, Chúa ở trên cao xanh kia có bắt tội vị linh mục nói dối ấy không? Ước gì tôi bắt chước được cái tội nói dối ấy! Bây giờ cha đã về với Chúa, cha có còn nhớ cha đã phạm bao nhiêu lần nói dối như thế?!)
Hàng ngày, chúng tôi chia nhau làm công việc của tổ để thay cha Khanh ốm yếu ở nhà. Cha Khanh lẩn thẩn nhặt rau rệu, đọt sắn, rau sam... lén lút nấu nồi canh đợi chúng tôi về. Có lần, rau dền gai, rau tàu bay, rau cải trời nấu chung cay xộc lên mũi mà vẫn thấy vô cùng ngon, ngon vô cùng mà ứa nước mắt. Thấy chúng tôi đoàn kết, một hôm đi làm trở về thì thấy Cha Khanh và Cha Túy đã được chuyển đi lên Trại 10, và anh em chúng tôi thì bị phân tán mỗi người một tổ. Mấy hôm sau, khoảng 80 người chuyển từ Cần Thơ ra, tôi thoáng thấy thiếu tá Hinh (Anh Thảo Trường). Thấy anh nhưng không được lại gần, vì bị cấm tiếp xúc. Tôi nhớ một lần, đi lấy nước, phải qua trại 6, trại 12, tôi gặp Phan Nhật Nam và Chinh Yên, tay cầm dao, túi quần nhét chiếc găng tay bảo hộ lao động tự chế, dáng vẫn nghênh ngang, vẫn đùa cợt. Ôi, công tử Lục Tỉnh phiêu lưu ký. Công tử Lục Tỉnh là chữ của Phan Nhật Nam, còn Chinh Yên mệt mỏi lết phía sau. Dường như Chinh Yên đã chết ngày ấy...!
Mấy hôm nay trời rét giá, nhiệt độ xuống dưới hai độ, cái lạnh nhức buốt như kim châm, bào xé thịt da. Gió bấc vật vã trên sườn núi, cuộn sóng trên mặt hồ bốc khói sương. Tấm chăn đơn mỏng và căn trại giò lùa, không tài nào ngủ được, chúng tôi xúm xít lại với nhau, tựa vào nhau ngủ ngồi quanh đống lửa. Anh Lê Văn Chương (thiếu tá cảnh sát) đã chết chiều hôm trước. Cái đói kèm theo cái lạnh khắc nghiệt đến tận cùng.
Thế nhưng, dẫu trời mưa gió lạnh giá, vẫn không một ngày nghỉ, kể cả ngày Chúa nhật. Mỗi người phải lấy 1m3 củi cho nhà bếp, đêm đến phải học tập, sinh hoạt, phê bình, kiểm điểm, bới móc đủ điều. Tiêu chuẩn ăn chỉ còn 9 ký gạo mỗi tháng, song lại đổi thành sắn tươi, 1 gạo 5 sắn, mỗi ngày chia ra 1,5 kg sắn tươi, chưa bóc vỏ. Toán nhà bếp xin trại cho đi cải thiện rau rừng để có thêm rau xanh cho bữa ăn. Rau tàu bay, rau cải trời, lá sắn... đem về nộp cho trại, trại bán lại cho trại viên 50 xu mỗi ký, trừ béng vào tiền vệ sinh hàng tháng là 3 đồng.
Rau tàu bay cay xé miệng, nước mắt, nước mũi ràn rụa, không biết có phải cay vì cải trời? Cán bộ quản giáo Đội 5 Đặng Quang Ba nói rít qua hàm răng:
- Các anh không biết à! 4 ký lá sắn có chất dinh dưỡng bằng một cân thịt bò!
Đào Quốc Đương ghé sát vào tai tôi nói nhỏ:
- Thịt bò lăn, thịt bò càng!
Sương Biên Thùy làm bài thơ ca ngợi sắn, tôi không nhớ được hết, nhưng đại khái như sau:
Hãy cuốc xuống thật sâu
Hãy chôn cho thật kỹ
Sắn nẩy mầm xanh mơn
Nứt ra thành củ lớn
Sáng sắn, trưa sắn, chiều sắn
Ôi, những sắn, những sắn
Sắn sống mãi trong sự nghiệp
của chúng ta.”
