caroline thanh huong

caroline thanh huong
catbui

Libellés

dimanche 20 octobre 2019

Vũ Thư Hiền và câu chuỵên Gặp Gỡ Ở Lưng Đèo.

Kính gửi quý anh chị một chuyện ngắn của Vũ Thư Hiền Gặp Gỡ Ở Lưng Đèo.

Gặp gỡ ở lưng đèo

Posted: 09/09/2019 
Vũ Thư Hiên

Nhạc sĩ Đoàn Chuẩn (1924-2001)
1.
Thời gian trôi, chớp mắt đã quá nửa thế kỷ. Không thể níu kéo nó, không thể bắt nó dừng. Nó đi rồi là hết, may chăng còn rớt lại cái bóng.
Tôi có giữ lại một cái bóng có thể bổ sung cho tiểu sử một con người đáng nhớ. Người ấy có thể là người quen của bạn, người ấy có thể không xa lạ với bạn, biết đâu đấy.
Chuyện là thế này.
Cuộc kháng chiến đã vào năm thứ tư. Con đường hàng tỉnh từ Tuyên Quang đi Thái Nguyên vốn hẹp không có ô tô qua lại còn trở nên hẹp hơn nữa. Những bụi cây lúp xúp tràn ra mặt đường. Cỏ gà, cỏ mần trầu mọc thành bụi ở những ổ gà. Ở đôi chỗ hoa lau loà xoà quệt vào mặt khách bộ hành.

Ba lô trên vai, tôi cắm cúi đi.
Một mình. Nắng chói chang.
Đường vắng ngắt, không bóng người. Thỉnh thoảng lắm mới thấy một chiếc xe đạp lọc cọc vượt qua.
Đang đi bỗng dưng tôi thấy người ngây ngấy sốt. Trong người cảm giác rét tăng dần. Sốt rét rồi! Cái thứ bệnh tai quái không đến khi mình còn ở cơ quan tĩnh tại hoặc ở một trạm chờ nào đó, khốn nạn thế, lại nhằm lúc mình đang trên đường, không còn gì tệ hơn.
Tôi sốt đùng đùng và rét run cầm cập.
Thứ ánh sáng tàn nhẫn của nắng quái thiêu đốt tất tần tật mọi thứ nó đụng tới. Những bụi rậm ven đường rũ xuống, lá nào lá ấy quắt queo.
Đến lúc không còn chịu đựng được nữa, tôi tạt ngang, lao bừa vào rừng qua những bụi rậm gai góc và dây leo chằng chịt. Chỉ ở trong ấy, dưới những tán lá rậm của cây cao mới có chỗ trú khỏi cái nắng chết người.
Sức trong người tôi cạn dần cùng với mỗi bước đi, cùng với mỗi hơi thở nóng hổi, như thể nước trong thùng từng đợt ộc ra ngoài. Đi được vài chục bước, tôi kiệt lực, gieo mình xuống thảm lá mục, cố lê đến một gốc cây thấp, tựa vào nó mà thở hồng hộc. Hơi thở làm bỏng môi trên. Những dòng mồ hôi lăn dài trên ngực. Áo quần chẳng mấy chốc đã ướt đẫm.
Dù sao thì cuộc chạy trốn khỏi con đường đá răm vắng ngắt phơi mình dưới ánh nắng kinh khủng ngoài kia cũng ngừng được trong giây lát. Một con chim đỏ chót bay vút qua những bụi rậm trước mắt tôi với một tiếng hót lanh lảnh làm tôi giật mình.
Tôi chợt hiểu: cái mà tôi đang chịu đựng không phải sốt rét thường. Rất có thể nó là một cơn ác tính.
Tôi đã biết sốt rét ác tính cái gì. Nó thường đi kèm với cái chết.
Tôi thì còn quá trẻ để chết.
Không, tôi không thể chết thế này.
Tôi gắng gượng đứng lên, lảo đảo lao trở lại con đường chói lòa.
Không thể dừng. Phải tiếp tục đi. Ngay lập tức.
Bằng mọi giá, phải tới được trạm quân y, tôi nhớ nó cách đấy không xa lắm.
2.
Tiếng đàn làm tôi tỉnh giấc. Tôi nằm yên, lắng nghe những giọt âm thanh thánh thót tan vào không gian im ắng. Nó thoáng hiện, thoáng mất, nhưng không phải trong mơ.
Giai điệu mơ hồ đưa tôi về quá khứ, nhắc tôi tới một cái gì mang máng nhớ mà không sao nhớ ra.
Choàng tấm chăn sui [1] lên vai, tôi đứng lên đi, những bước xiêu vẹo về phía có tiếng nhạc.
Qua tấm liếp khép hờ ngăn với gian ngoài tôi thấy một người đàn ông đang cúi xuống cây ghi ta Hạ Uy Di. Cảnh tượng làm tôi sững sờ – tôi không nghĩ tới, không tưởng tượngnổi giữa rừng Việt Bắc thời chiến lại có người nhàn tản chơi đàn như thế.
Tiếng đàn đột ngột tắt.
Người đàn ông ngẩng lên. Rồi bật dậy, sải bước về phía tôi, ngắm nghía tôi, đoạn buông một câu hỏi bất ngờ:
– Hà Nội hở?
Rất ngạc nhiên, nhưng tôi gật:
– Hà Nội.
Anh ta nhìn tôi chằm chằm, đặt tay lên trán tôi, rồi cười lớn:
– Lạy Trời, cậu sống rồi!
3.
Tôi không tới được trạm quân y.
Hình ảnh cuối cùng mà tôi nhớ được là một mái tranh lờ mờ trước mặt.
Tỉnh lại, tôi thấy mình trong gian bếp thấp tè, đen sì mồ hóng với bầu không khí đậm mùi khói lưu cữu.
Người đàn ông kéo tôi đến bên chõng, đặt tôi ngồi.
– Tốt rồi! – anh nắm tay tôi, nhìn sâu vào mắt tôi, lặp lại lần nữa – Đã tưởng cậu không sống nổi.
Tôi nhìn anh. Dáng thanh mảnh, cao ráo, gương mặt thông minh, đôi mắt sáng, đen láy, cái nhìn thẳng thắn. Tất cả gợi cảm giác tin cậy , thoải mái. Cách xưng hô “cậu, tớ” ngay lập tức xoá nhoà ranh giới giữa tôi và người lạ.
– Lúc khiêng cậu vào, mặt cậu tím ngắt, lay gọi thế nào cũng không tỉnh.
Tôi ấp úng lời cảm ơn.
– Vớ vẩn! – anh lắc đầu, cười hiền – Cảm ơn cái con khỉ. Cảm ơn trời ấy.
Thì ra đây là người cứu tôi. Tôi chỉ nhớ khi quán nước hiện ra lờ mờ trước mặt, thì trời đất bỗng nghiêng ngả rồi đổ sụp.
Anh đặt tay lên vai tôi:
– Cậu nằm đây vài ngày cho lại sức, mọi cái tính sau.
Nụ cười nói về con người nhiều hơn bất cứ ngôn ngữ nào. Qua nụ cười ta có thể biết mọi thật giả, tốt xấu nơi người đối thoại. Nụ cười của anh cho tôi niềm tin.
– Cậu người phố nào?
– Nhà Rượu, anh ạ.
– Ờ, Sergent Larrivet – anh nói, mắt mơ màng – Tớ cũng hay qua đấy. Bên kia Nghĩa địa Tây có cái marbrerie [2] Ngô Văn Vỹ. Tớ quen gia đình này.
Cái xưởng đá với vô số bia mộ đẽo dở nằm ngổn ngang trong một bãi rộng tràn cả ra ngoài đường là hình ảnh quen thuộc với tôi. Tôi thường đi qua đây để ra phố Huế, nơi lũ trẻ chúng tôi đặt những nút bia lên đường tàu điện, chúng sẽ bị bánh tàu điện ép phẳng lì thành một thứ tiền trong tròăn thua của trẻ con, gọi là xèng.
Từ chỗ chúng tôi đang ngồi, Hà Nội xa tít tắp, như ở một thế giới khác.
Anh đặt cây đàn sang một bên, bắt tôi nằm, rồi ngồi bên – Giữa đường được gặp cậu, lại là người Hà Nội, tớ vui lắm.
Tôi nằm, ngước nhìn anh.
– Cậu có hay đi ciné [3] không?
Tôi gật.
Anh mơ màng:
– Mình hay đi Majestic. Cậu cũng hay xem ở đấy chứ?
Tôi lại gật.
Majestic nằm giữa phố Huế, là rạp cho tây đầm, cho nhà giàu, vé đắt. Tôi mê xem phim, nhưng chỉ có thể xem phim ở rạp Moderne phố Hàng Quạt. Giá hạng bét ở rạp này một hào rưỡi, nhưng khi buổi chiếu đã bắt đầu, cửa đã khép, thì chỉ cần giúi vào tay ông gác cửa to béo có hàng ria mép rậm một hào hoặc không đủ một hào là con người dễ tính liền gạt bức màn bằng vải thô nặng nề đẩy tôi vào không gian mơ ước. Tôi thường được vào khi đã qua phần thời sự hoặc phim chính bắt đầu chiếu. Phim nói tiếng Pháp nhưng đọc chương trình tóm tắt có thể hiểu chuyện phim. Chúng tôi, những đứa trẻ mê xi-nê, đứa nào cũng tích được một tập chương trình. Chúng tôi thuộc tên các diễn viên, ngày ấy gọi là tài tử – Clark Gable, Cary Grant, Gary Cooper…
– Phim cuối cùng cậu xem là phim nào?
– Bạch Tuyết và bảy chú lùn, anh ạ.
Tôi không thể cậu tớ với người hơn mình nhiều tuổi
Bạch Tuyết và bảy chú lùn không được chiếu ở các rạp rẻ tiền. Tôi phải hy sinh vài buổi xem ở rạp Moderne để được ngồi ghế hạng bét ở Majestic.
– Thích chứ?
– Thích.
– Còn mình thì thích Pinoccio.
Mắt anh mờ đi.
Nỗi nhớ chung dắt chúng tôi về nơi đã trở thành dĩ vãng.
– Tôi cũng thích Pinoccio. Nhưng thích nhất là những phim cao-bồi như La Chevauché fantastique [4].
– Tớ có xem phim này. Charles Starett vai chính.
– Xem xong, sau buổi chiếu muộn – tôi mơ màng nhớ lại – khi ngoài tiếng guốc gỗ khua trên vỉa hè đêm là tiếng huýt sáo bản nhạc trong phim vừa xem.
Anh huýt sáo giai điệu tôi vừa nhắc:
– Tuyệt. Người Hà Nội rất có khiếu âm nhạc. Không thế thì làm sao nhớ được một giai điệu vừa mới nghe.
4.
Một cô gái xuất hiện ở cửa quán.
Ánh sáng ngược tạo ra một vầng hào quang trên mái tóc cô, nó làm gương mặt cô chìm trong tối, trừ cặp mắt long lanh.
– Cô chủ quán – anh ngừng nói, mắt tươi rói.
Nhìn thấy tôi, cô gái reo lên mừng rỡ:
– Ối trời, anh đã dậy được rồi kìa!
Cô đặt bàn tay mềm và mát rượi lên trán tôi, cười khanh khách:
– A lúi, lúc ấy trông anh kinh lắm. Mấy ngày rồi ấy nhỉ? Hôm nay là ngày thứ ba.
– Không có cô ấy thì một mình tớ không tài nào tha nổi cậu đâu – anh nói – Cậu trông thế mà nặng kinh.
Anh cười tươi, mắt không rời cô gái.
– Như chết rồi ấy – cô gái nói – Người chết nặng hơn người sống, các cụ bảo thế.
Nước da trắng hồng, nụ cười phô hàm răng trắng đều đặn – một cô gái xinh. Thoạt nghe cô “a lúi”, tôi nghĩ cô người Tầy, nhưng “may ơi là may” thì chỉ có người Kinh nói.
– Đang nằm xuội anh bật dậy, răng nghiến chặt, bọt mép sùi ra, giãy giụa như lên cơn động kinh – cô miêu tả tình cảnh của tôi – Hai anh em đè không nổi.
Tôi nói xinh là không đủ, hoặc sai.
Tôi đang ở cái tuổi nhìn thấy cô gái nào cũng đẹp, không đẹp lắm thì cũng đẹp vừa. Trong bộ quần áo xanh chàm, trông cô không khác những cô gái Tày. Cô có giọng liến thoắng, rất trong, như hát.