*
Tôi nhớ mãi ngày đầu ra Bắc, cán bộ quản giáo, viên thượng sĩ điểm danh, khệnh khạng lên lớp chúng tôi. Chẳng biết ông ta đánh vần ra sao mà tên anh Lương Văn Học lại đổi thành Nương Nộc Nắc, và Đào Quốc Đương thành ra Đào Cuốc Đường, rồi hắn chỉ vào mặt Đương:
- Phản động! Phản động! Cái tên cũng phản động! “Đã Đào” nại còn Cuốc Đường”, đắp mô lữa”!
Chúng tôi cố nín cười. Thấy vẻ mặt chúng tôi, y hét lớn:
- Thế mà tú tài 1, tú tài 2, tao tú tài mười còn chưa thèm lói lữa nà!
Có lẽ y nghĩ tú tài 1, tú tài 2 là lớp một, lớp hai. Từ đó, không biết ai đặt cho y cái tên là A ni ba ba và con cù nần”. Rồi từ đó không ai còn nhớ đến tên thực của y là gì nữa.
*
Chúng tôi chỉ còn da bọc xương, nhưng mặt thì phù lên. Để chống lạnh, chúng tôi được phát hai bộ quần áo trận rằn ri, các túi được tháo gỡ may găng tay, vớ đi rừng để chống vắt, nhưng rồi găng lẫn vớ cũng chỉ vài ngày là rách bươm. Tôi lấy hai chiếc áo may vào làm một, giữa hai lớp áo là lá chuối khô, nhưng gặp hôm trời mưa thì thật là khốn khổ. Cũng may, ngày đầu ở Long Giao, tôi lượm được một số bao cát còn lành, gỡ sợi ra làm chỉ, mài giây điện đồng cho nhọn, đục lỗ thành kim may được hai bộ đồ, quả thật là tiện dụng. Tôi may cả được cái áo lạnh hai lớp, nhưng chỉ dám mặc bên trong, ấm áp vô cùng.. Hai bộ quần áo ấy theo tôi suốt mười mấy năm trong đời tù đày. Nó dễ giặt và mau khô. Ôi bao cát, bao cát sống mãi trong sự nghiệp tù tội của tôi!
Khuya hôm ấy, trời rét cóng, con trâu già đã chết. Đã bao nhiêu lần người ta muốn giết nó, bởi vì bất cứ người lính cộng sản nào đội nón cối, mang súng lại gần nó là nó nổi hung lên, bứt giây, tấn công liền; nhưng ngược lại, khi chúng tôi lại gần nó, nó lại vô cùng nhu mì và hiền lành, lừ đừ suốt ngày như một nhà hiền triết về già. Nó làm việc siêng năng. Nó kéo gỗ từ chân núi, nơi bãi gỗ được phóng từ triền núi cao xuống theo lòng rãnh. Cái rãnh phóng gỗ ấy, cả đội chúng tôi phải bạt cây, xẻ đá, đóng cọc gỗ, làm đà... để mang những thân gỗ dài 2,3 mét, có vòng hoành 150 trở lên... Nó kéo gỗ suốt ngày. Gỗ được chuyển ra bờ hồ, đóng thành bè để bán cho lâm sản lấy tiền bỏ túi cho đảng... Thế nhưng, khi tiếng kẻng của trại vang lên, là dù đang kéo gỗ, nó nhất định ngừng lại, được dỗ dành cũng cứ lì ra. Buổi xế chiều, khi tiếng kẻng vang lên báo giờ lao động, nó lại uể oải đứng lên, không cần ai giục giã. Khi gặp khúc gỗ lớn, nó ngần ngại, bỏ vào trong bụi nằm. Lúc ấy, anh giữ trâu phải bồi dưỡng cho nó bằng cỏ non và muối nó mới chịu đi làm. Những lần ấy, anh em dùng cây xeo giùm nó qua những chỗ gồ ghề. Đôi mắt hiền từ của nó nhìn chúng tôi như biết ơn. Sau này, chúng tôi bảo nhau không hạ những cây có hoành quá lớn nữa. Hôm nó chết, cả đội buồn rầu, không đụng đến phần thịt nó. Từ chối một bữa thịt trâu vào lúc đó, quả thật là một sự hy sinh lớn lao vô bờ bến.