Anh cười theo cô, lắc đầu:
– Khiếp, lại còn đái cả ra quần nữa chứ.
Tôi nhìn xuống.
Tôi đỏ bừng mặt. Ai đã thay cho tôi? Người đàn ông nọ? Hay… cô gái?
Cái ba lô của tôi nằm dưới chân chõng. Tôi kéo nó lại. Bộ quần áo cũ đã được giặt sạch nằm trên cùng. Cái tôi quan tâm hơn hết là bó tài liệu bọc trong vải mưa tẩm nhựa thông. Nó còn nguyên vẹn.
Anh không để ý cử chỉ hấp tấp của tôi. Nếu nhận thấy, anh sẽ giận vì nó chứng tỏ tôi không tin người đã cứu mình.
– Ca ác tính này tớ đã gặp. Khó qua lắm – anh chậm rãi nói – Phải có Quinoform tiêm thẳng vào ven mới xong. Ở cái chốn hẻo lánh này thì làm gì có nó. May sao, tớ còn nhiều ký ninh. Mới hòa thật đặc cho cậu uống. Là còn nước còn tát, chứ chẳng hi vọng gì.
– Cả một vốc thuốc. Răng anh cắn chặt lắm – cô gái kể – hai người cậy mãi mới được. Anh vùng vẫy, phun phì phì.
– Tớ còn sợ làm cậu chết vì thuốc ấy – anh nghiêm nghị – Thôi thì cứ liều, đổ đại cho cậu. Coi như còn nước còn tát.
5.
Tôi không quên từng chi tiết cuộc gặp gỡ bất ngờ. Nó hằn sâu trong trí nhớ bề bộn.
Nó đúng là như thế. Bắt đầu không phải cái gì khác, mà một câu hỏi:
– Hà Nội hở?
Làm sao anh có thể thoáng qua đã nhận ra một nét Hà Nội trong tôi?
Tôi không đặt câu hỏi ấy ra với anh. Anh hỏi mà như khẳng định. Không khảo sát, không đánh giá.
Quán nước này giống hệt mọi quán khác – một mái tranh nhỏ, tạm bợ, không chái, không vườn. Những quán nước như thế nằm rải rác trên con đường hàng tỉnh với quãng cách không thể nào biết trước, có thể vài cây số, có thể hơn. Chúng hiện ra bất ngờ ở những khúc ngoặt, những ngả rẽ bên con đường ngoằn ngoèo hết lên lại xuống giữa đồi núi chập chùng.
– Em phải chạy ngay, mẹ em bảo. Đã có các anh ở đây rồi.
Tôi gặp mẹ cô vài lần mấy ngày sau khi bà tạt qua quán – một người hết sức đồng bằng, chít khăn mỏ quạ, thấp bé, nhanh nhẹn, ít nói, cười nhiều. Bà kể: khi làng bị Tây càn, bà đắt con chạy theo gia đình một ông lái gỗ, vùng này ông quen khi còn làm sơn tràng. Thời chiến, nghề buôn gỗ về xuôi không còn đất, ông dựng hai ngôi nhà tạm cho hai gia đình. Đất rộng, hai nhà phát hoang trồng khoai trồng sắn, nuôi gà, chạy chợ.
Trong gian ngoài cái quán có cái chõng tre đã ngả màu cánh gián, trên đó có ấm nước vối sứt vòi, mấy cái bát sành, vài nải chuối, mấy tấm bánh lá, mấy gói kẹo vừng, kẹo lạc, vài phong thuốc lào – hàng hoá muôn thuở của bất cứ quán ven đường nào. Sang hơn cả, được đặt trong một lọ thuỷ tinh không trong suốt là những cái kẹo đen sì làm bằng đường thẻ, có tên là “kẹo đầu Tây”, vì chúng trông giống những cái mũ sắt. Khi vắng chủ quán, khách vãng lai tự ăn tự uống, rồi tự bỏ tiền vào một cái hộp bánh quy đã rỉ sét, không có nắp. Hàng bày trên chõng đều có ghi giá, khi bằng bút chì, khi bằng mực tím, viết nguệch ngoạc trên một mẩu giấy.
Nhiều quán trên mấy tỉnh lộ vùng núi cũng thế – người ta chẳng cần trông, khách không bao giờ ăn uống mà không trả tiền.
– Có lần người ta trả bằng gạo, chắc là của mấy chú bộ đội – bà chủ quán kể – Tội nghiệp, không còn tiền thì thôi, chứ ai nỡ đòi gạo bộ đội.
Ngoài hai mẹ con, trong quán còn có một con chó bốn mắt, thứ chó mực có hai đốm vàng trên mặt, tôi gặp nhiều ở vùng này. Cả ngày nó tha thẩn theo cô chủ, cô đi đâu nó theo đấy. Nhưng khi cô bảo nó ở lại quán thì nó nghe lời, ở lại với hai chúng tôi.
Con bốn mắt không có tên. Nó quấn tôi lắm. Mỗi khi tỉnh giấc thấy con bốn mắt nằm giãi thải dưới chân, mắt lim dim, cùng tôi nghe đàn, tôi có cảm giác đang ở nhà mình.
Khi tôi còn bé, nhà tôi có một con Kiki trắng vá đen. Lứa đầu nó đẻ bốn con rất đẹp, cũng trắng vá đen như mẹ. Suốt ngày tôi chơi với chúng. Khi một đứa con của nó chết, tôi đem con chó tí xíu chôn ở dưới gốc hoàng lan cuối phố, nơi có con đường tắt đầy cỏ may dẫn vào chùa Hai Bà. Những giọt nước mắt đầu tiên của tôi trước sự mất đi không thể nào lấy lại của sinh linh bé bỏng đã nhỏ xuống nấm mồ cũng tí xíu.
Tôi trên đường công tác. Người đàn ông chẳng nói mình đi đâu, làm gì. Tôi cũng không hỏi.
Anh không giống những người tôi thường gặp. Áo sơ mi trắng, quần ka ki, sạch sẽ. Như thế anh không thể là bộ đội, bao giờ cũng xộc xệch, cũng nhếch nhác, không nhiều thì ít. Cũng không phải cán bộ chính trị chỉn chu trong bộ ka ki với cái xà cột bất ly thân, cán bộ cấp cao một chút còn cưỡi xe đạp Sterling. Anh cũng chẳng giống dân “bờ lờ”, cách gọi tắt dân buôn lậu, trong bộ cánh nâu tươm tất, kính đen Stigmal gọn gàng trên sống mũi. Tôi đoán anh là nhạc công trong một đoàn nào đó. Nhưng dân văn công thường đi đoàn với đủ mọi thứ lỉnh kỉnh. Người này chắc hẳn có công việc gì đấy không quan trọng, không cấp thiết. Không thế thì sao anh có thể ở lại giữa đường để trông nom một kẻ không hề quen biết.
Khi tôi hỏi ở lại giúp tôi có làm dở dang công việc của anh không, thì anh thờ ơ: “Chuyện vặt. Người nào gặp trường hợp này thì cũng làm như tớ thôi. Cậu có thể bỏ một người thập tử nhất sinh mà không cứu? Phải đợi cậu khỏe lại hẳn tớ mới đi được.
Mấy ngày tôi nằm lại, anh bắt tôi uống thuốc, chơi đàn cho tôi nghe, trò chuyện với tôi về thành phố từ đó chúng tôi ra đi.
Hà Nội đã tít tắp xa. Chẳng ai biết trước ngày trở lại. Có thể mường tượng nó – những con phố với những cột điện, những hàng cây, lá rụng trên hè, nước lặng lẽ chảy trong rãnh. Và “mái buồn nghe sấu rụng” trong thơ Quang Dũng.
Rõ ràng là con người này chẳng vội vàng, gặp chỗ dừng chân dễ chịu thì dừng, chẳng buồn kén chọn. Rất có thể cuộc gặp gỡ bất ngờ với người cùng quê hương cho anh cái cớ để dừng lâu hơn.
Tôi ngờ anh dừng lâu hơn vì cô gái.
– Một bông hoa rừng. Nhưng từ dưới xuôi lên.
Khi nhìn cô, mắt anh vừa sáng lên, vừa mơ màng. Cũng có thể tôi nhầm. Đôi lúc tôi có cảm giác vừa nói chuyện với tôi anh vừa nghĩ về một cái gì khác rất xa, chẳng dính dáng tới điều chúng tôi đang nói.
Ngày nào anh cũng bảo cô chủ quán mua gà, mua trứng về nấu cháo cho tôi ăn. Những bữa ăn như thế giúp tôi lại sức rất nhanh. Không những thế, chúng còn là những bữa ăn sang trọng hiếm có trong đời lính.
Một hôm, thấy tôi có vẻ băn khoăn, anh gọi tôi ra sau quán. Đứng trong những bụi sắn, anh trật quần dài, kéo tay tôi đặt vào cạp quần đùi:
– Cậu nắn đi.
Tôi nắn thấy những vật tròn cứng.
– Vàng đấy. Toàn nhẫn cả. Dự trữ cho kháng chiến trường kỳ. Thỉnh thoảng tớ lấy ra một cái bán đi ăn dần.
Anh xắp lại quần, cười hì hì:
– Đừng lo tớ không có tiền.
Tôi kể dài dòng văn tự chỉ cốt để người đọc những dòng kỷ niệm này hình dung được khung cảnh một thời đã mất. Thời ấy con người với con người là bạn, và còn hơn thế. Mà cũng để ghi lại một cái ơn. Không có cuộc gặp gỡ tình cờ ấy, biết đâu tôi chẳng còn.
Thời gian ngắn ngủi ở bên nhau đủ để chúng tôi thân nhau, yêu quý nhau nữa, có thể nói như thế. Những cuộc tâm sự đêm khuya trong tiếng sương rơi lộp độp trên mái tranh làm tôi hiểu và quý anh hơn.
Tôi trách mình đã không hoàn toàn tin anh. Thời chiến, tinh thần cảnh giác cách mạng làm cho cuộc chia tay giữa hai chúng tôi không được như lẽ ra nó phải có. Chúng tôi quyết định lên đường đi Thái Nguyên khi tôi đã có thể đi được. Tôi cố ý đi quá nơi tôi phải rẽ vào chừng một cây số mới chia tay với anh:
– Mình sẽ còn gặp lại – tôi nói.
– Chắc chắn – anh nói.
6.
Tôi đã gặp Đoàn Chuẩn đúng như thế. Chia tay với anh, tôi chỉ biết cái tên.
Tôi gặp một con người, không phải một danh tiếng.