*
Tôi vẫn thường tự nhủ, những nhục hình, đày ải, chẳng nên nhớ lại làm gì, ví dầu có nhớ lại, có nói ra... cũng chẳng bao giờ nhớ và nói cho hết, cho đủ; nó chỉ làm đau đớn, u uất thêm cho cuộc sống vốn đã chẳng có được niềm vui, mà chỉ toàn là những bất hạnh trùng trùng cho đến tận lúc này, và có lẽ cho đến ngày nhắm mắt.
Những ngày buốt giá ấy, ông T. vẫn ngồi đấy, bên đống lửa, vẫn bộ quần áo rách mướp, nhưng lần này khác hơn, là ông đứng lên chào chúng tôi - tôi và Q - khi chúng tôi ghé vào chỗ ông ngồi đan lát. Tôi hỏi như không chú ý:
- Trời rét quá, sao bác không mặc chiếc áo dạ vào?
Ông cười:
- Chiếc áo đẹp quá, em để dành khi chết mang theo, xuống âm phủ không tủi thân như anh em đã chết năm xưa. Vả nại, mặc chiếc áo ấy, khốn khổ chứ chẳng không!
Từ hôm ấy, tôi và Q mang tặng gia đình ông bất cứ thứ gì mà chúng tôi không dùng: quần áo “quần si, quần tẹc” từ khi ra đi vẫn nằm yên trong ba lô.
Tôi bảo ông:
- Những gì dùng được thì cứ để dùng, nếu bán được thì coi như chúng tôi giúp gia đình bác.
Vợ chồng ông cảm động không nói thành lời. Từ đấy, tôi bảo ông mua thuốc lào, đường, kẹo... để tôi giúp đổi cho ông những thứ gì ông có thể bán được có giá. Đôi lần, ông mua cho chúng tôi thứ này, thứ khác, nhưng tôi và Q nhất định không nhận, có khi tôi phải gắt lên ông mới chịu nghe, nhưng bù lại, chỉ tiêu của tôi và Q luôn luôn được ông T. lo liệu trước. Ông T. có 4 người con, hai người con trai lớn đã lấy vợ, làm công nhân ở Yên Bái, chẳng dư giả gì để giúp đỡ gia đình. Cô con gái thứ ba tên Mận, chừng trên 20, và cậu con út 19. Mận được giao làm dịch vụ” mang hàng” ra Yên Bái cho người anh trai lớn đổi chác, mua bán. Cậu con út, một tay cày bừa, trồng trọt mấy sào ruộng khai hoang ven chân núi. Chính cậu em út đã giúp chúng tôi thực hiện chỉ tiêu để sẵn. Chúng tôi nói hoài cũng không chịu nghe.
Năm ấy, ông T. giỗ bố tươm tất hơn tất cả, cố nài chúng tôi đến ngày hôm sau. Tôi thoái thác. Ông T. và cả nhà mang “cỗ” lên trên núi, dọn quang khoảng đất dưới tàn một cây cổ thụ, nơi khuất vắng, ít ai lai vãng đến. Mận đón chúng tôi ở ngoài cửa núi. Mận không đẹp, cũng chẳng xấu, nhưng lại có duyên ngầm những lúc nàng e thẹn. Dấu tích vất vả, cực nhọc hằn trên đôi bàn tay thô xạm. Mận biết tay mình không được đẹp, nên mỗi lần nàng nói chuyện có mặt của Q, Mận luống cuống che dấu đôi bàn tay.
Hôm ấy, sáu người ngồi chung trên chiếc chiếu cói, ông T. và gia đình đứng lên đón hai người chúng tôi:
- Thưa hai ông, sở dĩ năm nay nhà em có được bữa giỗ tươm tất như thế lày, cũng nà do hai ông đem nại cho, đành mạo muội cúng thần rừng, thần lúi, mời hai ông dùng chén rượu nhạt gọi nà, xin hai ông chiếu cố cho!
Tôi hết sức cảm động, còn Q lơ đãng nhìn tàn cây phủ bóng rợp. Tôi nói:
- Ông bà bày vẽ làm gì! Nhưng ông bà đã cho thì phải nhận, có phải không cô Mận?