Những tác phẩm của Đoàn Chuẩn tôi không được nghe trong những năm kháng chiến. Tôi không nghĩ rằng đã có một lệnh cấm những bài hát lãng mạn. Chúng có vẻ không thích hợp trong thời chinh chiến thì người ta không hát, thế thôi. Hoặc giả có một lệnh cấm nào đó mà tôi không biết, không được nghe phổ biến.
Cuộc gặp gỡ thứ hai với người cứu mạng mình xảy ra mấy năm sau.
Ngày 10.10 năm 1954, xong việc quay cảnh thượng kỳ ở Cột Cờ, tôi đi lang thang. Ở phố Huế, trước cửa rạp chiếu bóng Majestic, tôi thấy một chiếc xe hơi bồng bềnh đi chầm chậm theo mình. Một gương mặt lạ – mái tóc bóng mượt, miệng ngậm bót thuốc lá ló ra ở cửa để mở. Người ngồi sau tay lái chăm chú nhìn tôi rồi cho xe vượt lên ngang tầm:
– Hiên hả? Phải Hiên không?
Đến lúc ấy tôi nhận ra anh: Đoàn Chuẩn.
Anh cho xe dừng, bước ra, ôm chặt tôi, mừng rỡ.
– Về khi nào?
– Đêm qua. Mới đi bát phố một lát.
– Cậu ở đâu?
– Khách sạn Splendid.
Anh cười:
– Sang nhỉ?
Rồi kéo tôi vào quán cà phê An Thái Majestic.
Người Hà Nội xưa đều biết quán cà phê này. Nó ở bên trái rạp chiếu bóng nếu đứng từ ngoài đường nhìn vào. Sau này, khi rạp Majestic đổi tên thành Tháng Tám thì nó biến thành một cái gì khác, một quán tạp hoá thì phải.
Quán đầy người. Khói thuốc lá mù mịt.
Đoàn Chuẩn lấy ra một cái hộp đựng thuốc lá lạ mắt bằng nhựa trong, màu vàng. Hộp này có rất nhiều ngăn, trong mỗi ngăn là một thứ thuốc lá: Phillips Morris, State Express, Craven A, Camel, Melia Jaune, Bastos… Các ngăn nối với nhau bằng dây thun. Chọn thứ thuốc loại nào thì bẻ gập nó ra. Tôi ngắm hộp thuốc lá của anh không rời – lần đầu tiên tôi thấy một hộp thuốc lá như thế.
– Cậu chọn loại nào?
Tôi chọn Craven A.
Anh bật lửa cho tôi. Cái bật lửa cũng lạ mắt như hộp thuốc lá, nó nhỏ, mạ vàng. Trong vùng kháng chiến chúng tôi chỉ có thứ bật lửa có khắc hình xe tăng, được gọi là “bật lửa tàu bò” có bán ở các chợ giáp ranh.
Anh nheo mắt ngắm tôi:
– Sao cậu không mặc uniforme (đồng phục)?
– Tôi không thích nó – tôi cười – Mặc vào như người gỗ.
Tôi trở về Hà Nội từ Nam Định. Trong thành phố người Pháp vừa bỏ lại mọi sinh hoạt vẫn diễn ra bình thường. Đoàn quay phim chúng tôi được lệnh phải may mỗi người một bộ đại cán để vào tiếp quản Hà Nội.
Đúng vào lúc lên đường, mọi người mới ngớ ra – cả đoàn đều vận đại cán, riêng tôi thì mặc đồ dân sự: áo popeline Thuỵ Sĩ, quần simili, giày tây.
Tôi phân trần:
– Mọi hiệu may đều hết vải ka ki.
Lý do này nghe cũng hợp lý. Tôi không bị “kiểm điểm” về thói tự do chủ nghĩa là cái tôi thường bị phê phán, và người ta phê phán đúng – tôi không vừa cho một cái khung nào.
Tiền tiêu chuẩn phát cho cán bộ may đại cán không đủ cho bộ quần áo tôi chọn. Ông chủ tiệm hào phóng không lấy thêm:
– Có mấy khi ta được gặp nhau như thế này.
Hoà bình ở Việt Nam chỉ có một nghĩa: hết chiến tranh.
Đoàn Chuẩn ngắm tôi:
– Với bộ diện này ai bảo cậu là cán bộ.
Tôi móc túi lấy cái phù hiệu tiếp quản thủ đô mọi cán bộ đều được phát cho anh xem. Đoàn Chuẩn ngắm nó lâu với vẻ tò mò.
– Tôi không đeo nó – tôi phân trần – Như thế tôi lẫn vào mọi người . Mới nghe được những nhận xét: “Quân phục xấu quá! Mà xăng Liên Xô thối kinh!”
Đoàn Chuẩn cười vui, giống hệt anh trong lần đầu chúng tôi gặp nhau.
– Xuống xe điện tôi vẫn nhảy bổ được, chưa quên đâu – tôi khoe.
– Vẫn còn Hà Nội – anh khen.
Tôi không đụng tới chuyện anh bỏ kháng chiến. Có cả đống lý do cho chuyện đó, mỗi người mỗi kiểu. Nghe người ta kể thì Phạm Duy rất bực khi anh đã có trong danh sách đi dự festival thanh niên và sinh viên thế giới ở Berlin, nhưng vào phút chót không hiểu sao anh đã bị gạt ra. Vì thế, và chắc vì nhiều điều khác nữa, anh bỏ kháng chiến. Sau này, tôi gặp Phạm Duy nhiều lần tôi cũng không hỏi anh chuyện đó. Nó không bao giờ là một thắc mắc. Người ta đi, người ta về, chẳng liên quan tới ai.
Đoàn Chuẩn không bực bội gì với kháng chiến. Người ta không quan tâm anh, anh không quan tâm họ. Anh đi kháng chiến như đi vào một cuộc viễn du thú vị, có vẻ chỉ là thế. Rồi anh trở về khi anh thấy đi đã đủ. Chẳng có chính chị chính em gì trong chuyện anh đi và về.
Chúng tôi hàn huyên cả giờ, uống mấy ly cà phê rồi mới chia tay.
Tối hôm đó tôi bị kiểm điểm: “Vừa mới vào đã liên lạc với bọn tư sản”. Tôi không biết mấy cậu bảo vệ đã tình cờ gặp tôi hay đi theo tôi, họ đã báo cáo. Dường như những cuộc tiếp xúc giữa chúng tôi với người ăn vận sang trọng đều bị coi là thiếu cảnh giác với cái gọi là “viên đạn bọc đường”.
Họ bảo vệ tôi vì được dạy dỗ như thế. Chứ không có ý xấu.
7.
Sau cuộc gặp gỡ bất ngờ với Đoàn Chuẩn tôi được đi Liên Xô học, rồi làm báo, rồi đi tù 9 năm. Giữa những khoảng cách ấy tôi còn gặp Đoàn Chuẩn vài lần. Ngoài anh ra tôi không gặp một người nào chơi ghi ta Hạ Uy Di. Thứ đàn ấy ít người chơi, người ta thành kiến với tiếng ngân nga của nó, chắc vậy.
Ra tù, tôi bận lăn lộn kiếm sống, rồi liều mạng vào Sài Gòn, nơi không có bàn tay quen thuộc nào chìa ra cho mình. Đất phương Nam rộng rãi, người miền Nam phóng khoáng, che chở tôi, cho tôi mái ấm trong tha hương.
Thỉnh thoảng lắm tôi mới ra Hà Nội thăm cha mẹ và các em. Hoá ra bác Đoàn Vạn Vân, cha anh, là bạn với cha tôi. Bác là một trong số ít nhà mà cách mạng gọi là tư sản dân tộc, chủ một hãng nước mắm nổi tiếng. Cha tôi nói bác có giấm giúi cho cách mạng tiền, nhưng tôi không thấy những người viết hồi ký nhắc tới bác. Có lẽ tại bác cho không đủ nhiều. Hoặc vì chẳng bao giờ bác ra mặt ủng hộ cách mạng.
Đoàn Chuẩn vẫn vui khi gặp tôi, chắc hẳn như gặp một kỷ niệm không quên. Có một lần anh nhắc tới cô gái ở quán lưng dèo, mắt mơ màng. Trong đời anh chắc có nhiều bóng hồng lướt qua, cô là một. Mặt thêm nhiều nếp nhăn, anh không đi xe hơi nữa, hút thuốc lá Điện Biên bao bạc.
Chúng tôi hay kéo nhau tới quán cà phê ở gần Cột Đồng Hồ, nơi văn nghệ sĩ Hà Nội thường lui tới. Ông chủ quán có biệt danh Lâm Toét trọng các nghệ sĩ, nhất là các hoạ sĩ, mắt hấp him nhận ra Đoàn Chuẩn, đãi chúng tôi Gold Flake, thứ thuốc lá ngoại không biết của nước nào, vào Việt Nam bằng đường nào.
Thời gian ở Sài Gòn, cũng tới mười năm có lẻ, tôi mới được nghe nhạc Đoàn Chuẩn. Tôi nghe và sung sướng – tôi đã gặp một nhạc sĩ tài ba mà không biết.
Văn Cao đánh giá Đoàn Chuẩn:
– Nhạc hay. Ca từ lạ, là tâm sự mà đi thẳng vào hồn người.
Nhớ lại cuộc gặp gỡ ở lưng đèo Re, tôi đồ rằng những ngày ấy anh cho tôi nghe những bản nhạc anh vừa sáng tác:
Đây khách ly hương mấy thu vàng ấm…
Nơi quán cô đơn mơ qua trùng sóng…
Mơ tới bên em em tô quầng mắt…
Em tôi ngập ngừng trong tấm áo nhung…
Tung phấn hương yêu qua muôn lời hát…
Bay tới bên em tới em thầm nhắc…
Đây ý tơ xưa đâu duyên tình cũ…
Bóng anh phai dần ái ân tàn theo…
Và:
Chiều nào áo tím nhiều quá
Lòng thấy rộn ràng nhớ người
Đường về Việt Bắc xa cách mây
Nhìn về đường lối muôn khó khăn
Đây núi cao. Đây suối sâu
Đây lá xanh như ngàn xưa
Đường về ngập gió tha phương
Tiếc đời gấm hoa ta đành quên núi rừng…
Đoàn Chuẩn là một tiên ông lạc bước xuống trần. Anh không thuộc về thế giới này. Tôi không thể nghĩ khác thế.
Năm 2001 khi tôi đang lang thang ở miền Nam Ý thì nhận được tin nhắn của một người bạn cho biết Đoàn Chuẩn không còn nữa.
Ông tiên của tôi đã về trời!
Vũ Thư Hiên
[1] Chăn làm từ vỏ cây sui, một thứ cây trong rừng Việt Bắc. Người ta lột vỏ nó, đập giập, ngâm nhiều ngày trong nước suối cho nó cho tới khi mềm nhũn chỉ còn lại những sợi gỗ làm thành một thứ có thể dùng làm chăn.
[2] Xưởng sản xuất đá bia mộ.
[3] Ciné (xi nê, tiếng Pháp, chiếu bóng)
[4] Chuyến đi ngựa kỳ thú.
Nguồn: Fb Vũ Thư Hiên