Nói xong, tôi kéo Q ngồi xuống. Ông T. và cả nhà ngồi chung quanh. Ông T. ngồi cạnh tôi, Q ngồi bên trái, kế đó là cậu Bưởi, đến Mận và bà T.. Ông T. rót rượu ra chung, chiếc chung bằng men sứ cổ, và hai ly thủy tinh không đều nhau, cũ kỹ. Q cười:
- Ông bà tha thứ, tôi không uống rượu được!
Ông T. có ý không vui, tôi đỡ lời:
- Thằng này lái máy bay, giặc lái không biết uống rượu, bởi vậy, đến nay nó vẫn còn ế vợ! Thôi, để tôi uống thay vậy!
Tôi chập hai ly, mời và chúc ông bà T. và gia đình, ngửa cổ uống cạn cả hai. Bà T. cười móm mém:
- Chắc ông nái xe tăng?
Quí chen vào:
- Y là giặc viết, giặc mồm!
Cả nhà ngớ ra, Q cười rũ người xuống.
Ông T. suy nghĩ một lúc, rồi à lên:
- Thôi em biết rồi! Ông đây nà chiến tranh tâm ný, chúng nó gọi như vậy. Ông nà nhà báo, nhà văn?
Q cười vỗ vai tôi:
- Đúng rồi! Y là nhà báo cô, báo đời, văng mạng!
Cả nhà lây cái không khí vui vẻ của Q. Ông T. rót ly rượu mời, tôi đỡ lấy:
- Tôi uống chung này nữa thôi nhé, tam bôi tửu, nói vậy chứ, đây là quốc cấm, họ mà biết tôi uống rượu ở đây với ông bà thì khổ cả lũ!
Chúng tôi chẳng khách khứa gì, ăn sạch trơn mọi thứ, no ứ đến cổ mà miệng vẫn còn thèm. Cô Mận đã dọn dẹp bát đũa vào chiếc thúng, đậy tấm vĩ cói. Ông T. bảo con:
- Dấu vào một chỗ, tối em mày nó đem xuống!
Tôi đưa cho Mận 5 chiếc lon Guigoz. Mận nói:
- Thưa ông, hôm trước, 3 chiếc lon Guigoz cháu đổi được 3 con gà, 12 phong An Thái và 1 bịch kẹo vừng.
Tôi bảo:
- Gà kệ cô! Tôi chỉ lấy 6 phong An Thái và bịch kẹo vừng.
Cô Mận phản đối:
- Vậy đâu có được! Sao ông lấy ít thế!
Q cướp lời:
- Ít sao được mà ít, mỗi phong An Thái 20 gram, chỉ cần 1 lon một phong An Thái là chúng nó mừng húm!
Bưởi hỏi Q:
- Chú Q lái tầu bay gì? Có ra Bắc đánh không?
Tôi đỡ lời:
- Thằng cha này nhát chết mẹ! Sợ phòng không mà chỉ huy một phi đoàn đến mấy chục chiếc!
Ông T. có chút rượu, vui lên thấy rõ:
- U con mày không biết đâu. Hai ông đây nà Quan Lăm, còn lớn hơn Ba Tay Ông xếp ngày xưa của tao đến hai cấp. Ông Quan Ba khạc ra khói, uy quyền ghê gớm nắm, bây giờ các ông đây nỡ vận, vận nước, vận non... mà khổ đến thế lày, đâu có như trung tá của bọn vẹm, nếch thếch như quân ăn mày!
Tôi cản ông T.:
- Chuyện cũ bỏ qua đi, quên đi ông T. ạ!
Bà T. buồn bã:
- Thầy nó ạ! Nhắc nại nàm gì, mang vạ, khổ cho mấy ông đây nữa!
Tôi nhìn thấy cô Mận núp sau lưng bà mẹ, qua vai áo, tôi thấy đôi mắt cô long lanh đang đăm đăm nhìn Q; Q vô tình, mãi nói chuyện với Bưởi không để ý. Bỗng dưng lòng tôi chìm ngập lòng thương xót.
Buổi chiều, trên đường về, tôi hỏi Q:
- Cậu thấy cô Mận thế nào?
Q nhìn tôi đăm đăm:
- Thế nào?
Tôi nhìn thẳng vào mắt Q:
- Cậu không để ý ánh mắt cô bé nhìn cậu lúc sáng này hay sao?
Q cười:
- Cậu đúng là lẩm cẩm, hay tưởng tượng vớ vẩn!