Ở Nơi Mà, thơ Hư Hao, youtube Caroline Thanh Hương và ảnh chúp Hương Kiều Loan.

tt

 Có phải nick anh tên Hư Hao hay tên anh là Sãi mà có bài thơ đau thương gửi về cho những ai đang nằm bệnh viện ở Việt Nam.

Anh khóc cho những người thấp cổ bé họng, muốn thoát cơn bệnh mà với cái túi ít tiền thì họ chỉ sẽ chờ chết mà thôi.

Ở những nước văn minh, Pháp, Mỹ, Canada có lẽ cũng rất nguy cơ nếu không nói là vấn đề bảo hiểm sức khỏe cũng thật đáng lo ngại.

Pháp và Canada thì có chế độ riêng, nhưng ở nước Mỹ, thì thử xem ai mà không đóng bảo hiểm sức khỏe cũng phải bán nhà nếu có hay nợ tiền nhà băng mà chữa bệnh.

Vì thế, có lẽ chúng ta nên cố gắng ngừa bệnh khi có thể.

Năng tập thể thao, vận động cơ thể hay đi bộ, đi bơi cũng tốt cho người lớn tuổi,

Kính chúc quý anh chị luôn mạnh khỏe. bình yên.

Cám ơn anh Hư Hao đã gửi bài thơ thật cảm động.

Caroline Thanh Hương



Kính gởi đến diễn đàn và bạn hữu. Xin tùy nghi.


Bài thơ dưới đây đã vay mượn cảm xúc từ hai dòng ngắn ngủi của một người bạn ở VN khi vào bịnh viện thăm nuôi người nhà nằm bệnh: "Bệnh viện nào không khí cũng nặng nề, u ám. Ở cái nơi mà ranh giới sống chết rất mong manh, con người dường như bị đè ép đến không thở nổi!"


Ở nơi mà ...

Điều bạn viết vài hàng ngắn ngủi
Tôi đọc ra vằng vặc nỗi niềm
Như giọt nước làm tràn hận tủi
của bao đời thống khổ buồn im.

oOo

Ở nơi mà lòng người tan tác
nhìn ở đâu cũng thấy rã rời
nhìn ở đâu cũng không lối thoát
buồn-đau-hận-tủi một đời người.
Ở nơi mà mỗi ngày lên "net"
Thấy toàn tin đất hỡi trời ơi
Một xã hội từng hồi đổ nát
đầy cảnh đời chờ lúc trút hơi.

     oOo

Trang thời sự lướt qua vội vã
Chuyện quan tham nghe "điếc" lòng người
Những nghị quyết đề cương hối hả
như lưỡi dao đâm thủng con ngươi
Khiến người dân thành mù thành điếc
Chết tiệt rồi chuyện nước chuyện non.
Sống hôm nay khác gì đã chết
Buồn gì đâu cái sống mõi mòn!

Đất nước từ lâu không tiếng súng
"Thế lực phản động" mất tăm hơi
Nhưng khối người chết ngồi chết đứng
Chết oan khiên đều khắp bầu trời.
Đảng quyết xây thiên đường chủ nghĩa
Không biết đời nào mới đến nơi!
Đảng kiên trì thanh trừng nhũng lạm
mà ác tham - cốt lỏi Đảng tồi.

oOo

Chuyện y tế nước nhà nẫu ruột
Bịnh viện thường quá tải thảm thương
Ngàn con bịnh từng ngày èo uột
Chờ đến phiên "trả nợ, lên đường".
Ông bác sĩ còn là từ mẫu?
Cô y tá có lòng xót thương?
Người nuôi bịnh nằm ngồi rũ rượi
Bên hành lang, la liệt dọc tường.

Ông Bí thư (1) bất nhân không thấy
Ban huấn từ hồ hỡi thi đua
Giải Nobel phải giành phải lấy
Khoe thành tích tiên tiến bua xua.
Bà Bộ Trưởng (2) về tài thất đức
Ông Bí thư chắc hẳn còn thua
Những con bịnh sớm ngày "đi đứt"
vì ung thư thuốc giả được mùa.

oOo

Chuyện giao thông đọc qua rởn óc
Tử thần như rình rập khắp nơi
Từng con đường, từng nơi hang hóc
vẫn có đầy tai nạn chết người.
Đáng sợ hơn mỗi lần nghĩ Tết
Chắc cuối năm phải tính sổ Trời
Quỉ vô thường cần gom đủ số
Vài ngày thôi ngàn mạng như chơi.

Chuyện ăn uống đến hồi báo động
Món ăn đầy hóa chất giết người
Vô bao tử biến thành dị chứng
Và ung thư từ đó đều trời.
Nếu đây là kế mưu sâu độc
của giặc thù phương Bắc truyền đời
Đang từng ngày giết dần Việt tộc
Thì diệt vong đã quá gần rồi!

oOo

Chuyện uống rượu tiêu sầu thất chí
Bởi nhiều điều bế tắc trong lòng
Dân cả nước sáng trưa chiều tối
rủ cụng ly cho đời mau xong!
Vì cuộc sống đã đầy bế tắc
Nhìn ở đâu cũng thấy đắng lòng
Bế tắc lớn trải dài Nam Bắc
Thành màu tang xám xịt núi sông.

Chuyện chính trị là điều đại kỵ
Giữa người thân bằng hữu hôm nay
Nếu không muốn làm ai phật ý
nên khôn ngoan cất lại chuyện này.
Dù đất nước tan hoang? - Không biết!
Dù giống nòi đày đọa? - Không hay!
Nhưng sự thật đã thành khẩn thiết
Kiếp vong nô trờ tới nay mai.

Cứ thoải mái tào lao đú đởn
Cứ vui chơi bù khú đêm ngày.
Cứ trần truồng reo hò nhảy cởn
Đội bóng nhà vừa thắng hôm nay.
Cứ 'fan' cuồng "sao Hàn" đi đón
Vì tôn thờ thần tượng vẽ bày
Cứ xum xuê kiên trì chờ đợi
Chứng minh đẳng cấp lúc "mua giày". (3)

oOo

Nước Độc Lập  -Tự Do - Hạnh Phúc
Đảng lo rồi không thấy hay sao?
Chủ nghĩa thiên đường, dân hưởng phước
Mà toàn dân chỉ muốn "bôn đào" (4)

Độc lập đó đổi bằng xương máu
của đồng bào mấy triệu Bắc Nam
Bằng dân tộc trầm luân phân hóa
Bằng thương đau thống hận ngút ngàn.
Độc lập đó dần hồi mất biển
Mất đất đai rừng núi bạt ngàn
Còn chốn nào dành cho dân Việt
Mũi Cà Mau đến Ải Nam Quan?

Tự Do đó - Tự do bán nước
Tự do làm ô nhục sử xanh
Những trang sử của dân tộc Việt
Nguyễn, Trần, Lê, Lý sáng ngời danh.
Tự Do đó - Tự do tàn phá
Tự do làm hủy hoại non sông
Tiêu vựa lúa, giết rừng, chết biển
Triệt sinh lộ giòng giống Lạc Hồng.

Tự Do đó - Tự do bị giết
của dân đen ở đồn công an.
Người biểu tình tự do tù tội
sau trận đòn thù rất dã man.
Tự do đó - Tự do nghèo dốt
từ chủ trương của đảng cầm quyền
Dân nghèo dốt dễ bề thống trị
Đảng sống còn số một ưu tiên.

Đảng sống còn luôn trên mệnh nước
mà công an là đám kiêu binh
Và quân đội bám bờ buôn nước
mặc ngư dân bám biển bỏ mình.
Lãnh đạo rặt một phường hoang tưởng
Trước quái thai chủ nghĩa rạp mình
Không loạn óc cũng phường man trá
Hay điếm đàng gian ác bẩm sinh.

Nên hạnh phúc chỉ là bánh vẻ
Chiếc bánh to thế kỷ bẫy người
Khi Tự Do như lời trọ trẹ
được xướng lên làm cái loa vui.
Khi Độc Lập là trò lừa bịp
vì đất nước từng chút bán rồi
Đảng xoa tay tìm đường hạ cánh
Và bao năm tăm tối quê tôi?! (5)

hưhao
11.10.2019

Chú thích:

(1) Bí thư thành ủy thành phố Đinh La Thăng với huấn từ phải giành được giải Nobel về cho thành phố giữa hiện trạng quá tải của hầu hết bịnh viện trên mặt địa bàn. Thưa ông Bí thư: Người dân nghèo lam lủ của miền Nam và người thân của họ không cần giải Nobel mà họ cần tình trạng tốt hơn dành cho thân phận người (mà không phải là thân phận một con vật) khi họ phải nằm bịnh trong bịnh viện. Hãy giải quyết tình trạng quá tải của các bịnh viện, cải thiện cách chăm sóc cho bịnh nhân (dù họ có tiền hay không có tiền trả viện phí), thiết lập khu nghĩ ngơi cho người nuôi bịnh v.v. 