Tuy nói vậy, nhưng trên đường về, Q có vẻ bần thần, nghĩ ngợi.
Hôm sau, chúng tôi lên khu rừng nứa của tôi, đã thấy một đống nứa chặt sẵn, một lon Guizoz trà, một bịch kẹo vừng, loại kẹo Q thường khen ngon, và chiếc lon Guizoz Q để quê trong rừng bữa trước. Lon Guizoz trà còn nóng ấm.
Q ngồi thừ người, dựa vào thân cây. Một lúc lâu, Q cầm lon Guizoz uống một hớp, y nhăn mặt, vì đúng là trà quặn đậm đặc. Q nói giọng bùi ngùi:
- Không phải lỗi tại tôi, tôi đã tránh hết sức!
Tôi thở dài:
-Tình yêu như cuộc rượt đuổi bóng hình. Tôi có nói là lỗi ở cậu đâu nào! Chỉ có điều tội nghiệp. Cậu phải thật khéo léo. Tình yêu đầu đời của người con gái mãnh liệt và liều lĩnh!
Giọng Q trầm xuống:
- Tôi đâu phải hạng người ấy!
- Sao cậu lại tự trách mình thế, tình yêu là biên giới giữa thiên đàng và địa ngục, sự thất vọng của đền đáp biến thành tai họa của địa ngục.
- Tôi hiểu lòng tốt của cậu. Tôi sẽ cố gắng tế nhị, nhưng cậu đừng cho ai biết!
- Tại sao cậu phải dặn dò như thế?!
Q thở dài:
- Xin lỗi!... Biết ra sao phận mình!
Từ hôm ấy, Q cố tránh gặp mặt Mận. Tôi cũng cố tránh nhìn vào khuôn mặt âm thầm và buồn trĩu của nàng. Mận giữ ý, không hỏi tôi về Q, tôi càng tội nghiệp nàng hơn.
Tôi nói cho Q biết điều ấy. Lúc này, dường như gia đình ông T. đã có chút vốn. Ông T. mua một cặp heo và hai bầy gà con, 4, 5 con gà mái đẻ và một con gà trống.
Một hôm tôi bắt gặp Q và Mận nói chuyện với nhau. Hai người không thấy tôi. Tôi đến nơi khuất vắng này bằng một con dường riêng mà chỉ có tôi và Q biết được, luồn lách qua những bụi giang uốn cong như một nhà vòm, rồi mới đến được “thánh địa” của chúng tôi, xuống dưới một thung lũng, rồi bò lên cao dần, nơi rừng trúc của tôi có một doi đất phẳng, che khuất bởi đám cây săng đá thẳng như cột nhà.
Hai người ngồi cách xa nhau, tôi nhìn thấy đôi mắt của Mận đầm đìa nước mắt, giọng của Q trầm, nhỏ nhẹ. Bỗng Q cầm tay Mận, nàng chùn tay ngượng ngập, nhưng lại để yên trong tay Q, đôi mắt nàng vụt long lanh một niềm vui, hai má đỏ hồng e thẹn.
Tôi biết Q chân chính, tôi âm thầm lùi xa và bỏ đi. Đến chiều, lúc vát nứa xuống núi, vẻ mặt Q hơi khác lạ. Tôi cũng chẳng đề cập gì đến việc tôi đã bắt gặp họ trong rừng. Khi xuống tới chân núi, chúng tôi dừng lại nghỉ, Q ngồi xuống bên tôi, khẽ nói:
- Trưa nay nàng tìm gặp tôi.
Tôi giả vờ hỏi:
- Có chuyện gì không?
- Cậu cứ tin ở tôi, tôi xắp xếp tốt đẹp cả, tôi không làm điều gì tệ hại...
Tôi vỗ đầu Q và cười:
- Tôi biết, tôi tin ở cậu! Chỉ cầm tay chút xíu thôi!
Q trợn mắt:
- Cậu thấy à! Tại sao bỏ đi không đến nói chuyện?
Tôi cười, nhìn vào mắt Q:
- Tôi có thấy gì đâu! Trưa nay nằm ngủ bên hốc cây, nằm mơ vậy mà!
Q nghĩ là tôi nói giỡn, giọng Q chân thành:
- Tôi viết thư cho bà cụ, nhờ Mận ra Yên Bái lấy địa chỉ người anh, gửi thư cho bà cụ. Tôi cố giúp cho Mận, cho gia đình này, gọi là chút đền đáp...
Mùa hè năm 1977, T3 tăng cường 5 đội chủ lực làm công tác gánh gạch cho đoàn T76 để xây cất ngôi trường trung học phổ thông. Lò gạch cách nơi tập trung 2 km. Mỗi trại viên được giao 120 viên gạch cho mỗi ngày, riêng ngày Chúa nhật, chỉ tiêu là một nửa. Công việc thoạt ai cũng cho là không đáng kể, nhưng tôi, tôi không nghĩ như thế, quả thật, cho đến khi nhìn thấy viên gạch là một khối đất nung đặc cứng, không có lổ như những viên gạch ống, 24 cm chiều dài, 12 cm chiều rộng và 6 cm chiều dày, gạch đã bị thầm nước nặng không dưới 2kg mỗi viên, và chặng đi về mỗi chuyến trên 4 km.
Chuyến đầu tiên, anh Tường Duy Lợi, võ sư đệ ngũ đẳng huyền đai nhu đạo, người có trái tim bên phải, đã phải hạ từ 36 viên chuyến đầu tiên xuống chỉ còn 24 viên cho chuyến thứ nhì., và chúng tôi cố gắng đến quặn xương, cũng chỉ có thể lê lết 20 viên mỗi chuyến. Q mồ hôi nhễ nhại, xiêu vẹo, thở dốc, lê lết mỗi chuyến chỉ được 16 viên. Năng xuất mỗi ngày một giảm xuống, quản giáo gào thét hăm dọa, cũng không làm sao đạt nổi chỉ tiêu ấn định. Cuối cùng, biện pháp “chế thực” được áp đặt, nghĩa là chỉ phát cơm chiều cho những ai hoàn thành chỉ tiêu. Trông Q hốc hác hẳn đi, tôi bảo Q:
- Cậu đừng mất công mỗi chuyến mỗi xếp, cứ đổ chung một đống với tôi, để tôi xếp cho!
Q cười như mếu:
- Xếp trước sau gì chẳng thế, quan trọng là có đủ 120 viên hay không!
Tôi lừ mắt:
- Thì cứ xếp 8 viên và cao 15 lớp là đủ!
Q văng tục:
- Nói như cục C, có gì khác, tám viên nhân 15 thì dễ thường 100 viên à?
Tôi nói nhỏ:
- Cậu cứ cố gắng có được 100 viên, còn bao nhiêu để tôi phụ cho!
Vẻ cảm động hiện trong đôi mắt, Q lắc đầu:
- Không được, cậu cố gắng hết sức còn chưa đủ, làm sao phụ cho tôi được? Với lại, tôi không thể ỷ vào cậu được!
Tôi cười, nháy mắt:
- Tôi phụ xếp cho cậu, hai đứa 200 viên là đủ, nghe rõ chưa thằng ngốc?! Q đờ mặt ra, một lúc sau cười toét miệng:
- Rỗng ruột à?
- Vớ vẩn! Rỗng đâu mà rỗng! Có điều không được đặc!
Từ hôm ấy, chỉ phải gánh 6 chuyến là đủ, chúng tôi dậy thật sớm, “tranh thủ” tránh cái nắng như đổ lửa buổi trưa, 25 km đường dài cho một ngày đi về. Dù không đến nỗi bết bát, nhưng bọn tôi cũng phải cày cho đến lúc mặt trời lặn mới xong được chỉ tiêu. Nguyên tắc gánh nặng thì phải chạy, đòn gánh phải dẻo, nhún nhẩy lên xuống, sức nặng do đó giảm đị Chỉ tội cho hai bắp chân và đôi vai còm cõi. Đoạn đường chỉ hơn 2 km mà chúng tôi phải nghỉ từ 3 đến 4 lần suốt dọc đường.
Một hôm, hai đứa tôi nghỉ cạnh một ngôi nhà lụp xụp, dưới một tàn cây, để tránh cái nắng như đổ lửa, mồ hôi nhễ nhại, miệng khô đắng vì quá khát. Tôi bảo Q:
- Cậu ngồi đây, tôi vào xin miếng nước.
Q cản:
- Không được đâu! Họ cấm không được liên lạc với dân, vả lại, chắc gì họ cho.