(2) Bà Bộ Trưởng Nguyễn Thị Kim Tiến và vụ án thuốc ung thư giả của VN Pharma mà gia đình bà có liên đới mật thiết. Việc bà ngụy biện bào chữa cho rằng "nhũng viên thuốc ung thư không phải là giả mà chỉ là những viên thuốc kém chất lượng mà thôi" càng làm lộ rõ sự tán tậm lương tâm của bà. 

(3) Để có một suất mua giày Yeezy Boost 700, nhiều bạn trẻ Sài Gòn đã phải xếp hàng nhận chỗ từ 10 ngày trước và "điểm danh chính chủ" rất nhiều lần.

(4) Câu nói sau ngày mất miền Nam 30 tháng 4, 1975: "Cái cột đèn nếu biết đi cũng bỏ nước ra đi..", đến hôm nay vẫn còn chính xác.

(5) Câu nói của cố TT Mỹ Ronald Reagan: "Chấm dứt chiến tranh VN, không đơn thuần là chỉ rút quân về nhà là xong. Vì lẽ cái giá phải trả, cho loại Hòa bình đó, là ngàn năm tăm tối, cho thế hệ sinh ra tại VN về sau."

Chương trình đọc và nghe đọc truỵên hay Đại Học Máu của Hà Thúc Sinh.

tt

 Kính mời quý anh chị đọc và nghe đọc truỵên Đại Học Máu của tác giả Hà Thúc Sinh.
Một quá khứ khó ai trong trại cải tạo Việt Cộng có thể quên được.
Caroline Thanh Hương
tt tt

Hà Thúc Sinh

Đại Học Máu, đọc truỵện



chuyện kể về 1685 ngày tù
dưới chế độ cộng sản việt nam

cơ sở nhân văn xuất bản
1985

THAY LỜI TỰA

Tháng 6 năm 1975 - một tháng sau ngày bộ đội cộng sản tràn ngập miền Nam tự do - những quân nhân công chức của Việt Nam Cộng Hòa nghe Đài Phát thanh lần lượt loan báo các lệnh gọi trình diện "học tập cải tạo". Đó là các thông cáo ngày 10-6, ngày 11-6, và ngày 20-6, ký tên Ủy Ban Quân Quản Thành phố Saigon - Gia Định. Ngoài sự chỉ định rõ ràng những địa điểm và ngày giờ trình diện, còn có lời yêu cầu những người đi học tập cải tạo phải "đem theo đầy đủ giấy, bút, quần áo, mùng mền, vật dụng cá nhân, đồ ăn hoặc tiền bạc để dùng trong mười ngày, kể từ ngày tập trung trình diện" (thông cáo ngày 20-6). Riêng đối với các sĩ quan cao cấp trong quân đội và cảnh sát, các Dân biểu và Thượng nghị sĩ, các lãnh tụ đảng phái "phản động" tại miền Nam, thì được lệnh "đem theo đầy đủ giấy, bút, quần áo, mùng mền, vật dụng cá nhân, đồ ăn hoặc tiền bạc để dùng trong một tháng kể từ ngày học tập đầu tiên" (thông cáo ngày 11-6).

Bản tường trình tháng 4 năm 1983 của Ginetta Sagan và Stephen Denney (Aurora Foundation), căn cứ trên những kết quả điều tra và phỏng vấn, đã cho biết: "Rất ít, nếu có, người đi học tập cải tạo được thả về sau thời hạn mười ngày hay một tháng... Trong số hơn một triệu người đã đi vào các trại học tập cải tạo (trên 150 trại rải rác khắp nước Việt Nam) thì có khoảng 500.000 người được trả tự do trong vòng ba tháng; 200.000 người đã ở trong trại từ hai năm đến bốn năm; 240.000 người đã phải chịu đựng ít nhất năm năm trong cảnh tù đày; và cho đến nay (4-1983) vẫn còn ít nhất là 60.000 người đang bị giam giữ...".

Chúng ta thông cảm cho sự ngập ngừng, dè dặt của Sagan và Denney khi đưa ra những con số thống kê về tù cải tạo. Những con số ấy chỉ gợi lên được một ý niệm, chứ không thể có được giá trị dữ kiện. Làm sao đòi hỏi số thống kê chính xác về những nạn nhân của một chế độ mà sự dối trá vốn được coi là nguyên tắc chỉ đạo căn bản?

Phần tường trình về "học tập cải tạo" chiếm 26 trang trong bản tường trình của Aurora Foundation, nhằm minh chứng một trong những hiện tượng vi phạm nhân quyền trầm trọng đang xảy ra tại Việt Nam, trong khoảng thời gian từ 30-4-1975 đến 30-4-1983. Thật ra, trước đó, miền Bắc suốt hai mươi mốt năm sống dưới chế độ Cộng Sản đã không được biết đến nhân quyền là gì. Nếu nói về văn kiện chính thức, thì chế độ "học tập cải tạo" đã được ban hành do Nghị quyết số 49 (ngày 20-6-1961) và Thông cáo số 121 (ngày 8-9-1961). Sự ban hành ấy có nghĩa là: mọi thành phần bị coi như đối nghịch, phản động, đã từng (hoặc đang) ở trong các nhà tù thì nay đều bị Đảng và Nhà nước "gom" lại trong một loại nhà tù mới, tổ chức quy mô hơn, theo đúng khuôn mẫu của các nước Cộng Sản đàn anh. Loại nhà tù này đặc sắc hơn những nhà tù bình thường khác ở chỗ nó có thể thỏa mãn cùng một lúc nhiều mục tiêu. Thí dụ mục tiêu an ninh (giam giữ vô hạn định những thành phần nguy hiểm mà khỏi phải mất công thực hiện các thủ tục pháp lý, đồng thời luôn luôn giữ được sự chủ động kiểm soát khối lượng tù nhân tùy theo tình hình an ninh nội chính); mục tiêu chính trị (có điều kiện thuận lợi để thực hiện chương trình tẩy não và nhồi sọ tư tưởng Cộng Sản, mặt khác tạo không khí thường xuyên khủng bố tinh thần nhân dân bằng hình thức đe dọa gián tiếp, nhờ đó dễ dàng tiến hành các kế hoạch chính trị); mục tiêu kinh tế (xử dụng không công một khối nhân lực đáng kể trong những công tác kiến thiết, sản xuất, và phục vụ bộ máy lãnh đạo; đồng thời tránh được trách nhiệm phối trí khối nhân lực này vào một guồng máy kinh tế vốn đang lâm vào cảnh khiếm dụng) v.v...

Chế độ "học tập cải tạo" được mở rộng ngay sau khi miền Nam bị cưỡng chiếm, dĩ nhiên vẫn với sự áp dụng những phương pháp quản lý cũ, và vẫn nhắm vào những mục tiêu cũ, nhưng đặc biệt có phần khắc nghiệt và tàn nhẫn hơn trong cung cách quản lý. Nguyên nhân có thể là vì lòng căm thù (pha lẫn mặc cảm) đối với thành phần tù nhân mới. Nguyên nhân cũng có thể là vì sự suy đồi trầm trọng trong tình hình chính trị và kinh tế sau khi hoàn thành cuộc cưỡng chiếm đã khiến cho điều kiện ăn ở của tù nhân trong các trại học tập trở thành tồi tệ vượt ngoài sức tưởng tượng, thí dụ khẩu phần thường lệ của tù nhân cùng với những thực phẩm do thân nhân tiếp tế đã bị cắt xén hoặc tước đoạt nhằm cung ứng bù đắp cho chính những cán bộ quản giáo. Tính chất phi nhân của chế độ "học tập cải tạo", thể hiện qua những sự thật khủng khiếp, chỉ từ sau ngày miền Nam bị nhuộm đỏ mới bắt đầu được phanh phui trước dư luận thế giới. Và được phanh phui bởi nguồn tài liệu đắt giá: tiếng nói của những người đã sống sót và đã vượt thoát, sau khi trở về từ các "trại học tập".