Tôi cười:
- Bộ cậu không nhìn thấy cặp mắt họ nhìn chúng ta à?
- Mắt làm sao?
Tôi cười chế nhạo:
- Tớ chẳng hiểu sao cậu lại mang đến lon trung tá được, chỉ ở tầm binh nhất là cùng!
- Sao vậy? Dễ còn cậu ngang tầm tướng lãnh chắc! Mà ăn thua gì đến con mắt?
- Tớ ấy à! Tớ chỉ ngang tầm cỡ Từ Hải, hoặc giả hơn Khổng Minh chút đỉnh!
Q bật cười:
- Thằng này dốc tổ mẹ, nhưng con mắt thì sao?
- Cậu không nhìn thấy ánh mắt ái ngại, thương xót của họ nhìn chúng ta à?! Q chun mũi:
- Thôi được, để xem, tớ liều theo cậu một chuyến...
Người đàn bà cằn cỗi nhìn chúng tôi ngạc nhiên, và khi tôi lên tiếng xin bà cụ một miếng nước uống, từ ánh mắt ấy chợt bùng lên lửa giận, bà đứng bật dậy, chỉ tay vào mặt chúng tôi, xỉa xói:
- À, quân mặt dày, quân mặt mo, chúng mày còn dám vác mặt vào đây xin nước uống nữa à! Q mặt tái mét, toan chạy. Tôi giữ tay Q lại, nhìn thẳng vào ánh mắt nóng giận nhưng không một chút căm thù của người đàn bà.
Chúng tôi đứng im nghe bà già nói mà không đoán được tuổi tác bà; có thể bà cụ chừng 70, mà cũng có thể chỉ cỡ tuổi 50:
- ...Tao tưởng chúng mày vào Nam làm vương làm tướng gì, hóa ra chỉ là bọn ăn hại đái nát, tham ô, móc ngoặc, tranh danh, đoạt lợi. Bà đặt hy vọng vào chúng mày, suốt bao năm trông đợi, bây giờ bà tuyệt vọng, cha tổ bố....
Giọng bà nghẹn đi, nước mắt ứa ra, khuôn mặt co rúm lại vì đau xót... và hốt nhiên, cả tôi lẫn Q đều nước mắt chan hòa, cúi đầu xót xa. Giọng bà trầm xuống sau một lúc im lặng:
- Đã đến dường này, thôi thì cũng là số mệnh, bọn này nó tàn ác lắm, ráng nhẫn nhịn mà chịu đựng để có ngày về với vợ, với con...
Bà cụ kéo chúng tôi vào nhà, gian nhà tối om, bà bảo chúng tôi ngồi xuống tấm phản, rồi bà mang từ trong bếp ra một rổ khoai đã luộc, và một “siêu” nước:
- Các em ăn đi! Chị nghèo lắm! Chẳng có gì hơn thế này, đừng giận chị, ráng cắn răng mà chịu đựng...
Và bà chép miệng, lắc đầu thở dài.
Từ hôm ấy, dưới tàng cây, khuất trong bụi rậm, thường xuyên có một vò nước, và đôi khi có củ khoai, củ sắn bọc trong một mảnh lá chuối.
Không chỉ riêng T3 phải tăng cường gánh gạch mà còn nhiều trại khác, nhưng đảm trách từng lò gạch khác nhau. Tôi gặp lại một số bạn bè cũ như Tôn Thất Trai, Nguyễn Văn Lộc... Tôi không hiểu làm thế nào Trai có thể kham nổi 120 viên gạch mỗi ngày với đôi chân Trai bị gẫy vào “Mùa Hè đỏ lửa” 1972. Nhìn Trai xơ xác, còm cõi, xanh xao mà lòng tôi quặn thắt. Lộc thì hàm răng cửa không còn lấy một cái. Chúng tôi đứng nhìn nhau, trao đổi bằng ánh mắt rồi quay đi như người không quen biết. Nội qui của trại gồm 39 điều qui định và 20 điều về “nếp sống văn hóa mới”. Một trong 39 điều nội qui mà chúng tôi phải thuộc làu... là là trại viên không được xưng hô với nhau theo những liên hệ cũ, cho dù là cha, con, chú, bác... Tất cả chỉ có anh và tôi. Và đó cũng chính là “nếp sống văn hóa mới” của chế độ. Bao nhiêu điều tự hỏi, nhưng không biết trả lời thế nào!