ĐẠI HỌC MÁU là một trong những tiếng nói đó. Không phải là tiếng nói đầu tiên, và chắc chắn cũng không phải là tiếng nói sau cùng. 822 trang sách, chia thành 70 chương, chỉ là lời tường trình của một chứng nhân về những điều mắt thấy tai nghe trong 4 "trại học tập": Trảng Lớn, An Dưỡng, Suối Máu và Hàm Tân. Đó là những nơi mà Hà Thúc Sinh, một sĩ quan thuộc binh chủng Hải quân Việt Nam Cộng Hòa, đã sống từ ngày 26-6-1975 đến ngày 9-2-1980, nghĩa là trong 4 năm 7 tháng 14 ngày.

Tháng 11-1980, Hà Thúc Sinh bắt đầu viết ĐẠI HỌC MÁU tại đảo Pulau Bidong, mảnh đất tự do đầu tiên mà anh đặt chân tới sau khi vượt thoát khỏi Việt Nam. Bản thảo được hoàn tất vào tháng 12-1984 tại San Diego (California), mảnh đất tự do thứ hai của anh. Viết ĐẠI HỌC MÁU, Hà Thúc Sinh chẳng qua chỉ làm tiếp công việc đã từng được làm bởi nhiều người khác (và hẳn còn đang được tiếp tục làm bởi nhiều người khác nữa). Đó là nói lên tiếng nói của sự thật, cái sự thật bi thảm và kinh tởm về chế độ "học tập cải tạo" của Cộng Sản, cái sự thật mà cho đến giờ phút này vẫn còn hoặc chưa được biết tới đầy đủ, hoặc bị cố tình tảng lờ, cố tình phủ nhận, bởi những con người may mắn của một thế giới tự do nhất định không chịu tỉnh ngủ.

Nghĩ cho cùng, tiếng nói của sự thật vốn không phải là thứ tiếng nói êm tai, dễ nghe. Và người ta có lẽ thích nhìn văn chương như cánh cửa mở ra một thế giới bình an, hạnh phúc, hơn là một thế giới đày đọa, khốn cùng. Tiếc thay, trên mặt địa cầu hiện nay có những bức màn sắt được dựng lên để chận bít tất cả mọi cửa ngõ dẫn đến bình an và hạnh phúc. Ngày nào những bức màn sắt đó chưa sụp đổ, ngày đó văn chương còn phải tiếp tục đóng vai trò của những viên đạn xuyên phá, của những hồi chuông cảnh tỉnh và báo động.

Trong một bản "nhạc tù" viết tại trại Hàm Tân năm 1980, Hà Thúc Sinh đã tự nhủ rằng, nếu còn sống mà trở về, anh sẽ chỉ xin được làm "một đời thằng mõ không công". Anh đã sống sót, đã trở về. Và anh đang làm đúng cái công việc mà khi ở trong tù anh ước nguyện. Làm thay cho những người bạn đã không được may mắn sống sót để trở về cùng anh. Làm thay cho những người bạn mà anh chỉ biết cầu nguyện rằng đến giờ này vẫn còn sống sót để sẽ có ngày trở về. Đồng thời, cũng làm thay luôn cho những người tuy đã may mắn sống sốt trở về, nhưng khi may mắn thêm lần nữa là thoát thân được đến vùng tự do thì lại đổi tính đổi nết, trở thành nhân từ và đãng trí.

Tám trăm trang ĐẠI HỌC MÁU được kết thúc bằng một hoạt cảnh xảy ra bên một con suối trong trại Hàm Tân, khi tác giả cùng mấy anh em bạn tù vừa được "lệnh tạm tha", hí hửng đi tắm rửa, bị một tên an ninh vòng đai trông thấy, quát hỏi:

" - Mấy thằng tù kia, đội nào nhà nào mà giờ này còn tắm ở đây?

" - Báo cáo cán bộ, tụi tôi được thả rồi, được tự do rồi.

"Tên công an thứ hai nghe vậy vội chen vào:

" - Này, ăn nói với cán bộ mà vô phép thế đấy phỏng? Mày tưởng thế là mày tự do đấy phỏng?"

Hà Thúc Sinh kết thúc bản tường trình ở đấy: câu hỏi chót đã không được trả lời. Nhưng đã được ghi lại nguyên văn để gửi đến chúng ta.

Thỉnh thoảng người Cộng Sản lại buột miệng hỏi một câu, mà ít ai chịu để ý nghe. Nếu để ý nghe, thế giới tự do hẳn đã đỡ tốn rất nhiều thời giờ, bút giấy và xương máu

NXB Nhân Văn 3-1985


QUYỂN SÁCH NÀY...

Quyển sách này không thể là một tác phẩm tiểu thuyết văn chương, cũng không thể nằm trong hình thức một hồi ký chính trị hoặc một bút ký lao tù. Quyển sách này, thực tế, chỉ có thể được coi như một đống quặng mỏ, được khai quật và còn giữ nguyên hình thái chân thực của nó. Hoặc có thể nói một cách khác, bảy mươi chương sách này có thể xem như bảy mươi tấm ảnh, được chụp liên tục và được rửa ra bởi một phó nháy may mắn và có tính tiếc của, nháy được bảy mươi hoàn cảnh buồn nhưng có ý nghĩa trong đời tù cải tạo dưới chế độ cộng sản. Hoặc có thể nói một cách khác hơn nữa, quyển sách này là bản phúc trình của một người lính VNCH bị bỏ rơi, bị ở tù cộng sản, rồi thoát được ra ngoài, ngồi viết lại để kính gửi tới những ai còn thương yêu và còn quan tâm đến nước Việt Nam và con người Việt Nam còn ở lại...

Quặng mỏ, những tấm ảnh chụp vội và chụp tham, hay bản phúc trình được thảo bởi một anh lính quèn, bản chất của nó thực khó tránh khỏi hai yếu tố chính thô và thực! Đồng lúc, mục đích của nó cũng không có gì khác hơn là ước ao sẽ được sử dụng như một thứ nguyên liệu cho một công trình biến hóa có ích lợi.

Tác giả có nhiều hoài vọng, phải nói thật như thế, nhưng hoài vọng lớn nhất vẫn là mong sao mớ quặng mỏ này sẽ giúp cho một guồng máy chống cộng nào đó chạy thêm một vòng xích, một sử gia nào đó có thêm một chứng từ về cơn đau ốm quê hương, hoặc một người Việt Nam lưu lạc nào đó tìm được một quyết định: Phải cứu lấy người ở nhà!...

Hà Thúc Sinh
Hoa Kỳ 12-84.