Ngày tôi gặp lại Trai là ngày Chúa Nhật ở chợ phiên. Tuy gọi là chợ phiên, cả một vùng rộng lớn 15 ngày mới có một phiên chợ, vậy mà chỉ lác đác vài chục người, hàng quán thì đơn sơ. Trong buổi chợ ấy, chúng tôi gặp Mận. Tôi thấy Mận đầu tiên và chỉ cho Q, vì chúng tôi ở sân trường, nơi những viên gạch được xếp thành từng hàng, cách nơi họp chợ vài chục mét. Mận ôm con gà, đứng nhìn về phía sân trường, vẻ mặt ngơ ngác, tìm kiếm. Khi nhìn thấy Q, Mận xăm xăm bước đến. Gã bộ đội ôm súng ngồi ở hiên trường, nhận ra Mận, gọi lớn:
- Con Mận, mày đi chợ đấy à!
Mận giật mình đứng lại. Gã bộ đội xách súng đi tới, cợt nhả:
- Mày bán gà à? Bán chịu cho tao, sang năm tao trả cả vốn lẫn lời!
Mận hậm hực, chua ngoa:
- Có tiền thì mua, không có tiền thì nhịn!
Gã bộ đội cười hềnh hệch, đểu cáng:
- Ông thèm gà của mày rớt cả nước dãi!
Mận quắc mắt nhìn gã, nhổ nước miếng, bỏ đi. Gã bộ đội bẽ mặt nói vọng theo:
- Con chó phét! Ông lại bóp... cho vãi đái ra ấy chứ lị...!
Chúng tôi vội vã tản ra. Gã quát lớn thị uy:
- Chúng mày nhìn cái gì? Muốn chống đối phỏng!
Chẳng ai trong chúng tôi ngạc nhiên về “nếp sống văn hóa mới” ấy. Thực tình mà nói, không phải tất cả bộ đội cộng sản đều như thế cả, họa hoằn chúng tôi cũng gặp được vài người tốt, song không một ai dám tỏ vẻ thân cận, hỏi han chúng tôi nếu có từ 2 người trở lên. Họ giữ miếng nhau từng chút.
Tôi còn nhớ, có một gã bộ đội còn rất trẻ; gã thường ngồi một mình, rất ít nói, rất ít khi quát nạt. Một hôm gặp gã ngồi thơ thẩn dưới tàng cây gần chân núi, thấy tôi một mình vác nứa đi xuống, nhìn quanh không thấy ai, gã nhỏ nhẹ:
- Ngồi xuống đây nghỉ một lát đã!
Tôi mỉm cười nhìn gã e dè, đứng lại, cách xa trên 6 bước. Chúng tôi không được phép lại gần cán bộ, vì họ có thể bắn chết rồi vu cho là tấn công, cướp súng, phản loạn. Đã có ít nhất là hai trại viên bị bắn chết trong trường hợp như thế, vì khi được gọi tới, họ đã vô tình đến quá gần mà trong tay còn cầm dụng cụ, cuốc xẻng... Nếu được gọi đích tên, trại viên phải bỏ cuốc, xẻng, dao, rựa xuống, đến cách xa cán bộ trên 6 mét, bỏ mũ xuống, đứng nghiêm. Do đó, khi thấy tôi đứng cách xa gã trên 6 mét, gã hiểu ý, nhỏ nhẹ:
- Chú ngồi xuống đi!
Tôi ngạc nhiên vô cùng khi nghe được tiếng chú từ miệng một cán bộ bộ đội - thay vì chỉ duy nhất tiếng anh, hoặc mày, tao... được dùng, dù rằng người đó có là một ông già đáng tuổi ông nội.
Tôi ngồi xuống, ngó lơ chỗ khác. Tôi càng ngạc nhiên hơn khi gã nói với tôi:
- Cháu biết các chú khổ lắm. Mẹ cháu thường dặn cháu không được hỗn láo. Gia đình cháu cũng người Công giáo. Họ biên chế cháu lên đây để theo dõi thái độ của cháu, chẳng phải ai cũng hung ác hết cả đâu. Thôi chú ngồi nghỉ nhé!
Nói xong, y bỏ đi, vậy mà khi có người khác, y làm như không hề đã nói chuyện với tôi một lần như thế.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire