caroline thanh huong

caroline thanh huong
catbui

Libellés

vendredi 21 février 2020

Chương trình đọc, nghe đọc truỵên và xem phim Bến Không Chồng của tác giả Dương Hướng.

Kính mời quý anh chị thưởng thức một quyển truyện được quay thành phim vào những năm khác nhau.
Năm 2011, bộ phim này hình ảnh còn chưa được trình bày đẹp đẽ và mãi đến năm 2019 thì với tiêu đề khác, hình ảnh rất đẹp và âm thanh rất hay.
Bài đăng trên net.
Caroline Thanh Hương

Đọc truỵên Bến Không Chồng nơi đây
tt tt

“Bến không chồng”- Bức tranh thê lương thời hậu chiến



Dân trí Từ tiểu thuyết của Dương Hướng, những Nguyễn Vạn, những Nghĩa… đã bước lên màn ảnh với đủ cơ cực, đắng cay của số phận người lính bước ra cuộc chiến. Họ cô độc trên chính mảnh đất, với chính những con người- họ đã từng đổ máu để bảo vệ…



Tiểu thuyết Bến không chồng của nhà văn Dương Hướng được trao giải thưởng của Hội nhà văn năm 1991. Tiểu thuyết đặt câu chuyện của mình trong bối cảnh làng Đông- một làng quê được đặc tả với những nét văn hóa điển hình Bắc Bộ. Không gian bao phủ trong lũy tre, mái đình, cây đa, bến nước. Thời gian bao phủ trong những ngày miền Bắc hối hả vừa lo xây dựng nông thôn vừa chi viện cho chiến trường miền Nam.
Bị thương nặng sau một cuộc chiến, Nguyễn Vạn trở về làng Đông với tất cả thương yêu, nhung nhớ. Vai khoác ba-lô, ngực áo đính đầy huân chương, từ trên đê Nguyễn Vạn phanh ngực nhìn về làng Đông. Nguyễn Vạn đã nghĩ, sự bình yên nằm chính ở nơi đây, nơi anh đã sẵn sàng đổ máu để bảo vệ.
Với ý nghĩ ấy, Nguyễn Vạn đã xông xáo, nhiệt tình với tất cả những công việc của làng xã. Nhưng, đối diện với Nguyễn Vạn là những hủ tục lâu đời của dòng họ. Những hủ tục có thể “bóp nghẹt” cuộc đời một con người. Đối diện với Nguyễn Vạn là lề thói cũ mòn cả trăm năm ở làng quê. Đối diện với Nguyễn Vạn còn là dư luận, là điều tiếng, là nếp sống cũ kỹ…
 Résultat de recherche d'images pour "bến không chồng"

Vì những hủ tục, những lề thói đã tồn tại cả trăm năm ấy, Nguyễn Vạn không dám sống thật với mình. Ý thức mãnh liệt nhất trong anh là… “giữ gìn hình ảnh”. Anh không thể vượt qua dư luận để… yêu, để được sống như một người bình thường với mưu cầu bình thường nhất về hạnh phúc. Nguyễn Vạn sống trong sự kìm nén bất hạnh. Anh không dám đến với chị Nhân- dù bản năng thôi thúc. Chị Nhân cũng không thể đến với Nguyễn Vạn, chị không thể đến với bất kỳ ai, lý do chỉ vì… chị là vợ Liệt sỹ. Chồng hy sinh khi chị Nhân còn quá trẻ. Chị ở vậy thờ chồng, nuôi con. Chỉ một lần nghĩ về Nguyễn Vạn, chị Nhân đã day dứt không thôi, chị sẽ sống ra sao nếu xóm làng biết chuyện?
Đã có thời như thế, những lề thói cổ hủ nghiệt ngã giết chết những mưu cầu hạnh phúc giản đơn nhất của con người.
Song song với cuộc đời của Nguyễn Vạn là tình yêu bất hạnh của Nghĩa và Hạnh. Cuộc chiến đã cướp đi những người đàn ông khỏe mạnh, cường tráng của làng quê. Chỉ để lại sau lũy tre những người đàn bà mòn mỏi vì chờ đợi. Chỉ để lại trên bến nước mỗi chiều những người phụ nữ, già có, trẻ có, ngồi bên nhau lặng thinh…
Cuộc chiến đã cướp Nghĩa ra khỏi tay Hạnh. Cuộc chiến để lại những cuộc tình duyên cay đắng cho những thiếu nữ xinh đẹp như Cúc, như Thắm… Một đứa con thụ thai vội vã. Một lễ cưới vá víu với người đàn ông bị tâm thần. Hay, một anh chàng thợ ảnh hèn hạ, sở khanh, bỗng trở nên đắt giá ở làng quê…
Những số phận ấy đã góp thêm sự thê lương, buồn thảm cho bức tranh ở Bến không chồng thời hậu chiến.
Trong những bước ngoặt cùng cực của cuộc đời, Hạnh đã bị xô đẩy vào bế tắc cùng với Nguyễn Vạn. Hạnh có thai. Sau khi sinh con, Hạnh trở về làng. Nguyễn Vạn- người đàn ông đã sống thoi thóp trong lề thói làng xã bao năm, nay biết tin mình có con với Hạnh(con gái của chị Nhân), sự sững sờ đủ để anh quyết định… treo cổ tự vẫn trên cầu Đá.
Cuốn tiểu thuyết của Dương Hướng là bức tranh buồn thê lương ở làng Đông- một làng quê miền Bắc thời hậu chiến. Ở đó, đã không có sự bù đắp nào, không có hạnh phúc nào dành cho những người lính trở về sau cuộc chiến.
Năm 2000, đạo diễn Lưu Trọng Ninh chuyển thể tiểu thuyết Bến không chồng của Dương Hướng thành kịch bản phim. Đã có những tranh cãi về việc chuyển thể, nhưng không thể phủ nhận những thước phim giàu chất điện ảnh mà Lưu Trọng Ninh gửi gắm trong Bến không chồng.


Phim có nhiều cảnh quay đẹp. Những bông hoa gạo đỏ rực và những người phụ nữ ngồi lặng thinh trên bến nước như một nỗi ám ảnh.
Bến không chồng vẫn được đánh giá là bộ phim thành công nhất của đạo diễn Lưu Trọng Ninh tính đến thời điểm hiện tại. Bến không chồng cũng là bộ phim có sức ám ảnh dai dẳng nhất về số phận người lính thời hậu chiến.
Hiền Hương
tt tt tt

Mời xem Phim "Thương Nhớ Ở Ai" ---

 (Tác giả: Phạm Tín An Ninh) 




Các diễn viên trong phim "Thương Nhớ Ở Ai"
Xin gởi đến quí ông anh bà chị bộ phim "Thương Nhớ Ở Ai" với trọn bộ 34 tập (Việt nam) mà tôi thấy hay nhất của Việt nam, từ truyện phim, đến hình ảnh và tất cả các vai diễn. Đạo diễn chính là Lưu Trọng Ninh, con trai của nhà thơ Lưu Trọng Lư.
(Có thể quí anh chị cũng đã xem qua rồi, nhưng chưa xem hết)
Phim diễn tả sống động một giai đọan đau thương của dân tộc dưới chế độ CS. Điều rất lạ, không hiểu tại sao đám cầm quyền CS trong nước lại cho trình chiếu, phổ biến rộng rãi phim này trong giai đoạn hiện nay, khi câu chuyện phim nói lên những sai lầm cũa chế độ khốn nạn này, đặc biệt trong vai Độc, một bần cố nông, thất học, được đưa lên làm chủ tịch xã lại là một nhân vật phản kháng, khi nhận ra những mâu thuẫn, bất cập và man rợ của chế độ?
Đặc biệt, những ông anh " Bắc 54" sẽ rất cảm động khi nhìn lại khung cảnh miền quê Bắc Việt một thời...
Xin mời xem Phim Thương Nhớ Ở Ai gồm 34 tập (có các tập kế tiếp nằm bên phải)

Nghe đọc truyện Bến Không Chồng tại đây.

Đọc ĐÔNG VÀ TÂY CÓ NÊN GẶP NHAU? bài viết của Người Lính Già Oregon.

Đọc những so sánh đông tây của Người Lính Già Oregon viết, thì dù đang bận biụ cách mấy, người ta cũng đành mất chút thì giờ và nhiều thích thú khi thấy tây, mỹ và ta cũng khác nhau không ít về phong tục tập quán.
Có lẽ với chút tây học, nên cảm nhận của NLGO có nét riêng của ông và từ đó, những ai ở âu châu cũng được theo bài viết của ông mà chứng kiến cảnh xử sư từng châu vô cùng hào hứng và cái bình thường của nước này lại là scandale của quốc gia kia.
Nhớ lại mấy bà mẹ Việt Nam hay cấm con trai con gái có bồ khi còn tuổi nhỏ hay người dưng ít phê phán khi thấy 2 người cùng phái chơi thân với nhau và hay dè biểu khi thấy một cặp trai gái sánh đôi thì hay có cái nhìn không có nhiều thiện cảm.
Hịện ́nay ̣nạn đồng tình luyến ái ở tây phương cũng gây nhiều xô xát gây thương tích cho những người thật sự có cảm tình với người cùng phái.
Thôi thì ở đâu quen đó, và cách hay nhất là chúng ta ở quốc gia nào thì nên để ý phong tục tập quán ở đó mà ra đường phải làm cho giống"người ta" đi nhé.
Caroline Thanh Huong





Thưa quý bạn,

Nhân đọc bài  “Những kẻ mất gốc” của tác giả  Đỗ Doãn Quế, NLGO xin gửi lại đến quý bạn, một bài viết đã cũ 6 năm, liên quan một chút xíu về đề tài này. Сhính tiện nhân không còn nhớ chi tiết và nội dung trong bài viết của mình, nói chi độc giả. Đặc biệt, cuối tuần này có hai trận banh lớn giữa bốn đội nữ trong Cúp Thế Giới 2019. Quý bạn có thể đọc bài mọn này trong khi chờ đợi giờ khai mạc, hoặc sau khi có kết quả. Lúc nào cũng Ô Kưa. Cám ơn.
NLGO



ĐÔNG VÀ TÂY CÓ NÊN GẶP NHAU?

người lính già oregon                                                                          


      1. Trong bài thơ “The Ballad of East and West”, vào khoảng năm 1892, văn hào Anh Rudyard Kipling (1865-1936) có viết: “Ôi, Đông là Đông, và Tây là Tây, và không bao giờ cả hai gặp nhau” (Oh, East is East, and West is West, and never the twain shall meet). Hơn một thế kỷ trôi qua, câu thơ mang niềm thất vọng cay đắng ấy của một người đã yêu Đông Phương như quê hương mình nay trở thành lời tiên tri. Và hơn bao giờ hết, nó chứa đựng một chân lý gần như tuyệt đối tại Mỹ quốc này, nơi có hàng trăm chủng tộc khác nhau đổ về từ bốn hướng địa cầu để tạo thành một melting pot ngoạn mục, đầy màu sắc và đủ mùi vị. Nhưng trên thực tế không bao giờ hòa tan, tự nó, per se, làm sao được? Trong số đó, dĩ nhiên, có hơn một triệu dân Việt chúng ta.

      Trong một nghĩa nào, Đông và Tây khác biệt cũng là điều hay. Không ai đòi hỏi chúng ta quên cội nguồn, quẳng đi mọi tập tục, bởi văn hóa là kho tàng để lại của cha ông đã chắt chiu gầy dựng từ hàng thế kỷ, và là niềm hãnh diện chung của dân tộc. Một số thiếu niên Việt Nam lớn lên hoặc sinh ra tại Mỹ, tiếc thay, đã quên hay không biết điều này, vì thế trở thành “không giống ai”, Mỹ không ra Mỹ, Việt không ra Việt, bị Đông lẫn Tây chối bỏ. Chẳng hạn, coi thường bố mẹ, ông bà. Thấy khách vào nhà, không chào hỏi, cứ trơ mắt ếch ra ngó. Bị bố mẹ nhắc, các em chỉ “hi” một phát, rồi biến, không thêm lời nào. Không hiểu lễ phép, gọi dạ bảo vâng là gì. Cha mẹ la mắng, hoặc tát tai một cái, là gọi cảnh sát hay 911, hay mách cô giáo, có đứa, tử tế hơn, hỏi vặn, bằng tiếng Mỹ, dĩ nhiên: “Mẹ đánh con như vậy có legal không?”. Mong sớm được mười tám tuổi để thoát ly gia đình. Chưa kể việc xăm mình, con trai xỏ lỗ tai, lỗ mũi, tóc chĩa, nhuộm đủ màu, con gái mặc quần jeans rách lỗ chỗ, hở rốn, hở đùi, nhún nha nhún nhẩy. Vân vân... Ai than phiền thì cha mẹ thở dài, chặc lưỡi: “Ôi thôi, chúng nó sanh tại Mỹ mà!” Dĩ nhiên, nhưng không phải em nào sanh tại Mỹ cũng như vậy. Xã hội và môi trường chỉ có tác dụng nhỏ. Khác nhau là ở sự giáo dục trong gia đình từ tấm bé. Vai trò của gia đình, vì thế, trở thành vô cùng quan trọng.
      Quả vậy, từ bao thế kỷ, Việt Nam ta là một xã hội khép kín, dựa trên nền kinh tế nông nghiệp đòi hỏi sức người và sự hợp quần của gia đình, thấm nhuần tận cội rễ tư tưởng Khổng Mạnh lấy tam cương ngũ thường làm riềng mối cho việc giáo dục của cá nhân và tiến hóa, nếu có, của xã hội. Ðến Mỹ, va chạm với một nền văn minh cơ khí mới lạ, hoàn toàn cởi mở, chủ trương cá nhân tuyệt đối lấn áp mọi giá trị tinh thần khác, số đông người Việt tỵ nạn không khỏi thấy ngỡ ngàng. Quả vậy, làm sao không choáng váng khi được biết, chẳng hạn, theo báo cáo của Sở Kiểm Tra Dân Số Mỹ, mùa hè 1991, chỉ có 51% trẻ em Mỹ sống trong gia đình truyền thống, tức gồm cha mẹ ruột và con cái, và khoảng một nửa tổng số trẻ em Mỹ (32 triệu 3) sống nơi khác không phải là gia đình của mình (báo The Oregonian ngày 30/8/1994). Hoặc đủ mười tám tuổi, con cái dọn ra ở riêng, không muốn, cha mẹ cũng bắt đi. Hoặc gần đây, tại Florida, một em nhỏ kiện tại tòa được xử cho “ly dị” (divorced, nguyên văn tiếng Anh) với cha mẹ ruột, theo chủ trương của đệ nhất phu nhân Hillary Clinton cổ võ việc con cái đi kiện cha mẹ.

      Các em nói tiếng Anh như gió, sinh hoạt và suy nghĩ y hệt Mỹ con, học giỏi hơn người, và trên giấy tờ là công dân Mỹ thật đấy, nhưng vẫn không được dân Mỹ gọi là Mỹ, có chăng chỉ là Vietnamese-Americans, nghĩa là không được chấp nhận vào trong xã hội “chính thống”, đóng kín của họ. Bị nhận, bị gọi hoặc hoan hỉ tự nhận, tự gọi mình là Vietnamese-Americans không khác chi bị, hoặc tự, hạ giá trị mình, ở mức độ nào.
      Vì sao? Vì, theo thiển ý, yếu tố chính, nếu không nói duy nhất, của kỳ thị, ít ra tại Mỹ, là màu da, chứ không phải tiếng nói, tập quán, hay chủng tộc. Dân da trắng, mắt xanh, tóc vàng đến từ bên kia Đại Tây Dương, kể cả Đông Âu và Kosovo, nói tiếng Anh đầy accent, có mấy ai bị kỳ thị? Lấy ví dụ Henry Kissinger mà tiện nhân xem như một tên đồng minh phản phúc của Miền Nam Việt Nam: gốc Do Thái, sinh tại Đức, nói tiếng Anh nặng trịch, khó nghe, vậy mà vẫn được phong chức Bộ trưởng ngoại giao! Người da đen con cháu nô lệ từ thời lập quốc, và người Tàu ở các chinatowns, San Francisco hoặc Seattle, mà tổ tiên là phu đường rầy xe lửa xuyên bang cách đây gần hai thế kỷ, biết rõ điều này, hơn ai hết, và chắc chắn đồng ý với tiện nhân. Chưa nghe ai gọi người Nga hay người Pháp nhập tịch là Russian-Americans hay French-Americans, mà là Caucasians  –tên dùng để gọi (một cách sai lạc) tất cả người da trắng đến từ Âu Châu. Trái lại, dân da đen và da vàng bị ưu ái đặt tên là African-Americans hay Asian-Americans. Sau vụ khủng bố 11/9, những ông Á rập, đến từ Trung Đông, râu ria xồm xoàm, da nâu sậm hay tai tái, đều trở thành mục tiêu nghi ngờ, dù họ nói bất kỳ thứ tiếng gì.  
      Người Mỹ tôn trọng truyền thống, văn hóa của di dân, vì luật định và do tình cảm, tính hiếu kỳ, hoặc nhu cầu nghề nghiệp, làm ăn, sợ vi phạm luật chống kỳ thị. Thực vậy, chưa hề có bài báo Mỹ nào dám công khai chỉ trích, khinh chê tập tục của chúng ta, ngoại trừ việc ăn thịt chó (California có đạo luật bỏ tù kẻ vi phạm). Tuy nhiên, bảo tồn truyền thống, văn hóa không có nghĩa là chúng ta ôm khư khư cái dở, cái cổ hủ, thách đố tiến trình đào thải của văn minh thế giới. Câu ca dao “Ta về ta tắm ao ta / Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn” chỉ có giá trị tương đối, và trên bình diện khách quan, có thể hiểu như một tâm trạng thất bại, chịu đựng, hoặc cố chấp. Tắm ao trong thì quá tốt, nhưng tắm ao đục thì quả là mất vệ sinh, có khi bị bệnh ghẻ như chơi!

   

   2. Những ví dụ về “ao đục” khá nhiều. Chẳng hạn thói chửi mắng, đánh đập con cái, quan niệm chồng chúa vợ tôi, trọng nam khinh nữ, mặc dù giảm đi nhiều tại hải ngoại, nhưng vẫn còn. Hoặc bệnh đố kỵ, chia rẽ, cá nhân chủ nghĩa, nói xấu đồng hương, hay đồng nghiệp, được xem như bất trị nơi có đông dân mình và được xác nhận bởi người ngoại quốc. Hoặc tật nói chuyện oang oang (bằng tiếng Việt) trong sở Mỹ, trường học, trên xe buýt, gọi nhau ơi ới, chửi con, cũng bằng tiếng Việt, tại các siêu thị, hàng quán. Như bọn Tàu Phù, trước kia hay bây giờ, muôn năm, bất cứ nơi đâu. Hoặc thiếu kiên nhẫn, không chịu xếp hàng chờ đến lượt mình. Hoặc xả rác, khạc nhổ, hỉ mũi bừa bãi nơi công cộng –những điều ta đã quá quen mắt nơi quê nhà. Sang đây, sống nhờ ở xứ người, chúng ta cần uyển chuyển thích nghi với tập tục, nếu không nói phép xã giao thường thức, và văn hóa của dân bản xứ mới hy vọng thành công, được kính trọng, và sự cảm thông giữa những dân tộc mới có cơ may trở thành tốt đẹp.  
      Nói riêng về ăn uống. Có nhiều cá nhân và gia đình Việt Nam, tuy ở Mỹ hơn một thập niên, nhưng vẫn chưa thay đổi được hủ tục về vấn đề này. Ví dụ, mời khách ăn lẩu thập cẩm. Cả khách và gia đình chủ, khoảng mười lăm người, quây quần chung quanh một nồi lẩu vĩ đại đặt giữa bàn, hay trên thềm xi măng phủ chiếu. Tất cả mọi đôi đũa đang ăn của thực khách đều cùng nhúng vào nước lèo sôi sùng sục, thi nhau gắp ra chén nào cá, nào tôm, nào thịt, nào rau… và sì sụp ăn, Nhìn thấy cảnh này, tiện nhân phát ớn, kín đáo bỏ đũa, lấy cớ no rồi. Chưa kể, phải nghe tiếng ợ vừa lớn vừa dài, khoan khoái của ông bên phải, của bà bên trái, hay tiếng vỗ bụng bành bạch của ông phía sau.
                              
      a) Trẻ con: Ưu tiên một trong danh sách những thành phần cần phải coi chừng. Đó cũng là nguyên nhân chính làm phụ huynh và người lớn có thể rắc rối với pháp luật. Đi chợ, mẹ bị bắt vì bỏ (quên) con trong xe giữa trời nóng. Đánh con, cũng như đánh vợ, đánh chồng, có thể vào tù như chơi, kể cả đối với người da trắng. Vụ một người mẹ Mỹ quận Washington (Oregon) cách đây khá lâu, bị đưa ra tòa chỉ vì đánh vào mông con mấy cái bằng dây nịt là một bằng chứng –một tội khá lạ lùng đối với người Việt dù đã Mỹ hóa cách mấy. Năm nào đó, lưỡng viện Quốc Hội Anh biểu quyết đạo luật cho phép cha mẹ đét vào mông con cái để dạy dỗ, nhưng còn thòng một điều kiện là phải nhẹ nhàng thôi.
      Nựng con nít bằng cách sờ vào chỗ kín, như thói quen ở Việt Nam, sẽ bị kết tội xâm phạm tiết hạnh (sexual abuse), và một di dân Việt tại Portland lúc mới sang đã bị thưa vì hành động này và được tha sau khi Tòa nghe các giới chức người Việt giải thích về tập tục, hay hủ tục, này. Nhìn chăm chăm một em bé, hay bắt chuyện với bé tại một siêu thị, chẳng hạn, hãy coi chừng, có thể bị người mẹ Mỹ nghi là “mẹ mìn”, nhất là nếu mình có màu da đen, da đỏ, da vàng, da nâu, da tái. Được bảo vệ kỹ như vậy, thảo nào trẻ con Mỹ vô tình biến thành mục tiêu đáng sợ, cần phải kính nhi viễn chi, và hậu quả là chúng cảm thấy cô đơn, thiếu tình thân mật của người lớn –điều mà một số nhà tâm lý Mỹ bắt đầu than phiền, báo động. Còn nữa, đã xảy ra lâu rồi chuyện một học sinh Việt đến trường Mỹ với lưng bầm dấu cạo gió. Đại diện cộng đồng Việt Nam phải sùi bọt mép giải thích, nhà trường mới chịu thông cảm, không mời cha mẹ ra hầu tòa. Điều mỉa mai thú vị là bây giờ phương pháp cạo gió được nằm vào mục trị liệu Đông y dưới danh từ chưa có trong tự điển, coining (lấy từ chữ coin là đồng xu, coining là thuật cạo gió bằng đồng xu). 

      b) Phụ nữ: Ưu tiên số hai trong đẳng cấp xã hội Mỹ, sau con nít, cũng gây phiền lụy không kém cho giới mày râu. Ông chủ ngay tình khen một cô nhân viên trẻ đẹp rằng cô có sóng mắt khuynh thành khuynh quốc, hay trông hiền như ma sơ, chẳng hạn, hoặc trong thang máy lỡ giẫm lên chân một bà sồn sồn, đến tuổi hồi xuân, có thể bị thưa về tội “tống tình”, “xách nhiễu tình dục” (sexual harassment / harcèlement sexuel). Tuần báo Pháp Paris Match mấy năm trước có đăng một bài phóng sự về các vụ kiện thưa thuộc loại ruồi bu lẩm cẩm, lãng nhách này, chỉ thấy tại Mỹ –nước mà ai cũng có thể kiện ai, chỉ để vỗ béo các luật sư đông hơn kiến cỏ: nuôi gà để cho nó gáy lúc 4 giờ sáng cũng bị hàng xóm thưa, thành phố cho thắp đèn đường gây trở ngại việc ngắm ánh trăng rằm từ cửa sổ phòng ngủ cũng bị chủ nhà kiện, quái đản thật! Ông tổng thống Clinton suýt bay chức vì cái tội thích được thổi (har)monica. Còn nhớ năm 1987, chuẩn ứng cử viên tổng thống đảng Dân Chủ đẹp trai có nhiều triển vọng Gary Hart, chỉ mới ôm sơ sơ và cho người đẹp Donna Rice Hughes ngồi trên đùi một chút xíu thôi mà cũng bị chụp hình, lôi ra tố khổ, phải bỏ cuộc đua.
      Trái lại, ở Pháp, xứ tự do luyến ái thả giàn: Tổng thống Mitterrand lén nuôi đứa con rơi mấy năm liền tại điện Élysée, bị phát giác, mà dân Pháp chẳng ai buồn thắc mắc; Chirac lúc còn là thị trưởng Paris, nghe đồn, có một call girl là một ca sĩ, mà có “chết thằng tây” nào; đời tư của Sarkozy không thơm tho hơn, cũng vợ nọ vợ kia, mà có sao đâu; đương kim tổng thống François Hollande ngang nhiên chung sống liên tiếp với hai bà vợ không bao giờ cưới, mà chẳng ông Tây bà Đầm nào đặt vấn đề. So what? Et alors? Các cô đầm, ít ra là những người tiện nhân quen biết, nói rằng các cô lấy làm thích thú hoặc hãnh diện được xách nhiễu theo kiểu đó vì cho rằng mình phải đẹp người ta mới chú ý, để xách nhiễu, xấu thì ma nào nó thèm quấy rầy.
      Mười mấy năm trước, tại Oregon, theo tờ The Oregonian, có hai chị em nhà Mỹ kia trên 60 cái xuân xanh, một hôm buồn tình, lợi dụng cao trào tố các linh mục “loạng quạng”, và rảnh quá, bèn vác đơn kiện Tòa Tổng giám mục Portland đòi bồi thường hàng triệu đô la, với lý do bị ông linh mục chánh xứ Mỹ cưỡng bức lúc còn vị thành niên, tức là gần 50 năm, mặc dù không có bằng cớ và ông này đã về chầu Chúa từ khuya rồi. Âu đó cũng là một đặc điểm của Mỹ quốc, nơi phong trào phụ nữ đòi quyền bình đẳng dâng cao, dữ dằn như sóng thần. Dù đã hội nhập đầy đủ, dù văn minh, chữ nghĩa đầy mình, đàn ông An Nam, vì thế, khi khen ngợi hay ôm hôn (hug) một phụ nữ Mỹ, cũng nên thận trọng về miệng lưỡi cũng như bàn tay năm ngón. Tốt hơn, không khen, không ôm. Cẩn tắc lúc nào chả vô áy náy, cổ nhân đã dạy như vậy ắt chẳng sai.

      c) Chó mèo: Giai tầng thứ ba trong xã hội Mỹ là ... súc vật, trên cả đàn ông. Có hàng chục luật lệ cho việc nuôi chó, mèo. Ngược đãi hoặc hành hạ chúng là vào tù. Chó cắn chết người phải có án tòa mới được đem đi bắn bỏ, nghĩa là không được tự tiện “xử lý” (danh từ VC) tại chỗ. Đi xa bỏ mèo đói ở nhà, chủ nhân bị còng tay  –những điều mà dân ta khi còn ở Việt Nam và dân Á Châu không tưởng tượng nổi. Ăn thịt chó thì Mỹ và Âu Tây cho là mọi rợ, vì theo họ chó là giống vật trung thành, nhưng họ giết ngựa ăn thịt thì “no problem”, dù ngựa cũng trung thành không kém chó. Mỗi năm, tại Portland, các đoàn viên phong trào bảo vệ súc vật biểu tình phản đối trước các tiệm bán áo choàng lông thú và McDonald’s vì bán hamburger kẹp thịt bò. Cô đào “chuổng cời” Brigitte Bardot, nay về già (lúc còn trẻ có hàng tá nhân tình) làm lãnh tụ phong trào này tại Pháp, tuyên bố thích súc vật hơn người (đàn ông, dĩ nhiên).

     

 3. Đông và Tây không gặp nhau trong nhiều chuyện dài khác nữa. Tỷ như việc hai người cùng phái đi ngoài đường. Tại quê nhà, sẽ không sao cả nếu hai anh đực rựa, mặc dù không phải gay, nắm tay nhau đi dung dăng dung dẻ dạo phố, hoặc hai cô nàng chỉ là bạn thân, vai kề vai thủ thỉ bên nhau trước công chúng. Ở Mỹ, người ta kỵ, sợ bị nghi là gay hay lesbian. Điều lạ là dù đồng tính luyến ái được pháp luật cho phép và bảo vệ, và mới đây được phép cưới nhau tại vài nơi, và hôn nhân đồng tính được Obama công khai ủng hộ, mà ai cũng ngại bị liệt vào thành phần đó.
      Còn về ngôn ngữ không lời (nonverbal language), tức ra dấu bằng tay, Đông và Tây hoàn toàn trái ngược. Một ví dụ: để kêu, gọi ai, người Mỹ và Pháp đưa ngón trỏ hay bàn tay lên, úp vào trong, như vẫy chó, người Việt ta đừng lấy đó làm buồn. Ngược lại, cũng trong hành động này, nếu ta úp bàn tay xuống, người Mỹ tưởng ta ra dấu “bye bye” và sẽ chào lại y hệt. Giơ ngón tay giữa (trên bàn tay năm ngón của tên nhạc sĩ nằm vùng Trịnh Công Sơn) lên đối với người Việt mình chả có nghĩa gì, nhưng đối với người Mỹ có nghĩa là “tao chửi mày” đấy, có thể gây đổ máu như chơi. Bàn chân đối với ta hạ cấp, dơ bẩn, nhưng đối với Mỹ, có óc thực tế hơn, đó cũng chỉ là một bộ phận như mọi bộ phận khác trong cơ thể. Cho nên việc sinh viên đại học gác chân lên bàn để được thoải mái trong lúc thầy giảng bài là chuyện thường, không có gì vô lễ.
      Khi nói chuyện, người Mỹ nhìn thẳng vào mắt người đối diện để chứng tỏ mình ngay thẳng, chú tâm, người Việt (và Á Châu) thì nhìn nơi khác để biểu lộ kính trọng, đặc biệt đối với bậc cao niên. Người Mỹ trả lời thẳng (yes hay no, cùng lắm là I don’t think so để từ chối), người Việt vòng vo tam quốc, cả nể, sợ làm mất lòng, nhất là khi phải nói no.  
      Người Mỹ kỵ hỏi về đời tư, hay cá nhân, còn người Việt mình, dù thân hay sơ, có thói quen hỏi, và muốn biết cho bằng được (dù các đối tượng “nạn nhân”, trong số có tiện nhân, né tránh, lảng qua chuyện khác) về (theo thứ tự) tuổi tác, tình trạng gia đình (độc thân, ly dị), bệnh tật (uống Viagra hay Cialis?), lương bổng (trên 100 ngàn / năm không?), một cách tỉnh khô, có khi hỏi cả số pounds của một bà Mỹ mập, mới giết người ta chứ! Và sau đây xin ghi lại một chuyện thật để chứng minh:

      “Gần nhà tôi có một tiệm bún bò Huế mới mở, ế khách. Nội tướng của tôi muốn mua  một tô đem về ăn thử. Chủ tiệm là một bà tuổi sồn sồn, đon đả mời tôi vào. Trong khi chờ nhà bếp bưng ra, bà hỏi tôi đủ chuyện làm quà, tuổi tác, vợ con, cháu nội, cháu ngoại, qua Mỹ lâu chưa, diện gì, công ăn việc làm... một cách thân tình như đã quen nhau từ tiền kiếp. Tôi chỉ trả lời ậm ừ cho qua chuyện, đợi giờ thoát hiểm. Bỗng nhiên, bà nhìn chăm chăm vào mặt tôi, rồi phán:
      - Ông chắc là Hát Ô mới qua chớ gì. Cỡ như ông, bây giờ ở không, cũng nên vô mấy chợ VN xin lau dọn, lặt rau, ngày kiếm vài chục cũng đỡ cái thân già.
      Cũng may, vừa lúc ấy hộp bún bò đem ra. Tôi vội vàng chuồn lẹ, như bị ma đuổi, sợ bà chủ tiệm túm lại, tìm giúp thêm cho việc làm. Về nhà, vào phòng tắm soi gương, và tự hỏi: "Làm thế nào để có thể thành ông Hát Ô già?", bắt chước nhà văn Montesquieu, thế kỷ XVIII Pháp, đã viết: "Comment peut-on être Persan?" (Làm thế nào để có thể thành người Ba Tư?)” (cf. “Chuyện thật như đùa”, NLGO, đã phổ biến).
      Đối với dân Mỹ, đến đúng hẹn và đúng giờ rất quan trọng và được coi như thước đo mức độ xã giao, lịch sự và tự trọng, còn người mình có tật tà tà (trừ khi đến sở làm, sợ bị đuổi), coi thường cái hẹn (kể cả với bác sĩ), và thời giờ là cao su (chứ không phải vàng bạc). Đặc biệt, dự tiệc cưới. Không biết cái tệ trạng này phát sinh từ bao giờ, nhưng nay trở thành nét “văn hoá” của người Việt lưu vong, tại bất cứ tiểu bang nào. Cho nên mới có câu ca dao tân thời: “Không ăn đậu không phải là Mễ / Không đi trễ không phải là Việt Nam”. Tiệc cưới ghi rõ mời 5 giờ PM, mà 7 giờ vẫn có nhiều kẻ đủng đa đủng đỉnh tới, nói cười tự nhiên như người... Hà Nội, và mãi đến 8 giờ, sau khi phải nghe anh chàng chuyên hành nghề MC đám cưới, thường pha trò rất vô duyên, thông qua một lô thủ tục giới thiệu và xin quý vị cho một tràng pháo tay thật lớn đến cô dâu chú rể ạ, khách mới được phép húp muỗng xúp đầu tiên, đã nguội tanh. Chỉ tội nghiệp cho thực khách Mỹ, luôn luôn đúng giờ, ngồi chờ dài cả cổ! Một số người Việt cũng muốn đúng giờ lắm, nhưng nghĩ rằng ai cũng trễ, tội gì ta đến sớm, không khéo mang tiếng tham ăn tham uống.
     
   

   4. Rồi không biết từ đâu đồng hương ta đặt ra cái tục lệ bắt khách vào nhà, dù là nhà thuê hoặc không sang trọng, sạch sẽ gì cho cam, phải cởi bỏ giày ngoài cửa. Ở Việt Nam, trời nóng, người ta có thói quen ngủ, có khi ăn, dưới sàn xi măng, nên chủ nhà sợ sàn dơ phải lau chùi, thì còn có lý. Nhưng tại Mỹ, không ai ăn, ngủ kiểu đó, và khách khứa đều đên bằng xe hơi, giày vớ sạch bong, có gì phải sợ? Mà nếu có dơ, thì khách đi rồi, hút thảm, lau sàn, đâu mất công cho lắm? Điều này, nhà văn Huy Phương cũng đã phê bình gay gắt trong một bài phiếm luận được phổ biến trên Mạng (xin xem vài đoạn ở dưới). Tiện nhân không dám có ý kiến khen hay chê, vì đây là một đề tài nhậy cảm, gần như tabou. Người ta viện dẫn ra nhiều lý do để biện minh cho tập tục này. Tiện nhân không dám viết mạnh tay như Huy Phương, bởi vì hầu hết bạn bè của tiện nhân cũng đều theo phép tắc này, và vì nghĩ mình là thiểu số nên rất ngại.


Văn hoá “cởi giày” (trích vài đoạn từ bài của Huy Phương, trên Internet)

“Từ ngày sang Mỹ tôi không bao giờ sắm những đôi giày có dây. Thật là phiền phức khi vào nhà người khác phải đứng lom khom, chân co chân duỗi để tháo chiếc giày ra, trước khi bước vào nhà, cho vừa lòng gia chủ. Với đôi giày không dây, chỉ cần tuột ra hay xỏ vào nhanh chóng rất tiện lợi. Có hôm chưa kịp cởi giày, đang bận bắt tay bắt chân thì bà chủ nhà đã thẳng thừng gọi ông chồng: ‘Anh nhắc mấy ông bạn cởi giày ra!’

[…] Cái gì quen làm đã thành nếp thì người ta gọi đó là văn hoá, một thứ văn hoá đặc biệt Việt Nam, mặc dầu không thấy sách vở nào ở hải ngoại của các nhà biên khảo văn hoá ghi rằng vào nhà người Việt Nam thì phải cởi giày, đi chân không.

[…] Không thể đem cái thói quen cởi giày ở Sài Gòn ra áp dụng cho hải ngoại. Nền nhà lót gạch bông của người Sài Gòn là cái giường ngủ, không thể đem đất cát, bụi bặm trên đường phố dơ bẩn vào nhà. Tôi đã sống ở Sài Gòn hơn 10 năm, nhà chật, căn gác nóng hầm hập thì cái nền nhà lót gạch bông vừa là bàn ăn, vừa là giường ngủ. Khách ở xa về, cũng không khách sáo, trời mát thì trải chiếu ra, nóng nực thì chùi sàn cho sạch, có khi ở trần nằm cho mát lưng. Ai mà nhẫn tâm mang giày đi dép vào cái nền nhà này? Nhưng ở Mỹ lại khác, ăn có nơi, ngủ có chỗ, không phòng riêng thì cũng nằm tạm trên cái xô-pha, còn nền nhà là chỗ đi lại, vì sao lại phải trân trọng nó như thế?
[…] Cũng ở hải ngoại này, khách có mời mới có cơ hội đến, khách muốn đến cũng phải xin phép trước chủ nhà, cũng không ai nhàn rỗi lê la từ nhà này sang nhà khác mà chuyện trò, đấu láo. Một gia đình trung lưu, mỗi năm may ra cũng chỉ có khoảng chục khách quen tới nhà, nên bộ salon ở phòng khách mọi nhà chỉ để cho người trong nhà chứ ít khi dùng để tiếp khách. Nếu có người hàng xóm hỏi thăm, ông giao hàng, hay người đi truyền đạo, thì cũng chỉ hé cửa thò đầu ra ngoài nói năng chốc lát, đâu có để ai giẫm lên cái thảm nhà mình. Vậy thì ai là người bước vào cửa nhà mình, nếu đó không phải là con cháu, họ hàng, bạn bè thân quý? Nếu thật sự, người ta không quí gia đình mình, chẳng ai dư thời giờ, rỗi rảnh mà bước vào nhà ai!

[…] Với lại ‘một đời ta, ba đời nó’ như ông bà ta đã nói: cái thảm, chiếc xe, ngôi nhà… đôi khi còn trơ trơ ra đó mà tên người đã nằm trên trang cáo phó rồi cũng nên.”

      Tiện nhân xin nói ké theo nhà văn Huy Phương. Rằng thì là đôi giày cũng được ví von, ít nhiều, với Hy Vọng trên tấm bảng dựng trước cửa Địa Ngục trong tác phẩm Inferno của thi hào Ý Dante Alighieri: “Hỡi các ngươi đang bước vào, hãy bỏ hết bên ngoài mọi hy vọng” (Lasciate ogni speranza voi ch’entrate). Đa số khách vì phản xạ tự nhiên, mới tới cửa, vội vàng cởi bỏ giày như cái máy, mặc dù tiện nhân thiếu điều năn nỉ, bảo đừng. Có chủ nhà, như trong Inferno, treo bảng nhắc một cách rất ư lịch sự: “Thank you for taking off your shoes” (Cám ơn đã tháo giày) và bê liền một khi đến tận chân khách, từ một đống dép ngổn ngang tại ngưỡng cửa, một đôi vừa chân hay không, không cần biết. Có chủ nhà nhắc khách tỉnh bỏ, hoặc đứng chờ, make sure là khách đã trút bỏ… mọi hy vọng, rồi mới ưu ái mời vào. Có chủ không nhắc, nhưng cứ liếc, hoặc chòng chọc, nhìn vào đôi giày khiến khách thấy chột dạ... Trong một buổi họp mặt đám cưới cách đây khá lâu tại nhà một người bạn Nam Cali, ai nấy, có cả tiện nhân, đều diện complet, cravate tươm tất, nhưng chân lại không giày, chụp hình lưu niệm, thấy không giống con giáp nào. Vào bất cứ nhà người Mỹ hay Pháp, tiện nhân không gặp phải cảnh khổ này. Khổ, vì tiện nhân chỉ có một đôi giày coi được, nhưng nó lại có dây dài, và nhiều lỗ, thắt nút, gỡ nút là một kỳ công, và vì tiện nhân đã bị mổ xương sống một lần, khom người xuống là một cực hình.
      Sorry, nếu tiện nhân có làm buồn lòng ai. Và nếu, sau đoạn trên, tiện nhân không được bạn bè mời đến nhà chơi nữa, thì cũng không có chi lạ, và tiện nhân chấp nhận hậu quả, vì khổ mà không dám nói lại càng khổ hơn.

      5. Có hai đặc điểm, không biết hay hay dở, không thấy ở người Á Châu khác, làm điên đầu người Mỹ. Đầu tiên, tiếng “dạ”, mà họ cho là “vô cùng khó hiểu”. Yes có nghĩa yes, mà no cũng có nghĩa yes, như vậy đối với họ người Việt ta thiếu thành thật, hoặc không giữ lời hứa. Họ đâu biết rằng, tùy cách diễn đạt và giọng nói, tùy nét mặt và cử chỉ kèm theo, tiếng dạ của người Việt Nam hàm chứa nhiều nghĩa. Không hẳn đồng ý. Có khi không hiểu, nhưng không tiện hỏi lại. Có khi là “không”, nhưng không dám nói thẳng thừng, như trường hợp từ chối một lời mời hay một lời tỏ tình (khi tình yêu chưa chín). Có khi che giấu sự bối rối, lưỡng lự. Chính người Việt Nam với nhau còn hiểu lầm, huống hồ ngoại quốc.
         Rồi đến nụ cười. Cũng khó hiểu tương tự tiếng dạ ở trên. Nụ Cười Bí Hiểm, nếu dịch theo từ Enigmatic Smile trong sách vở Mỹ. Dĩ nhiên nụ cười này không dính dáng đến đôi môi hé mở bất hủ của La Joconde, hay tiếng cười “hì” vô cớ của dân “Annam” ta mà cụ Nguyễn Văn Vĩnh, chủ nhiệm tờĐông Dương Tạp Chí, đầu thế kỷ trước, đã mô tả và chê bai trong bài “Gì cũng cười”. Nó được dùng để nói mọi điều không thể (hoặc không muốn) diễn đạt chính thức bằng lời, như chào hỏi, xin lỗi, cám ơn, đồng ý, từ chối, mắc cỡ, v.v..., đôi khi tỏ dấu yêu thương nữa.

        Chúng ta cần loại bỏ các hủ tục để thích ứng với môi trường đang sống, đó là lẽ đương nhiên. Nhưng trong số tập quán tốt đẹp người mình cần bảo tồn, thiết nghĩ phải có Tiếng Dạ Khó Hiểu và Nụ Cười Bí Hiểm hiền lành, dễ thương, vô tội này. Bởi vì không dân tộc nào trên thế giới có tiếng dạvà nụ cười như thế đó, và như vậy người Việt mình, đặc biệt các quý nương, có sức hấp dẫn lạ thường đối với ngoại quốc, và đó mới thật là văn hóa, chứ không phải phở gà, chả giò, bún bò Huế, bún chả Hà Nội, mà ai bây giờ cũng làm được, kể cả các anh Tàu đến từ Bắc Kinh, Hồng Kông. Nói thật, nói hết, nói thẳng như Tây Phương sẽ làm mất tiêu ma lực của sự giao tiếp, cảm thông. Cũng như ma lực của tình yêu.

       Kipling chắc sẽ hết thở than nếu được tiếp xúc với người Việt Nam. Bởi vì nếu Đông và Tây gặp nhau, sẽ còn gì quyến rũ nữa đây, hở trời?


Portland26/12/2013

NLGO


tt

Bonus
Mời quý anh chị đọc thêm tài liệu mà NLGO đã kể ở phần vào bài.

‘The Rootless People” - Những kẻ mất gốc



Bài viết ‘The Rootless People” đăng trong  tuyển tập NewTo North AMERICA
NHỮNG KẺ MẤT GỐC

. Đỗ-Doãn-Quế

(Đây là bản tự dịch bài ‘The Rootless People” đăng trong Nội San Anh Ngữ The Viets tập 3 của Hội Văn-Hóa Việt tại San José City College, số phát hành Muà Thu năm1997 và đã được Nhà Xuất Bản The Burning Bush, New York, chọn in vào tuyển tập NEW TO NORTH AMERICA và được một số trường Đại-Học Hoa-Kỳ dùng làm tài-liệu giảng-huấn cho các sinh-viên năm thứ nhất và năm thứ hai Ban Nhân-Văn trong một thời gian khá dài sau đó) 

Sau khi rời khỏi được quê-hương (thường thường là nghèo khổ) của mình có một số người nghĩ rằng tốt hơn hết là nên quên cội nguồn gốc gác và cố gắng hết sức để chối bỏ văn-hóa, nhiều khi ngay cả ngôn-ngữ, của họđể có thể hòa nhập với môi-trường mới. Hình như những người này cho rằng làm như vậy họ sẽ tự nhiên trở nên giàu hơn, sang hơn!

Nhưng than ôi! Thật không còn gì sai lầm hơn cách suy-nghĩ và hành-động ấy! Thật vậy, ta hãy lấy nước Mỹ làm thí-dụ. Quốc-gia vĩ-đại và hùng-cường này là kết-quả của một sự pha-trộn của các sắc dân đến từ khắp nơi trên địa-cầu. Ta có thể nói rằng sức mạnh của Mỹ-Quốc luôn luôn bắt nguồn từ sự pha-trộn này. Mỹ châu không có dân bản xứ, những cư-dân đầu tiên của nó, những người mọi da đỏ, đã đến từ Á-Châu 20 ngàn năm trước đây. Theo chân họ là những tín-đồ Thanh-Giáo đến từ Anh-Quốc rồi những người dũng-cảm từ bốn phương của trái đất đã đau-khổ vì bị áp-bức và thiết-tha khao-khát tự-do. Mỗi nhóm người này đem theo nền văn-hóa và văn-minh riêng của họ. Sự hòa-nhập của các phần đóng góp quý-báu này đã cải biến Mỹ-Quốc thành một sức mạnh trí-tuệ vô-song. Không bao giờ nước Mỹ có thể có được nền văn-minh hiện nay nếu các sắc dân di-cư tới đây đã chối bỏ nền văn-hóa riêng của họ. Thực vậy, nếu như họ đã làm vậy thì nước này đã trở thành một quốc-gia của những người mọi da-đỏ (cũ và mới). Cư dân ở đây sẽ không có bánh pizza, hamburger, khoai tây chiên French fries, chao miên, phở, chả giò v.v… và thiên-hạ sẽ vẫn sống trong những túp lều lưu-động làm bằng da trâu, cưỡi ngựa không yên cương và sinh sống bằng cách săn bắn với cung và tên.

Vậy thì khi chối bỏ nền văn-hóa riêng của họ, những người ngoại-quốc di-dân vừa nói ở trên đã hành-động như thể họ đến dự một bữa tiệc Pot Luck mà không đem theo món gì cả. Trong hoàn cảnh đó những thực khách khác sẽ khinh bỉ họ như là những kẻ gian-lận hay là quá nghèo khổ đến cái độ không có nổi một cái gì để đóng góp. Tôi thực sự không có một bằng cớ nào về việc này nhưng tôi có thể đoan chắc rằng rằng người Mỹ không thích thú tý nào đón nhận vào cái xứ-sở huy-hoàng của họ những người tiền-sử, hay những hạng người tương-tự như thế, không bíết gì hơn ngoài việc ăn, ngủ và trai gái.

Thôi hãy gác bỏ một bên cái việc những người ngoại-quốc như vậy được người bản-xứ đánh giá như thế nào, bây giờ chúng ta hãy xét xem những tên khùng đó đã đem lại gì cho chính họ và con cái họ. Chính tôi đã nghe thấy những người này cố gắng hết sức mình dùng cái thứ tiếng Anh bồi của họ để nói với trẻ con vì họ hy-vọng rằng làm như vậy họ sẽ trở thành Mỹ và con cái họ sẽ học tiếng Anh mau hơn . Họ đâu có biết rằng hành-động lố-bịch của họ chỉ có phản-tác-dụng mà thôi vì nó lợi bất cập hại.

Thực vậy, thứ nhất, không bao giờ chỉ một việc nói tiếng Anh, nhất là tiếng Anh bồi, lại có thể làm bạn trở thành người Mỹ, vì ngôn-ngữ không thể thay đổi được hình dáng con người. Tuy rằng y-khoa và kỹ-thuật học đã tiến những bước vượt bực nhưng chúng vẫn chưa đạt tới trình-độ có thể thay đổi nhân-dạng một người Á hay Phi châu v.v… thành ra người Mỹ trắng. (Nếu kỹ-thuật y-khoa tiến được tới mức ấy thì các bác-sỉ chỉnh-hình sẽ kiếm biết bao nhiêu tiền mà kể!)

Thứ hai, cái thứ tiếng Anh bồi của những người này sẽ dậy trẻ con những chữ sai, những cách phát biểu không đúng lối rất có hại cho việc học tiếng Anh tốt. Thêm vào đó, theo một bài đăng trong tạp chí TIME cách đây mấy năm thì các nhà bác-học đã khám-phá ra rằng các trẻ em nói song-ngữ, dùng tiếng mẹ đẻ ở nhà, đã học giỏi hơn các trẻ chỉ biết nói có một thứ tiếng mà thôi. Điều này thật không có gì khó hiểu vì trẻ em song-ngữ phải học hai lần nhiều hơn các trẻ khác để diễn-tả một ý-kiến hay một ý-niệm và bởi làm việc siêng-năng hơn nên bộ óc của các em cũng phát triển nhanh hơn óc các  đứa khác. Việc nói hai hay nhiều thứ tiếng đối với trẻ em cũng như việc luyện tập đối với một lực-sĩ, càng tập luyện nhiều thì càng giỏi. Như vậy khi chối bỏ văn-hóa và không nói ngôn-ngữ của họ thì những người này đã tước bỏ của trẻ con không những một di-sản vô-cùng quý giá mà còn cả một cơ-hội để phát-triển trí-tuệ theo một đường hướng bổ-ích. Phương-cách giáo-dục sai lầm này sẽ tác-hại lên trẻ em suốt cả cuộc đời chúng, các nhà bác học khẳng-định như vậy,

Và, sau cùng nhưng không kém quan-trọng, là khía cạnh tình-cảm của việc mất gốc. Thật vậy, như đã trình-bầy ở trên, việc chối bỏ ngôn-ngữ và văn-hóa của những người di-dân đã không làm họ trở thành người Mỹ, nhưng chắc chắn đã làm cho họ trở nên mất gốc. Khi mà họ (và cả con cái họ) đã không, và không thể, nói được tiếng mẹ đẻ của họ nữa thì gốc rễ của họ đã bị chặt đứt. Thế là một đằng thì chưa trở thành Mỹ, một đằng thì không còn là thành-phần của cái cộng-đồng sắc-tộc gốc của họ, những người này như là cánh bèo nổi trôi lềnh-bềnh trên mặt nước. Bị chối bỏ bởi cả hai xã-hội, những người này luôn luôn tự hỏi họ là ai. Tâm-trạng này gây nên những khủng-hoảng tình-cảm trầm-trọng, gọi là khủng-hoảng căn-cước, nhiều khi có hậu-quả rất thảm-khốc. Nhiều người Nhật-Bản, Đaị-Hàn, Trung-Hoa và các người ngoại-quốc khác đã đau-khổ thê-thảm khi lâm vào hoàn-cảnh này.Trở nên điên-khùng hay ngay cả tự-vẫn không phải là chuyện hiếm xẩy ra trước khi các nạn nhân tìm được lối thoát.

Thí-dụ, một người Nhật sinh-trưởng tại Mỹ thuộc về thế-hệ thứ ba của một gia-đình Nhật-Bản di-cư luôn luôn tự coi mình là người Mỹ cho đến một hôm lũ bạn Mỹ của anh ta nói bốp vào mặt anh rằng chúng nó chẳng bao giờ coi anh là Mỹ cả. Bị súc-phạm nặng-nề, anh ta bỏ về Nhật nhưng khổ thay, anh lại không nói được tiếng Nhật thành ra anh cũng không được dân-chúng địa-phương coi là người của họ. Bị hạ nhục quá nặng-nề và tuyệt vọng, người thanh niên này suýt nữa tự-sát.

May mắn thay, sau một thời gian cực-kỳ đau khổ anh đã nhận ra được sự sai lầm của mình. Chàng hiểu ra rằng nguyên-nhân của sự đau-khổ của mình là chàng đã chối bỏ cái vốn-dĩ là của chính mình để đi tìm cái mà chàng không thể nào có được. Cái vốn-dĩ là của chính chàng là sự thuộc về sắc-tộc Nhật, còn cái mà chàng không thể nào đạt tới được là có hình giáng một người Mỹ. Mặc dù chàng đã bỏ, không nói tiếng Nhật và chỉ nói, mà nói rất thông-thạo, lưu-loát, tiếng Anh thôi, nhưng hình giáng của chàng vẫn không hề thay đổi. Nhìn chàng thì chàng vẫn là một người Nhật với tóc đen, da vàng và mắt dài một mí. Vậy tại sao chàng không chấp nhận một sự thật là chàng là một người Nhật sinh tại Mỹ? Ở vị-thế này chàng có cái lợi-điểm là một nhịp cầu có thể giúp cho hai xứ-sở hiểu nhau và yêu nhau hơn nếu chàng thực sự muốn như thế. Tại sao chàng lại phải xấu hổ vì là người Nhật bởi lẽ tuyệt-đối không có điều gì sai trái trong việc đó cả. Tại sao chàng lại chối bỏ ngôn-ngữ và nền văn-hóa Nhật là những thứ thuộc loại thượng-đẳng trong thế-giới?

Lúc đó chàng khám-phá ra rắng con đường sẽ đưa chàng tới chân-hạnh-phúc là nghiên-cứu học-hỏi ngôn-ngữ và văn-hóa Nhật và đạt tới trình-độ cao nhất để có thể là “cây cầu thông-cảm” nói trên của hai dân-tộc. Sau sự khám phá này chàng ta lập tức bắt tay vào việc học hỏi và chỉ sau một thời gian ngắn chàng đã có thể nói được khá lưu-loát tiếng Nhật. Chàng vẫn còn đang tiếp-tục học và bây giờ là chủ-tịch Hội Nhật-Mỹ của tiểu-bang của chàng. Thay vì chán-nản như trước đây, bây giờ chàng thanh-niên này rất hãnh-diện vì mình và có tinh-thần rất cao. Chàng cảm thấy rất lạc-quan về tương-lai.

Câu chuyện của người thanh-niên Nhật này thật đáng cho ta suy-ngẫm. Những người ngoại-quốc di-cư chớ tưởng rằng họ sẽ được quý-trọng nếu họ cố bắt chước người Mỹ như khỉ bắt chước người. Trái lại, dân-chúng của cái quốc-gia vĩ-đại này chỉ trọng-nể nhũng người tới đây mà có đem theo nền văn-hóa riêng của mình như là một phần đóng góp vào cái sức mạnh trí-tuệ của Mỹ-Quốc.

Người ta kể lại rằng vào thế-kỷ thứ 7, khi bị người Ả-Rập đánh bại, một số người Parsi (là sắc tộc thờ thần lửa) ở Vịnh Ba-Tư thà đành rời bỏ quê-hương còn hơn là chịu sống dưới nanh-vuốt quân thù. Sau một cuộc hải-hành dài, tàu của họ giạt vào bờ biển Ấn-Độ. Nơi đây vị Hoàng-Đế địa-phương cử một vị đại-thần ra bờ biển thay mặt Ngài chào đón họ. Những thuyền nhân này xin được phép tị-nạn chính-trị tại đây nhưng vị đại-thần đại-diện nhà vua đã khoan-thai rót trà vào một cái ly cho đầy tới mí và nói:”Chiéc ly này là hình ảnh của bổn-quốc, nó đã quá đầy rồi, quý vị cũng thấy rằng nó không còn thể nào nhận thêm người nữa cũng như cái ly này không thể nào nhận thêm trà vì nó không còn chỗ chứa”

Nghe vậy, vị thủ-lãnh của những người Parsi chậm rãi nhúm vài hạt đường và bỏ vào trong ly nước rồi nói:”Cũng giống như nhũng hạt đường này, chúng hòa-tan vào trong ly nước của Ngài và làm cho nó ngọt ngào hơn, những người tị-nạn chúng tôi sẽ không chiếm nhiều chỗ trong quý-quốc nhưng chúng tôi sẽ làm cho nó hùng- mạnh hơn, tươi đẹp hơn và hấp-dẫn hơn”. Phép định-cư tị-nạn liền được chấp-nhận cho những thuyền-nhân ấy. Chúng ta hãy tự hỏi việc gì sẽ xẩy ra nếu vị lãnh-tụ các thuyền-nhân chỉ bỏ vào ly nước vài hạt cát vô vị hay ngay cả một nhúm trà giống y như thứ trà đã có sẵn trong ly? Cả hai thứ này đều không đem lại cái gì mới lạ cho ly trà và không hề làm cho nó ngon hơn , vậy thì làm sao chúng lại có thể được chấp nhận?

Thêm vào đó, một cái cây chỉ có thể sống sót và tươi tốt ở một miếng đất mới nếu ta giữ được chùm rễ cái của nó nguyên vẹn, nếu không thì chỉ sau một thời gian ngắn nó héo tàn và chết. Bởi vì rằng nếu không có rễ thì cái cây không thể hút được các chất bổ-dưỡng của mảnh đất mới nên về lâu cái cây mất rễ này sẽ mục rữa và tan nát. Điều đó cũng y như đối với con người. Nếu những người di-dân ngoại-quốc biết gìn-giữ ngôn-ngữ và văn-hóa của họ trong lúc cố gắng hết sức học Anh-ngữ thì họ có thể đóng góp nền văn-hóa của họ vào đời sống trí-tuệ của Mỹ-Quốc làm cho nó hằng hùng mạnh hơn lên mỗi ngày. Đó là điều mà người Mỹ muốn nhất và cũng là con đường bổ-ích nhất cho những người di-dân và gia-đình họ vậy.

Chương trình đọc và nghe đọc truyện hay Ổ Buôn Người.

tt

Kính mời quý anh chị nghe hay đọc truyện hay với truyện Ổ Buôn Người

Cinque Terre

Ổ Buôn Người


Tác giả : Giản Tư Hải
Thể Loại : Trinh Thám - Hình Sự
Lượt xem : 13245

Danh sách chương


"Ổ buôn người” viết về đề tài bắt cóc và buôn bán phụ nữ xuyên quốc gia - một vấn nạn nhức nhối và gây nhiều bức xúc trong xã hội hiện nay.
Nhân vật trung tâm trong tác phẩm là Hà Phan - một công dân bình thường nhưng đã không thể nhắm mắt làm ngơ trước những kẻ phạm tội, đặc biệt là khi chúng vươn tay tới cả người mà anh yêu thương.

Nhờ sự khôn khéo, trí thông minh và cả sự liều lĩnh, anh đã tạo dựng được lòng tin của chính thủ lĩnh tội phạm và nhờ vậy đã cứu thoát không ít những cô gái Việt Nam bị bán sang Trung Quốc. Song cũng chính vì thế mà anh lọt vào tầm ngắm của Interpol và bị coi như một tên tội phạm nguy hiểm.

Những tình tiết gay cấn, những cuộc đấu trí giữa Hà Phan với cảnh sát đặc nhiệm hay cuộc giải thoát cho Hà Vi - cô gái anh thầm thương nhớ - khỏi kẻ buôn người khét tiếng tên Ma với những màn võ thuật hay đấu súng đỉnh cao là những điểm hấp dẫn ở cuốn sách trinh thám này.

jeudi 20 février 2020

Chiến tranh Việt-Trung 1979: Nguyên nhân và mục tiêu.

tt


Print Friendly, PDF & Email

Tác giả: Việt Long
Kính tặng những người đã đổ máu, sức lực cho biên giới mãi trường tồn
Ngoại giao bóng bàn và các chuyến đi bí mật của cố vấn Kissinger đã đưa đến sự bắt tay Mỹ – Trung năm 1972 tại Thượng Hải làm thay đổi cục diện thế giới cũng như khu vực. Sự kiện này làm thay đổi hẳn các tính toán của các bên trong ván bài Đông Dương. Mỹ muốn rút khỏi Việt Nam nên đã làm ngơ cho Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa năm 1974 để đổi lấy tác động của Bắc Kinh lên chính sách của Hà Nội. Trung Quốc muốn duy trì hai miền Việt Nam trước quyết tâm thống nhất đất nước của Hà Nội để có một vùng đệm an ninh cho biên giới phía Nam. Sự bắt tay Mỹ – Trung làm Liên Xô buộc phải tăng cường quan hệ với Việt Nam, tìm kiếm đồng minh trong khi Hà Nội cần nhiều viện trợ quân sự trong bối cảnh Trung Quốc đang đe dọa cắt viện trợ để buộc Việt Nam theo ý mình.
Tuy nhiên, Việt Nam thống nhất năm 1975 đã làm đảo lộn tính toán của các nước lớn. Trong khi Việt Nam hân hoan với viễn cảnh đất nước bước vào một kỷ nguyên mới vĩnh viễn độc lập, tự do thì những bóng mây của cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ ba đã tích tụ. Trung Quốc không cam tâm để Việt Nam tuột khỏi quỹ đạo của mình. Một thế trận gọng kìm đã được giương lên từ cả biên giới phía Bắc và phía Nam. Việt Nam và Trung Quốc tố cáo nhau về các cuộc xâm phạm biên giới, dời trụ mốc, lấn chiếm lãnh thổ trên đất liền, về vấn đề người Hoa ở phía Bắc. Khmer Đỏ với sự giúp đỡ của Trung Quốc xâm lấn lãnh thổ Việt Nam ở phía Nam. Cuộc tiến công của bộ đội tình nguyện Việt Nam và các lực lượng Mặt trận Dân tộc Cứu nước Campuchia vào Phnom Penh đầu năm 1979 đã làm kế hoạch của Bắc Kinh có nguy cơ phá sản. Trong thời điểm quân chủ lực Việt Nam chưa rút về nước, Bắc Kinh đã phát động cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc.
Cuộc chiến tranh này kéo dài suốt hơn 10 năm (1979-1990), để lại nhiều hậu quả cho phía Việt Nam. Nó cũng là đề tài bất tận cho các sử gia, các nhà phân tích và bình luận quan hệ quốc tế khai thác. Rất nhiều câu hỏi vẫn còn bỏ ngỏ hoặc có những đánh giá khác nhau. Tại sao Trung Quốc đánh Việt Nam? Cuộc chiến tranh này có thể tránh được không? Số lượng quân tham chiến mỗi bên? Ai thắng ai bại và số lượng tổn thất? Tại sao Trung Quốc lại chọn thời điểm tháng 2 năm 1979?…Các tài liệu chiến tranh đều không được hai bên giải mật. Phần lớn các bài viết, nghiên cứu là từ các tác giả nước ngoài. Trong phần này chúng tôi chỉ tập trung vào những nội dung chính liên quan đến tiến trình giải quyết biên giới lãnh thổ và trên cơ sở các tài liệu công khai.
Mục tiêu chiến tranh của Trung Quốc
Cuộc chiến tranh này là do Trung Quốc phát động nên câu hỏi đầu tiên là Trung Quốc làm nhằm mục tiêu gì? Đâu là mục tiêu chính?
Phân tích Tuyên bố chiến tranh của Chính phủ Trung Quốc ngày 18/2/1979 và các phát biểu của lãnh đạo Trung Quốc cho thấy sự sắp xếp các mục tiêu của Trung Quốc theo một trật tự: biên giới, chính trị, quân sự, kinh tế.
Mục tiêu biên giới
Tuyên bố chiến tranh của Chính phủ Trung Quốc được Tân Hoa xã phát hành ngày 17/2/1979 nêu rõ:
Chỉ trong vòng sáu tháng qua người Việt Nam đã xâm nhập có vũ trang 700 lần, giết hại và làm bị thương hơn 300 lính biên phòng và dân sự Trung Hoa. Bởi chính những hành động xâm lược điên cuồng đó nhà cầm quyền Việt Nam đã cố ý kích động và tăng căng thẳng dọc theo biên giới phía Nam Trung Hoa và ngăn cản chương trình canh tân xã hội chủ nghĩa Trung Hoa. Hành động xâm lược đó nếu không bị ngăn chặn, chắc chắn sẽ làm nguy hiểm cho hòa bình và ổn định Đông Nam Á, và ngay cả toàn châu Á.
Lập trường kiên định của Chính phủ và nhân dân Trung Hoa là “chúng tôi sẽ không tấn công trừ phi chúng tôi bị tấn công, – nếu chúng tôi bị tấn công, chắc chắn chúng tôi sẽ phản công”. Các đạo quân biên phòng Trung Hoa hoàn toàn chính đáng để đứng dậy phản công khi họ vượt quá sự chịu đựng. Chúng tôi muốn xây dựng đất nước và cần một môi trường quốc tế hòa bình. Chúng tôi không muốn chiến tranh. Chúng tôi không cần một tấc (inch) đất nào của người Việt Nam nhưng chúng tôi không muốn sự xâm nhập phá hoại vào lãnh thổ Trung Hoa. Tất cả điều chúng tôi muốn là một biên giới hòa bình và ổn định. Sau khi đánh trả đích đáng những kẻ xâm lược Việt Nam, lực lượng biên phòng Trung Hoa sẽ nghiêm chỉnh bảo vệ biên giới nước mình. Chúng tôi tin rằng lập trường của chúng tôi sẽ được sự hưởng ứng, cảm thông và hậu thuẫn của các nước và nhân dân yêu chuộng hòa bình và yểm trợ công lý ”.[1]
Theo tuyên bố này, hành động của Trung Quốc được biện minh bởi hai nguyên nhân: tranh chấp lãnh thổ và bảo vệ người Hoa. Mục tiêu nhất quán và cơ bản của chiến dịch năm 1979 là Phản kích tự vệ (对越自卫还击战 Đối Việt tự vệ hoàn kích chiến) , chống lại sự “tập trung một lực lượng vũ trang đông đảo dọc biên giới Việt – Trung và liên tiếp xâm nhập vào trong lãnh thổ Trung Hoa” để “có một đường biên giới hòa bình và ổn định” theo ý Trung Quốc.
Đối với Việt Nam, mục tiêu cuộc chiến do Trung Quốc phát động là: “tiêu diệt một bộ phận lực lượng vũ trang của Việt Nam, phá hoại tiềm lực quốc phòng và kinh tế, chiếm đất đai của Việt Nam, kích động bạo loạn”.[2]
Drew Middleton, ký giả kỳ cựu của New York Times trên bài nhận định của mình ngày 26/2/1979 đã nhận định cuộc chiến mà ông Đặng nói có thể giống một cuộc chiến tranh mà Cộng sản Trung Hoa đã phát động năm 1962-1963 trên biên giới phía Bắc Ấn Độ để thực hiện điều mà Cộng sản Trung Hoa mong muốn là thiết lập một làn ranh giới mới mà họ cho rằng đó là đường biên giới của họ. Nhận định này sau này đã được chứng minh chính xác như một mục tiêu đầu tiên trong các mục tiêu Trung Quốc đặt ra cho cuộc chiến. Tuy tuyên bố không xâm phạm tấc đất nào của Việt Nam nhưng diễn biến chiến tranh cho thấy Trung Quốc chủ ý thay đổi biên giới có lợi cho mình, nhất là tại những nơi Công ước Pháp – Thanh chưa giải quyết triệt để, hợp pháp hóa các vùng đất người Hoa đã sinh sống sang phía Việt Nam, chiếm đóng và khống chế một số điểm cao, tạo điều kiện thuận lợi cho đàm phán đồng thời nhằm đánh bại ý chí của Việt Nam trong tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và buộc rút quân khỏi Campuchia.
Để đạt được mục tiêu của mình, Trung Quốc đã chú trọng đẩy mạnh xung đột biên giới như một trong ba mũi giáp công gây sức ép với Việt Nam sau 1975: Pol Pot tấn công ở Tây Nam; xung đột biên giới và vấn đề Hoa kiều; cắt viện trợ, bỏ dở các công trình hợp tác và triệu hồi chuyên gia từ ngày 3/7/1978.
Tài liệu Bộ Ngoại giao Việt Nam cho biết: “Nếu số vụ khiêu khích lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam của Trung Quốc năm 1975 là 234 vụ, gấp rưỡi năm 1974, thì năm 1978 tăng vọt lên 2.175 vụ, gấp mười lần”.
Theo Nguyễn Ngọc Minh,[3] từ 1974 tới tháng 1/1979, Bắc Kinh đã gây ra 4.563 vụ xâm lấn biên giới, gây hận thù dân tộc (1974: 179 vụ; 1975: 294 vụ; 1976: 812 vụ; 1977: 873 vụ; 1978: 2175 vụ; 1979: trước ngày 17/2/1979, 230 vụ). Tài liệu của Huỳnh Văn Trình cho biết: năm 1974 – 179 vụ, trong đó có vụ rất nghiêm trọng xảy ra vào 01/6/1974 (500 lính và dân binh Trung Quốc bao vây chiến sĩ biên phòng Việt Nam suốt 24 giờ ở Phia Un (Trà Lĩnh – Cao Bằng) và vào 16/6/1974 (gây ẩu đả ở khu vực Phai Luông – Sóc Giang, Cao Bằng; dùng hàng ngàn người gây nên trận “mưa đá” làm hàng chục dân Việt Nam bị trọng thương); năm 1975 – 294 vụ (gấp đôi năm 1974); năm 1976 – 812 vụ (gấp 4 lần năm 1974), trong đó 10 lần dùng lực lượng từ 1000 đến 3000 người bao vây chiến sĩ biên phòng, 3 lần cướp giật vũ khí, gây xô xát … làm cho số bị thương của Việt Nam  lên đến 300 người; năm 1977 – 873 vụ, trong đó 25 lần dùng lực lượng đông người với hung khí  (búa, xà beng, súng cao su bắn tên sắt) và hành vi côn đồ gây thương tích cho 413 người Việt Nam, bắt đi 17 người (trong đó 15 chiến sĩ biên phòng); năm 1978 – 2175 vụ (gần gấp 3 lần năm 1977) với 24 vụ nổ súng làm chết và bị thương 72 dân và chiến sĩ biên phòng Việt Nam.[4]
Tài liệu của Trung Quốc cho rằng “từ năm 1975 đến 16 tháng 2 năm 1979, trước ngày Trung Quốc buộc phải thực hiện hành động đánh trả để tự vệ, nhà cầm quyền Việt Nam liên tục gây ra khiêu khích vũ trang và liên tiếp gây ra các sự kiện xâm lược với số vụ ngày càng tăng. Số liệu các sự việc đó như sau: năm 1975: 439 vụ; năm 1976: 986 vụ; năm 1977: 572 vụ; năm 1978: 1108 vụ; năm 1979 (tính đến ngày 16 tháng 2 năm 1979): 129 vụ.”
Khó có thể đánh giá con số nào là chính xác và sự thực ai là bên gây hấn, nước nhỏ hay nước lớn, do các tài liệu chính thức chưa được giải mật. Song một điều hiển nhiên chúng chứng minh tình hình biên giới đã căng thẳng gấp nhiều lần so với trước và đã xảy ra trước khi quân tình nguyện Việt Nam tiến sang Campuchia.
Vấn đề người Hoa cũng bị cuốn hút vào trò chơi chính trị, gây bất ổn trên biên giới. Nguyên nhân chính là sự khác biệt trong chính sách của hai nước đối với bộ phân dân cư này. Trung Quốc coi đó là Hoa kiều ở Việt Nam còn Việt Nam thì có chính sách coi đó là người Việt gốc Hoa, một bộ phận trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Do những nguyên nhân lịch sử đến năm 1954, Hoa kiều cư trú tại Việt Nam ước chừng hơn 1,5 triệu người, trong đó khoảng 80% Hoa kiều tập trung ở miền Nam Việt Nam. Chỉ tính số người Hoa sinh sống ở Sài Gòn và Chợ Lớn đã chiếm khoảng trên 50% tổng số Hoa kiều ở Việt Nam. Hoa kiều ở miền Bắc có khoảng 300 ngàn người, phần lớn tập trung ở tỉnh Quảng Ninh 180 ngàn người, thành phố Hải Phòng hơn 50 ngàn người, và Hà Nội.
Năm 1955, Đảng Lao động Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc đã thỏa thuận là người Hoa ở miền Bắc là do Đảng Lao động Việt Nam lãnh đạo và dần dần chuyển thành công dân Việt Nam. Trong vòng 20 năm (1955-1975), người Hoa ở miền Bắc được hưởng quyền lợi và làm nghĩa vụ như công dân Việt Nam. Còn người Hoa ở miền Nam, từ năm 1956 dưới chính quyền Ngô Đình Diệm, đã vào quốc tịch Việt Nam để được hưởng nhiều điều kiện dễ dàng trong việc làm ăn sinh sống.
Sau khi giải phóng hoàn toàn miền Nam, Chính phủ và nhân dân Việt Nam tiếp tục nghiêm chỉnh thực hiện sự thỏa thuận năm 1955 giữa hai đảng về người Hoa ở miền Bắc, đồng thời tôn trọng thực tế lịch sử về người Việt gốc Hoa ở miền Nam, coi người Hoa ở cả hai miền là một bộ phận trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Người Việt gốc Hoa ở Việt Nam đã sát cánh cùng các dân tộc anh em khác và có nhiều đóng góp trong cuộc đấu tranh chống Mỹ và xây dựng CNXH ở miền Bắc.
Việt Nam đề xuất đàm phán vì vấn đề người Hoa rất dễ giải quyết trên tinh thần những người đã vào quốc tịch Việt Nam, đã là một bộ phận người Việt gốc Hoa, được hưởng mọi quyền lợi và nghĩa vụ của công dân Việt Nam yên tâm ở lại, có một cuộc sống bình thường, không lo lắng, cùng với toàn thể cộng đồng dân tộc Việt Nam chung tay xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và cuộc sống hạnh phúc, phồn vinh cho chính họ. Những người đã vào quốc tịch Việt Nam và những người chưa vào quốc tịch Việt Nam nay muốn rời Việt Nam sẽ được cho phép bởi chính quyền Việt Nam sau khi họ thực hiện đầy đủ các thủ tục xuất cảnh và được phép mang theo đầy đủ tài sản. Những người không phải quốc tịch Việt Nam mong muốn ở lại Việt Nam sẽ được đối xử như những người nước ngoài định cư khác.[5]
Ngược lại, phía Trung Quốc phủ nhận thực tế lịch sử về những người Việt gốc Hoa ờ miền nam Việt Nam đã vào quốc tịch Nam Việt Nam, cho rằng chính sách của chính quyền Ngô Đình Diệm bắt người Hoa vào quốc tịch Việt Nam là phản động. Bắc Kinh cho rằng vấn đề người Hoa ở miền Nam Việt Nam, chiếm 90% người Hoa ở Việt Nam phải được giải quyết bằng tham vấn hai bên sau khi Việt Nam thống nhất.[6] Trong khi hai bên chưa thống nhất thì người Việt gốc Hoa tại Nam Việt Nam dù đã vào quốc tịch Việt Nam từ 1956 vẫn được coi là kiều dân Trung Quốc. Bắc Kinh đã triển khai lập các tổ chức “Hoa kiều hòa bình liên hiệp hội”, “Hoa kiều tiến bộ”, “Hoa kiều cứu vong hội”, “Đoàn thanh niên chủ nghĩa Mac – Lenin”, “Hội học sinh Hoa kiều yêu nước”, “Mặt trận thống nhất Hoa kiều”..,v.v.. mà không có sự đồng ý của Hà Nội.[7] Các tổ chức này tuyên truyền, nhập khẩu cách mạng văn hóa. Sau năm 1972, khi Trung-Mỹ bắt tay, người Việt Nam cảm thấy cuộc chiến đấu chống Mỹ của mình bị phản bội nên bắt đầu nhìn nhận những tổ chức này dưới con mắt ngờ vực. Các tổ chức này đã có những hoạt động chống lại các chính sách của chính quyền, chống lệnh đăng ký nghĩa vụ quân sự, chống việc đi xây dựng vùng kinh tế mới, kích động tâm lý huyết thống trong người Việt gốc Hoa, khơi lên phong trào đòi trở lại quốc tịch Trung Quốc. Sau năm 1975, một số chi bộ Hoa Kiều ở Sài Gòn Chợ Lớn còn có vũ trang.[8] Để đối phó với sức ép chiến tranh biên giới Tây Nam, Việt Nam siết chặt chính sách một quốc tịch. Các hoạt động in tiền giả, đầu cơ tích trữ, nâng giá hàng trong một bộ phận tư sản mại bản, phá kế hoạch ổn định và phát triển kinh tế của các cơ quan Nhà nước ở miền Nam là nguyên nhân Việt Nam tiến hành cuộc “cải tạo tư sản công thương nghiệp” năm 1978. Nó tác động đến hàng loạt các nhà tư sản trong đó có nhiều người Việt gốc Hoa.[9] Truyền thông Trung Quốc vu cáo Việt Nam “xua đuổi, bài xích, khủng bố người Hoa”, gây ra vấn đề “nạn kiều” cưỡng bức người Hoa ở Việt Nam ồ ạt di cư đi Trung Quốc. Hai tàu của Trung Quốc có tên Minh Hoa (Minghua) và Trường Lý (Changli) không có phép của Việt Nam đã được đưa ngay vào cảng Hải Phòng và thành phố Hồ Chí Minh để đón người nhập cư và gây áp lực với chính quyền sở tại. Việt Nam cáo buộc Trung Quốc kích động quần chúng người Việt gốc Hoa đang làm ăn yên ổn ở Việt Nam một tâm trạng hoang mang, lo sợ chiến tranh sắp nổ ra, một tâm lý nghi ngờ, thậm chí thù ghét người Việt Nam, khiến họ ồ ạt kéo đi Trung Quốc. Đây là động thái gây xáo trộn về chính trị, xã hội, kinh tế ở Việt Nam, như họ đã làm ở một số nước Đông Nam châu Á và Nam Á trước kia, đồng thời kích động dư luận Trung Quốc, chuẩn bị sẵn sàng “đạo quân thứ năm” cho việc tiến hành xâm lược Việt Nam trong bước sau.[10] Tại biên giới phía Bắc, Trung Quốc tổ chức cho người Việt gốc Hoa  vượt biên giới trái phép rồi lại chặn họ lại, gây ra ùn tắc ở biên giới Việt – Trung để dễ bề kích động họ chống lại và hành hung những nhà chức trách Việt Nam ở địa phương. Chỉ riêng trong ngày 28/7/1978, đã có tới 4.000 người bị mắc kẹt tại biên giới do công an Trung Quốc không muốn đón “những khúc ruột ngoài ngàn dặm” khi họ không có giấy nhập cảnh của Đại sứ quán Trung Quốc ở Hà Nội, còn công an Việt Nam chỉ đón nhận những người có quốc tịch Việt Nam. Đáng chú ý, trong khi phản ứng với chính sách một quốc tịch của Việt Nam thì Trung Quốc lại có một bước đi trái ngược và dứt khoát liên quan đến Hoa kiều – “đội quân thứ năm” của Trung Quốc ở Đông Nam Á và ở nước ngoài. Hoa kiều được khuyến khích nhập quốc tịch nước sở tại. Trung Quốc thôi nhấn mạnh quan hệ huyết thống giữa cộng đồng người Hoa ở các nước này với lục địa; người Hoa đang sinh sống ở nước ngoài không còn đương nhiên được coi là công dân Trung Quốc; dỡ bỏ các đài phát thanh dành riêng cho cộng đồng người Hoa[11]…. Những chính sách nêu trên nhằm dẹp bớt những nghi kỵ của các nước Đông Nam Á đối với Trung Quốc tồn tại lâu đời nay, tranh thủ sự ủng hộ của các nước này khi Trung Quốc tấn công Việt Nam, chống  “tiểu bá” Việt Nam và “đại bá” Liên Xô.[12] Trung Quốc cũng có chính sách phân biệt giữa Việt Nam và Campuchia. Bắc Kinh đã không nói gì ngay cả khi Pol Pot thanh lọc người gốc Hoa. Khi cuộc diệt chủng khởi sự, nhiều người gốc Hoa và dân Campuchia đã chạy trốn sang Việt Nam. Dưới thời Polpot, đồng minh của Trung Quốc, thống trị Campuchia, có tới hơn 200 ngàn Hoa kiều bị Khmer Đỏ bức hại. Song chính quyền Trung Quốc đã không lên án hành động diệt chủng này. Trung Quốc lại lấy việc cứu vớt Khmer Đỏ diệt chủng làm lý do để tấn công Việt Nam.
Trung Quốc cáo buộc “đến cuối năm 1978, đã có 200 ngàn Hoa kiều và công dân Việt Nam gốc Hoa bị xua đuổi về Trung Quốc, đã buộc phía Trung Quốc phải gánh chịu những hậu quả nặng nề về các mặt kinh tế và xã hội vv … Các cuộc đàm phán cấp Thứ trưởng Ngoại giao về vấn đề người Hoa bế tắc. Ngày 8/8/1978, Bắc Kinh tố cáo Hà Nội đang vi phạm Thỏa thuận 1955 giữa hai chính phủ về tình trạng Hoa Kiều.
Cần kinh phí hỗ trợ Hoa kiều hồi hương là lý do để lần đầu tiên, tháng 5 năm 1978, Trung Quốc tuyên bố cắt một phần viện trợ (72 trong số 111 công trình viện trợ) không hoàn lại đã ký cho Việt Nam và rút bớt chuyên gia về nước. Ngày 29/6/1978 Việt Nam gia nhập Hội đồng Tương trợ Kinh tế. Tháng 7, Trung Quốc tuyên bố cắt hết viện trợ và rút hết chuyên gia đang làm việc tại Việt Nam về nước.
Người Hoa ở Việt Nam ít nhất cũng trên 20 năm, được tạo điều kiện gia nhập quốc tịch Việt Nam, có nghĩa vụ tôn trọng pháp luật sở tại. Chính tài liệu của Trung Quốc cũng thừa nhận có bộ phận người Việt gốc Hoa nhưng họ lại đặt yếu tố Hoa Kiều lên cao hơn, đòi hỏi có quyền chi phối quyền lợi của những người này bỏ qua chính quyền địa phương. Bắc Kinh cố tình tạo hình ảnh Hà Nội bài Hoa, vong ơn bội nghĩa trước những giúp đỡ và hy sinh của Trung Quốc. Ngược lại người Việt Nam tức giận vì công việc nội bộ bị can thiệp và sự “phản bội đồng chí” của Trung Quốc khi bắt tay với Mỹ. Việc gần 20 vạn người Việt gốc Hoa đột nhiên bỏ ruộng đồng, nhà máy đi Trung Quốc đã đưa đến cho Việt Nam những khó khăn gấp bội trong cùng thời điểm phải đối phó với những thiệt hại nghiêm trọng do những trận bão, lụt nặng nề nhất ở Việt Nam trong hàng trăm năm qua gây ra cũng như sự cắt đứt viện trợ từ Trung Quốc. Sau chiến tranh biên giới phía Bắc, rất nhiều tù binh bị Việt Nam bắt giữ là người Hoa ở Việt Nam đi Trung Quốc. Họ đã được chọn lựa đưa vào những “sư đoàn sơn cước” chuyên đánh rừng núi, thọc sâu vào hậu phương, hoặc những đơn vị đi trước mở đường, hoặc những đơn vị thám báo, dẫn đường, bắt cóc, ám sát, phá hoại cầu cống, kho tàng của Việt Nam vì đã làm ăn sinh sống lâu đời ở Việt Nam, thông thạo địa hình, phong tục, tập quán, có nhiều cơ sở quen thuộc cũ, có nhiều khả năng nắm được nhiều tin tức, tình hình.
Các nghiên cứu quốc tế khác hướng sự chú ý tới các mục tiêu khác không được viết rõ trong Tuyên bố chiến tranh của Trung Quốc hơn là mục tiêu biên giới lãnh thổ.
Theo Robert D. Mcfaddenm đó là các nguyên nhân sau:
  1. Việc Cộng sản Việt Nam nghiêng về phía Liên Xô làm tăng lo sợ cho Trung Quốc.
  2. Việt Nam đánh tư sản mại bản xua đuổi 1,2 triệu người Việt gốc Hoa đã khiến Cộng sản Trung Hoa có lý lẽ tấn công.
  3. Cuộc tranh cãi chủ quyền quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
  4. Cộng sản Việt Nam xâm lăng Campuchia, một nước đàn em do Cộng sản Trung Hoa đỡ đầu.
Womack lập luận rằng các vấn đề đã dẫn đến cuộc chiến tranh Trung Hoa – Việt Nam bao gồm, “liên minh của Việt Nam với Liên Xô, cuộc xâm lăng của Việt Nam vào Campuchia trong tháng 12 năm 1978, sự ngược đãi và trục xuất người gốc Hoa của Việt Nam, và các tranh cãi về lãnh thổ”.[13]
Như vậy, ngoài mục tiêu biên giới, chúng ta có thể xem xét đến các mục tiêu chính trị, quân sự, kinh tế của cuộc chiến biên giới 1979 mà Trung Quốc hướng tới.
Mục tiêu chính trị là buộc Việt Nam phải rút quân khỏi Campuchia, cứu được chính quyền Pol Pot và cải thiện được quan hệ với Mỹ, tạo điều kiện xuất hiện như một cường quốc thế giới, khống chế tại Châu Á và chứng minh Liên Xô không phải là một đồng minh đáng tin cậy.[14]
Bắc Kinh rõ ràng muốn dạy cho Việt Nam một bài học vì đã xâm lược Campuchia, đồng minh của Trung Quốc. Hai ngày sau khi quân tình nguyện Việt Nam vào Phnom Penh, Nhân Dân Nhật báo đăng xã luận cảnh cáo rằng “sự chiếm đoạt Phnom Penh bởi Việt Nam không có nghĩa là kết thúc mà đúng ra là sự khởi đầu chiến tranh”.[15] “Bắc Kinh đã nhìn biến cố đó (Việt Nam đưa quân vào Campuchia) không phải với tư cách giải phóng nhân dân Campuchia khỏi nạn diệt chủng, mà nhìn nó như việc hoàn tất sự theo đuổi của Việt Nam từ năm 1930 về một Liên bang Đông Dương dưới sự thống trị của Hà Nội”.[16] Nhân Dân Nhật báo liên tục đưa ra các bài xã luận: “Hà Nội đang theo đuổi một chính sách bành trướng khu vực, thiết lập một Liên bang Ðông Dương, dưới sự che chở hay đồng lõa của đế quốc xã hội chủ nghĩa Nga Xô”.[17]
Tại họp báo trong chuyến thăm Bangkok tháng 11/1978, Phó Thủ tướng Đặng Tiểu Bình nói rằng Trung Quốc “sẽ quyết định phương cách đối phó với chính sách bá quyền khu vực của Việt Nam, tùy thuộc vào việc Hà Nội thực hiện đến đâu cuộc xâm lược của nó đối với Campuchia”.[18] Tại Washington, ngày 31/01/1979, Đặng cảnh báo một cuộc tấn công của Trung Quốc vào Việt Nam có thể xảy ra do Việt Nam chiếm đóng Campuchia và những căng thẳng trên biên giới Việt-Trung. Trên đường về qua Tokyo, Đặng tuyên bố cần phải dạy Việt Nam một bài học.[19] Herbert S. Yee bình luận “Một trong các mục tiêu chính của Trung Quốc rõ ràng là để rút bộ đội Việt Nam ra khỏi Campuchia và Lào  và phân tán mỏng sức mạnh quân sự của Việt Nam, từ đó làm suy yếu năng lực của Việt Nam dồn cho sự bành trướng hơn nữa tại Đông Dương. Phía Trung Quốc hy vọng rằng “với chiến trường bị căng mỏng quá độ, các khu vực hậu phương phòng vệ yếu kém, và việc tiếp liệu của họ bị thiếu thốn”, Việt Nam sẽ bị “sa vào trong một vũng lầy” tại Campuchia. Mục tiêu này của Trung Quốc được xác nhận một cách gián tiếp bởi áp lực tăng cường đồng thời từ các lực lượng du kích lãnh đạo bởi Pol Pot đánh vào bộ đội Việt Nam tại Campuchia khi biên giới phía bắc của Việt Nam chịu cuộc tấn công quy mô của Trung Quốc. Sự vắng bóng mục tiêu được che dấu này của Trung Quốc trong bản tuyên bố “hoàn kích tự vệ” của Bắc Kinh hiển nhiên không phải là sự sơ sót mà là có cân nhấc và tính toán. Nó có thể chủ ý dành cho Việt Nam một cơ hội để triệt thoái bộ đội ra khỏi Campuchia mà không bị mất mặt; và không cung cấp cho Moskva một duyên cớ tương tự nào khác (bằng việc tố cáo cuộc xâm lăng của Trung Quốc vào lãnh thổ Việt Nam) để can thiệp nhân danh Việt Nam.[20] Tuy nhiên, nếu so sánh mục tiêu biên giới và mục tiêu buộc Việt Nam rút quân khỏi Campuchia thì mục tiêu biên giới vẫn là chủ đạo khi kế hoạch đánh Việt Nam đã được chuẩn bị từ trước khi bộ đội Việt Nam vượt biên giới theo lời kêu gọi của Chính phủ cách mạng Campuchia để cứu những người anh em khỏi nạn diệt chủng.
Dạy Việt Nam một bài học, theo Trung Quốc, còn do Việt Nam xích lại gần Liên Xô, kẻ thù số một của Trung Quốc, hơn cả Mỹ. Nếu Việt Nam coi Thông cáo Thượng Hải năm 1972 là sự quay lưng của người anh lớn với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của mình,[21] thì Trung Quốc coi Hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa Việt Nam và Liên Xô ký ngày 03/11/1978 là sự phản bội của đứa em với vai trò lãnh đạo cách mạng thế giới của mình, là sự bắt tay giữa đại bá Xô-viết và tiểu bá phương Nam. Điều 6 của Hiệp ước Việt – Xô quy định: “Trong trường hợp một bên bị tấn công hay bị đe dọa tấn công, hai bên ký kết Hiệp ước sẽ ngay lập tức tham khảo ý kiến lẫn nhau với quan điểm nhằm loại bỏ mối đe dọa đó, và sẽ áp dụng biện pháp thích hợp và hiệu quả để bảo đảm hòa bình và an ninh của hai nước”. Hiệp ước này làm cả Mỹ và Trung Quốc không hài lòng vì lo sợ Liên Xô mở rộng ảnh hưởng xuống Đông Nam Á. Khả năng Liên Xô sử dụng căn cứ Cam Ranh để kiềm chế Mỹ và Trung Quốc cũng gây lo ngại. Thông cáo báo chí chung Trung-Mỹ ngày 01/01/1979 có đoạn: “Không  bên nào tìm kiếm bá quyền tại châu Á-Thái Bình dương hoặc bất kỳ khu vực nào của thế giới và mỗi bên sẽ chống lại những cố gắng của bất cứ nước nào hay nhóm nước nào nhằm xác lập bá quyền”.[22]
Ngày 05/11/1978, khi thăm các nước ASEAN, Đặng Tiểu Bình tuyên bố Hiệp ước Việt – Xô là mối de dọa đối với các nước ASEAN và kêu gọi thành lập Mặt trận chống Liên Xô và Việt Nam, bao gồm Trung Quốc và khối ASEAN. Đặng Tiểu Bình cũng công khai ý định dùng biện pháp quân sự đối phó với Việt Nam. Một trong những mục tiêu đối ngoại của Trung Quốc lúc đó là hạ thấp vai trò của Liên Xô, khẳng định trung tâm nước lớn, các nước nhỏ phải thần phục. Đặng Tiểu Bình lý giải một trong ba lý do lớn để “trận này nhất định phải đánh” là: “Hành động này không đơn thuần là chỉ để bảo vệ biên giới, nó liên quan đến tình hình Đông Dương, cục diện Đông Nam Á, nói rộng hơn là liên quan đến cục diện thế giới” và “nếu chúng ta không đánh trả thì Việt Nam sẽ ngày càng trở nên kiêu ngạo, thúc đẩy phương Bắc lấn tới” trong khi “Liên Xô đã có mặt ở Afghanistan, Iran và tiếp đến là ở Việt Nam, gia tăng mối đe dọa đối với chúng ta từ phía Đông, do vậy, chúng ta cần phải đánh Việt Nam”[23]. Đánh Việt Nam cũng là nước cờ của Bắc Kinh giảm thiểu khả năng bị kẹp giữa hai gọng kìm ảnh hưởng của Liên Xô, một từ biên giới Xô – Trung, hai từ biên giới Việt – Trung thông qua vai trò của Việt Nam, nước mới gia nhập câu lạc bộ Hội đồng tương trợ kinh tế (COMECOM) do Liên Xô đứng đầu. Bruce Elleman nhận định “một trong những mục tiêu ngoại giao quan trọng nhất đằng sau cuộc tấn công của Trung Quốc là nhằm phơi bày rằng, những đảm bảo hỗ trợ quân sự của Liên Xô với Việt Nam là lừa gạt. Phơi bày nó ra ánh sáng, chính sách của Bắc Kinh thực tế là một thành công ngoại giao, kể từ khi Moskva không tích cực can thiệp, vì vậy cũng cho thấy những hạn chế thực tế của hiệp ước quân sự Xô – Việt … Trung Quốc đã giành được một thắng lợi chiến lược bằng cách giảm thiểu khả năng tương lai của một cuộc chiến hai mặt trận chống lại Liên Xô và Việt Nam.[24] Đánh Việt Nam là nước cờ giải tỏa mối lo sợ vĩnh cửu về một sự bao vây chiến lược với Trung Quốc.
Đánh Việt Nam, Trung Quốc sẽ khẳng định được với Mỹ không sợ Liên Xô, sẵn sàng đoạn tuyện với hệ thống XHCN, hợp tác chặt chẽ với Mỹ chống Liên Xô. Đánh Việt Nam là một món quà cho Mỹ, mong muốn phát triển quan hệ với Mỹ.[25]
Mục tiêu quân sự: tiêu diệt một bộ phận chính quy của Việt Nam, kéo các sư đoàn chủ lực của Việt Nam từ Campuchia về vào các “cối xay thịt” để trừng phạt. Cuộc tấn công cũng để làm sáng tỏ nhu cầu hiện đại hóa quân đội Trung Quốc.
Mục tiêu kinh tế: làm kiệt quệ kinh tế Việt Nam, buộc phải phụ thuộc vào Trung Quốc.
Mục tiêu đối nội: Tấn công Việt Nam để chuyển hướng chú ý của dư luận khỏi tình trạng đấu đá nội bộ Trung Quốc, tạo cơ hội thúc đẩy 4 hiện đại hóa trong đó hiện đại hóa quân đội là quan trọng, Đối với cá nhân ông Đặng Tiểu Bình, đánh Việt Nam là cách để củng cố quyền lực mới giành lại trong nội bộ Trung Quốc. Bề ngoài đây là cuộc chiến tranh giữa hai nước láng giềng nhưng bên trong nó còn phản ánh cuộc đấu tranh nội bộ, tranh chấp phức tạp giữa lợi ích quốc gia và ý thức hệ. Theo Thẩm Thính Tuyết,[26] Đặng Tiểu Bình đưa ra ba nguyên nhân đánh Việt Nam: Một là, để xây dựng một Mặt trận quốc tế thống nhất chống Liên Xô. Hai là, để xây dựng hiện đại hóa Trung Quốc. Ba là, để thử nghiệm sức chiến đấu của Giải phóng quân vốn đã rệu rã sau 10 năm trải qua Đại cách mạng văn hóa (1966-1976).
Tổng kết các nhận định trái chiều trên có thể thấy về thực chất, đây là cuộc chiến nhằm hợp pháp hóa tranh chấp lãnh thổ biên giới, và nhằm giải quyết mâu thuẫn về lợi ích quốc gia và chiến lược quốc tế của Bắc Kinh.
Nếu so sánh xung đột biên giới Việt-Trung 1979 với chiến tranh biên giới Xô – Trung 1969 ta thấy có những điểm khá tương đồng. Xung đột tháng 3 năm 1969 là cần thiết với Chủ tịch Mao Trạch Đông khi ông tỏ rõ ý định đoạn tuyện hẳn với Liên Xô, tìm cách ve vãn Mỹ và đồng minh, củng cố ưu thế lãnh đạo trước Đại hội IX Đảng Cộng sản Trung Quốc vào tháng 4 năm 1969, đồng thời sử dụng xung đột để tác động tới Đại Cách mạng Văn hóa trong nội địa. Kết quả cuối cùng của biến cố 1969 chính là sự bắt tay Mỹ-Trung tại Thượng Hải 3 năm sau. Cuộc chiến biên giới Việt – Trung cho Đặng Tiểu Bình cơ hội thu hút đầu tư Hoa Kỳ, hiện đại hóa quân đội và củng cố quyền lực trong nước. Kết quả sau chiến tranh là sự hợp tác chặt chẽ hơn nữa giữa Mỹ và Trung Quốc để ngăn chặn Liên Xô. Trong cả hai sự kiện này Trung Quốc đều tuyên truyền chỉ có tính “tự vệ” song thực tế là bên chủ động nổ súng tấn công trước, kết thúc trong thời gian ngắn đủ để có được kết quả chính trị. Trong chiến tranh biên giới Việt – Trung, mục tiêu quan trọng nhất là hợp thức hóa các khu vực tranh chấp biên giới và nếu có thời cơ mới tiến sâu. Điều này lý giải, Trung Quốc chủ động rút quân ngày 5/3/1979 trước khi Việt Nam điều đủ lực lượng tinh nhuệ lên biên giới và tổng động viên cho chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chống xâm lược.
Mục tiêu của Việt Nam
Về phía Việt Nam, mục tiêu cao nhất là bảo vệ được chủ quyền lãnh thổ, tính độc lập trong đường lối đối ngoại. Mục tiêu này thể hiện rõ trong Tuyên bố đáp lại của Chính phủ CHXHCN Việt Nam ngày 18/2/1979: “Trung Quốc đã mở ra một cuộc chiến tranh xâm lược trên suốt chiều dài biên giới của nước ta. Sáng sớm ngày 17 tháng 2 năm 1979, những kẻ cầm quyền Trung Quốc đã động viên một lực lượng vũ trang lớn lao gồm cả lính bộ binh, pháo binh và lực lượng xe bọc sắt mở ra một cuộc chiến xâm lược vào lãnh thổ nước ta dọc theo biên giới từ Phong Thổ và Lai Châu đến thành phố Móng Cái, Quảng Ninh. Chúng dùng pháo binh tầm xa bắn bừa bãi vào các thành phố, thị trấn, các khu dân cư và làng xã đông đúc nhằm mở đường cho các đơn vị xe bọc sắt và bộ binh để mở những cuộc tấn công sâu vào lãnh thổ nước ta. …Cuộc chiến đấu chống quân xâm lược Trung Quốc tại biên giới phía Bắc của Tổ quốc đã bắt đầu. Các lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc các vùng biên giới đang gìn giữ truyền thống anh hùng quyết tâm chiến đấu đến thắng lợi cuối cùng, kiên quyết đánh trả bọn xâm lược Trung Quốc từ ngay trận đánh đầu tiên trên tuyến đầu của tổ quốc”.
Các mục tiêu chiến lược của Việt Nam, trong khi it được nghiên cứu và phát biểu hơn, có thể gồm:
  • Bảo vệ biên giới lãnh thổ phía Bắc.
  • Tiếp tục giúp đỡ Campuchia truy quét Pol Pot và bảo vệ biên giới Tây Nam.
  • Tranh thủ sự ủng hộ của dư luận thế giới chống sự xâm lược của Trung Quốc.
  • Tranh thủ sự giúp đỡ của Liên Xô theo các nghĩa vụ cam kết của Hiệp ước Việt-Xô 1978 ở mức có thể (các cố vấn, tái tiếp tế các vũ khí then chốt, và sự hiện diện của hải quân) mà không làm khó cho Liên Xô về khả năng can thiệp quân sự trực tiếp gây ra cuộc chiến tranh quy mô lớn.
  • Đánh bại về mặt chiến thuật lực lượng của Trung Quốc mà vẫn bảo toàn được các lực lượng chính quy, không phải rút quân từ Campuchia hay phải tổng động viên sâu rộng, gây tốn kém.[27]
Cuộc chiến 1979 được gọi bằng nhiều tên gọi khác nhau tùy theo diễn biến và mục tiêu phía Trung Quốc đặt ra. Lúc đầu nó được gọi là cuộc chiến ‘dạy cho Việt Nam một bài học”, là “phản kích tự vệ”, sau đó lại đổi thành “đánh trả”, dù nghĩa đó dùng cho phía Việt Nam mới tương xứng. Việt Nam xác định Trung Quốc “phát động chiến tranh xâm lược Việt Nam ngày 17 tháng 2 năm 1979 trên toàn tuyến biên giới dài hơn 1000 km”.[28] Phương Tây gọi nó là cuộc chiến giữa những người anh em đỏ. Song cái tên đúng nghĩa về cả không gian và thời gian của cuộc chiến  vẫn là chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979. Cuộc chiến này được Trung Quốc coi là “phản kích tự vệ” các hành động xâm lược của Việt Nam, một nước có diện tích, số dân và tiềm lực kinh tế nhỏ hơn Trung Quốc hàng chục, hàng trăm lần. Cuộc chiến 1979 xảy ra ngay sau khi Việt Nam đưa quân tình nguyện sang Campuchia để thực hiện quyền tự vệ chính đáng và cứu dân tộc anh em khỏi họa diệt chủng. Phía Trung Quốc hoàn toàn chủ động lựa chọn thời điểm tấn công, quy mô chiến tranh và chỉ phải đối phó với lực lượng dân quân du lích của Việt Nam trong khi quân chính quy Việt Nam còn ở phía Nam. Trên góc độ chính trị, quân sự, rõ ràng Việt Nam không có lý do gì để “xâm lược Trung Quốc”, tự tạo ra thế bị ép hai mặt, khó tránh khỏi diệt vong.
Phía Việt Nam cho rằng đây là một cuộc xâm lược, sử dụng lực lượng lớn quân vũ trang chính quy, vào sâu lãnh thổ Việt Nam hàng chục km. Cuộc chiến đấu của Việt Nam thực sự là cuộc chiến tranh vệ quốc, thực hiện quyền tự vệ chính đáng theo điều 51 Hiến chương Liên hợp quốc. Đó cũng là suy nghĩ, đánh giá chung của đa số các bình luận quốc tế.
Nhà phân tích quân sự người Anh – Thiếu Tướng Shelford Bidwell, chỉ ra “mô hình dạy một bài học” của Trung Quốc lần đầu tiên áp dụng trong cuộc chiến tranh Trung Quốc – Ấn Độ 33 ngày năm 1962.  “Cuộc động binh này được thiết kế bề ngoài để dạy cho Ấn Độ một bài học cho sự ủng hộ được thấy rõ của Ấn Độ dành cho Dalai Lama và cuộc kháng chiến của Tây Tạng. Cuộc tranh chấp biên giới đã là một duyên cớ thuận tiện được khai thác bởi phía Trung Quốc để phóng ra một cuộc xâm lăng đột ngột và chóng vánh (đã làm cho Ấn Độ hoàn toàn bị bất ngờ), gây ra một sự thất trận cục bộ đáng xấu hổ và sau đó thực hiện một màn triệt thoái đơn phương hào hiệp được sắp đặt để nhấn mạnh đến sự bất lực của quốc gia nạn nhân.  Cũng với cùng “mô hình dạy một bài học” này mà phía Trung Quốc đã quyết định làm lại đối với Việt Nam.  Bất hạnh thay hay nói cách khác, họ chung cuộc đã học được vài bài học quân sự cho chính họ — bài học đầu tiên trong đó là nhu cầu hiện đại hóa quân đội của họ”.[29] Gerald Segal  kết luận “những tính toán chính trị sai lầm đã cho thấy rằng các lãnh tụ Trung Quốc đã đặt chính họ vào thế khó khăn khi xây dựng một chiến lược trừng phạt Việt Nam mà không bao giờ có cơ hội thành công”.[30]
Hai lý do chính liên quan đến biên giới mà Trung Quốc đưa ra trong thông cáo chiến tranh (vi phạm biên giới và bài xích người Hoa) để biện minh cho hành động phản kích tự vệ đều khó thuyết phục.
Giữa các nước láng giềng có biên giới chung thì những tranh cãi về biên giới lãnh thổ là khó tránh khỏi. Các tranh chấp biên giới này, theo luật quốc tế,  hoàn toàn có thể giải quyết hòa bình thông qua thương lượng đàm phán mà không cần tới sử dụng vũ lực, sử dụng chiến tranh. Trung Quốc đã đưa quân vượt biên giới đánh sang đất Việt Nam thì không thể gọi là “phản kích tự vệ”. Sự kiện này phải được xem xét theo đúng định nghĩa “xâm lược” trong luật quốc tế.
Ý đồ đã được tuyên bố của Trung Quốc là “dạy cho Việt Nam bài học” đã biến mục tiêu hàng đầu của cuộc chiến tranh thành một “hành động nước lớn tự cho mình quyền bắt nạt nước bé”, một “hành động trả thù vô cớ”, một điều đi ngược với nguyên tắc bình đẳng chủ quyền của luật quốc tế, vi phạm nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế cũng như 5 nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình mà Trung Quốc vẫn được coi là một bên sáng lập.
(Còn nữa)
———–
[1]Statement by Xinhua News Agency upon Authorization of the Government of PRC on February 17, 1979, http://digitalarchive.wilsoncenter.org/document/118480
[2] Sự thật quan hệ Việt Nam-Trung Quốc trong 30 năm qua, NXB Sự Thật, tháng 10 năm 1979, phần 4.
[3]Nguyễn Ngọc Minh, “Bọn bành trướng và bá quyền nước lớn Trung Quốc phạm tội ác xâm lược, tội ác chống hòa bình và an ninh quốc tế;” UBKHXHVN, Phê phán chủ nghĩa bành trướng và bá quyền nước lớn của giới cầm quyền phản động Bắc Kinh (Hà Nội: KHXH, 1979), tr. 126-127, 130-131
[4]Huỳnh Văn Trình, Sự hình thành đường biên giới Việt Nam – Trung Quốc, 1979, Uỷ ban Biên giới quốc gia.
[5] Statement by the Ministry of Foreign Affairs of the Socialist Republic of Vietnam on question of Hoa people in Vietnam on June 6, 1978, http://digitalarchive.wilsoncenter.org/document/118403
[6] Statement of the Ministry of Foreign Affairs of the People’s Republic of China on the expulsion of Chinese residents by Vietnam on June 12. 1978, http://digitalarchive.wilsoncenter.org/document/118404
[7] Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua, NXB Sự Thật, Hà Nội tháng 10 năm 1979, phần 4
[8]Huy Đức, Bên thắng cuộc, Quyển I – Giải phóng, chương V Nạn Kiều, tr. 67
[9] King C. Chen, China’s War with Vietnam, 1979: Issues, Decisions, and Implications, Hoover Press, 1987, pp. 51-53 (King C. Chen, China’s War with Vietnam)
[10]Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua, phần 4.
Statement by the Ministry of Foreign Affairs of the Socialist Republic of Vietnam on question of Hoa people in Vietnam on June 6, 1978, http://digitalarchive.wilsoncenter.org/document/118403
[11] D.V. Mosiakov, Chính sách của Trung Quốc ở Đông Nam Á từ quá khứ đến hiện tại, Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á (Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam) dịch, NXB Chính trị quốc gia – Sự Thật, Hà Nội 2016, 358 trang.
[12]Herbert S. Yee, The Sino-Vietnamese Border War: China’s Motives, Calculations and Strategies, China Report, New Delhi, India), Volume 16, No 1, 1980, p. 15-32.
[13]Womack, Brantly.  China and Vietnam: The Politics of Asymmetry, Cambridge University Press 2006, p. 192
Vogel, Ezra F.  Deng Xiaoping and the Transformation of China, Harvard University Press, 2013. Chapter 9.  The Soviet-Vietnamese Threat 1978– 1979, pp 266-276
[14]King C. Chen, China’s War Against Vietnam, A Military Analysis, The Journal of East Asian Affairs, Vol. 3, Issue 1, 1983, p. 233-263. Ngô Bắc dịch
[15]Renmin Ribao, 9 Tháng Một 1979 (được in lại trong tờ Beijing Review, 12 Tháng Một 1979).
[16]Ramesh Thakur: Coexistence to Conflict: Hanoi-Moscow-Pekings Relations and The China-Vietnam War, The Australian Outlook, Volume 34, No 1, 1980, p. 69.
[17]“Regional hegemonist policy,” “Indochina Federation,” They found a patron in Soviet social-imperialism;” Tighter to the apron strings of social-imperialism”. Renmin Ribao (Beijing), 4/9/1978; Peking Review No 36, 8/9/1978, pp. 23-4.
[18]Renmin Ribao, 9 November 1978.
[19]Beijing Review, 9 February 1979, p. 13; và New York Times, 1 February 1979.
[20]Herbert S. Yee,The Sino-Vietnamese Border War: China’s Motives, Calculations and Strategies, China Report, New Delhi, India Tom 16, Volume 1, 1980, p. 15-32.
[21]Nayan Chanda, Brother Enemy: The War After The War, A History of Indonchina after the fall of Saigon, San Diego – New York – London, Harcourt Brace Jovanovic Publishers 1986, p.134
[22] Joint Communiqué on the Establishment of Diplomatic Relations between the United States of America and the People’s Republic of China, January 1, 1979, http://13ndxw3o9yns2zjjq31htyst.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/uploads/2017/08/choices-china-US-china.pdf
[23]邓小平当年在中越边境作战情况报告会上的讲话, Junshi.xilu.com.

[24]Bruce Elleman, Sino-Soviet Relations and the February 1979 Sino-Vietnamese Conflict, 20 April 1996

[25]Theo Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, Trung Quốc đánh Việt Nam “Cũng một cách nữa là họ trả thù cho Pol Pot. Đồng thời lúc bấy giờ ông Đặng Tiểu Bình cũng muốn quan hệ với Mỹ cho nên đánh chúng tôi để cho Mỹ thấy rằng là giữa Trung Quốc và Việt Nam không phải là đồng minh, không phải là cùng nhau Cộng Sản nữa. Trung Quốc muốn cho Mỹ tin để phát triển quan hệ với Trung Quốc. Vì Trung Quốc lúc bấy giờ muốn phát triển quan hệ với Mỹ. Đánh Việt Nam là một món quà tặng cho Mỹ”.
[26] Thẩm Thính Tuyết, diễn đàn “Điểm lại cuộc chiến tranh Việt-Trung 1979” tổ chức ngày 9/2/2015 ở Hồng Kông, trích lại từ Kiều Tỉnh, http://soha.vn/quoc-te/chien-tranh-bien-gioi-1979-tq-ra-lenh-gap-nguoi-vn-la-giet-het-20160216223609194.htm, 18/2/2016.
[27]John M. Peppers, Lieutenant Colonel, United States Army, Strategy In Regional Conflicy: A Case Study of China in the Third Indochina Conflict of 1979, Carlisle Barracks, Pennsylvania: U. S. Army War College, 2001, 48 p.
[28] Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua, phần 4.
[29]Colonel G. D. Bakshi, VSM, The Sino-Vietnam War – 1979: Case Studies in Limited Wars, Indian Defence Review, Volume 14 (2) July – September 2000.
[30] Gerald Segal, Defending China, New York, Oxford University Press 1985, p. 211-227

Mách nước

Nếu bạn không download được tài liệu nào, vui lòng sửa chữ “net” trong đường link download thành chữ “org”. Ví dụ: link NÀY thành link NÀY.

Bài mới

Bài được đọc nhiều

Chủ đề mới

Tìm bài theo chủ đề

Tưởng niệm 41 năm cuộc chiến chống xâm lược Trung Quốc ở biên giới phía Bắc

CLB Lê Hiếu Đằng
16-2-2020
Hàng năm, cứ đến dịp 17 tháng 2 là các Tổ chức Xã hội Dân sự độc lập như CLB Lê Hiếu Đằng, No-U, nhóm Vì Môi Trường, Hội Anh em Dân chủ… thường đến dâng hoa, thắp nhang tưởng niệm đồng bào, chiến sĩ Việt Nam hy sinh trong cuộc chiến biên giới chống Trung Cộng xâm lược (1979-1989) tại Tượng Đức Thánh Trần ở Bến Bạch Đằng, Sài Gòn và Tượng Vua Lý Thái Tổ ở Hà Nội hoặc các nghĩa trang liệt sĩ chống Trung Cộng xâm lược.
Năm nay do dịch bệnh COVID-19 nên mỗi người Việt Nam yêu nước sẽ tự tưởng niệm Liệt sĩ chống Trung Cộng xâm lược (17/2/1979) theo cách riêng của mình.
Các thành viên CLB Lê Hiếu Đằng xin tri ân và thắp một nén nhang lòng tưởng niệm cho tất cả đồng bào, chiến sĩ Việt Nam hy sinh trong cuộc chiến chống Trung Cộng xâm lược Việt Nam khởi đầu ngày 17/2/1979!
Và xin có nhận định sau đây về việc ghi nhận cuộc chiến nói trên trong sách Lịch sử Việt Nam “chính thống”:
CUỘC CHIẾN ĐẪM MÁU, DAI DẲNG CHỐNG TRUNG CỘNG XÂM LƯỢC BỊ COI NHẸ HẾT SỨC TRONG SÁCH LỊCH SỬ VIỆT NAM “CHÍNH THỐNG”
5h sáng ngày 17-2-1979, 60 vạn quân Trung Quốc đồng loạt vượt biên giới kéo dài 1.400km tiến vào sáu tỉnh của Việt Nam gồm Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Tuyên (Hà Giang, Tuyên Quang), Hoàng Liên Sơn (Lào Cai, Yên Bái), Lai Châu, điều động 9 quân đoàn chủ lực, 2.559 khẩu pháo, 550 xe tăng và thiết giáp tiến sâu vào đất Lạng Sơn, Lào Cai (30Km), Lai Châu (15km), Cao Bằng (50km).
Quân dân Việt Nam kiên cường chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, loại khỏi vòng chiến đấu 62.500 tên địch, tiêu diệt, đánh thiệt hại nặng 3 trung đoàn, 18 tiểu đoàn, bắn cháy và phá hủy 550 xe quân sự, trong đó có 280 xe tăng, phá hủy 115 khẩu pháo và súng cối, thu nhiều vũ khí, bắt nhiều tên xâm phạm lãnh thổ Việt Nam”. (Trang 355, Tập 14, Lịch sử Việt Nam, NXB KHXH)
Những dòng trên là toàn bộ dung lượng viết về cuộc chiến chống Trung Quốc Cộng sản xâm lược Việt Nam trong 10 năm ròng rã đẫm máu từ 17/2/1979 đến tháng 12/1988 trong bộ sách “Lịch sử Việt Nam” của Viện Sử Học, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam 15 tập, với 10.000 trang (khoảng 290.000 dòng). Riêng giai đoạn năm 1930 đến năm 2000 đã có 6 tập (tập 9-15), với tổng số khoảng 3.600 trang (ước khoảng 103.000 dòng).
1.-Tại sao lại gọi đó là cuộc chiến đẫm máu?
Bởi nếu so với 58.000 lính Mỹ chết ở Việt Nam giai đoạn 1963-1973, thì số lính Trung Quốc chết là 62.500 tên (1979-1989), nhiều hơn 4.500 tên. Chưa kể ngoài cuộc chiến phía Bắc này, còn có cuộc chiến do Khmer Đỏ xâm lược Tây Nam – Việt Nam 1977-1978 từ cùng một bộ não chỉ huy là Cộng sản Bắc Kinh, và với trang bị hậu cần, vũ khí giết người Việt Nam cũng “made in China” mà thiệt hại hai bên chưa thấy công bố (?)
Lịch sử rồi sẽ phải công khai sự thật số lượng người Việt Nam thương vong trong cuộc chiến chống Trung Quốc xâm lược ở cuối thế kỷ 20, nhưng theo các nhà quan sát phương Tây ước tính, thì quân và dân Việt Nam hy sinh trong hai cuộc chiến biên giới mà nguyên nhân là từ Trung Quốc Cộng sản gây ra khoảng 100.000 người.
Còn nhiều sự thật đã phơi bày ngay trước thanh thiên bạch nhật: 4 thị xã của Việt Nam là Cao Bằng, Lạng Sơn, Lào Cai, Cam Đường bị quân Trung Quốc phá hủy hoàn toàn; 6 tỉnh Biên Giới phía Bắc Việt Nam bị Trung Quốc phá hủy triệt để hạ tầng giao thông gồm cả đường sắt, đường bộ, cầu cống, điện, nước, và các cơ sở kinh tế kỹ thuật khác như trụ sở cơ quan, nhà máy, xí nghiệp, hầm mỏ, nhà ga, trường học, bệnh viện, cửa hàng bách hóa… nơi quân Trung Quốc đi qua.
Sử “chính thống” không ghi, nhưng báo chí nói nhiều đến việc quân Trung Quốc thảm sát dã man người Việt Nam ở Tổng Chúp (chúng giết 43 phụ nữ, trẻ em rồi quăng xuống giếng ở Tổng Chúp, xã Hưng Đạo, TP Cao Bằng, tháng 2/1979).
Chính vì sách Lịch sử “chính thống” viết quá sơ lược, thậm chí không viết về những sự kiện chiến tranh biên giới Việt – Trung trong những năm 1984-1989, nên rất nhiều người Việt Nam đến nay vẫn cho là cuộc chiến tranh Trung Quốc xâm lược ngày 17/2/1979 chỉ kéo dài 1 tháng.
Nhiều người Việt Nam trưởng thành vẫn tưởng nhầm cuộc chiến chống Trung Cộng xâm lược khởi đầu 17/2/1979 đã chấm dứt khi Đặng Tiểu Bình tuyên bố hoàn thành rút quân ngày 16/3/1979 do đã “dạy xong cho Việt Nam bài học”. Sự thật là do Trung Quốc thất bại nặng nề về quân sự, do vũ khí lạc hậu, kỹ thuật, chiến thuật lạc hậu, chỉ huy tác chiến kém, huấn luyện kém… khi tiến đánh Việt Nam, Đặng đã chỉnh huấn như vậy khi họp Quân ủy Trung Quốc.
Nhiều sự thật về những trận chiến sau đó, mà sách sử “chính thống” không nhắc đến, ví dụ sơ lược vài dòng như sau:
Từ tháng 4/1984 – 12/1988, tại khu vực núi đá Vị Xuyên, Hà Giang là nơi được các chiến sĩ tiền tiêu Việt Nam ở các sư đoàn F356, F313, F312, F316… gọi là “lò vôi thế kỷ” (do hứng chịu hàng trăm ngàn quả đạn pháo cả hai bên làm núi đá bị nung nóng thành vôi) đã đối đầu với nhiều sư đoàn, quân đoàn, quân khu của Trung Quốc tấn công đánh chiếm, tái chiếm giằng co từng mét đất biên cương, bộ đội Việt Nam đã tổn thất 4.000 (có nguồn ghi 5.000) sĩ quan chiến sĩ hy sinh, hơn 9.000 bị thương, hàng chục người bị bắt. Nhiều Liệt sĩ Việt Nam ở khu vực này đến nay không có mộ, nhiều ngôi mộ vô danh vì cuộc chiến quá ác liệt nên thịt nát xương tan lẫn lộn, khi quy tập đã không xác định được hình dạng, họ tên!
Chỉ riêng tại mặt trận Vị Xuyên, Hà Tuyên giai đoạn (1984-1989) quân Trung Quốc bị chết 15.178 tên, bị thương 17.757 tên.
Chỉ trong một đêm 12/7/1984 mở màn chiến dịch tiến công tái chiếm các điểm cao 685, 1509, 772, 1030 do quân Trung Quốc đánh chiếm từ tháng 4/1984, riêng F356, quân đoàn 29, Quân khu II của Việt Nam đã thiệt hại hơn 600 sĩ quan, chiến sĩ (có nguồn ghi ngày đó, tại các điểm cao trên các Sư đoàn Việt Nam bị thiệt hại 1200)“. (Tóm tắt trang 449, 450 sách VỊ XUYÊN & THẾ SỰ VIỆT TRUNG của Phạm Viết Đào)
Quân Trung Quốc còn thảm sát 74 sĩ quan chiến sĩ công binh Việt Nam ra xây đảo Gạc Ma ngày 14/3/1988, và Trung Quốc đã chiếm đảo Gạc Ma và nhiều đảo đá khác thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam cho đến nay.
Những sự phá hoại và giết chóc hàng vạn người Việt Nam do Trung Quốc gây ra cho Việt Nam (1979-1989) đã vượt quá bao lần giá trị Trung Quốc viện trợ hậu cần, nhân sự và vũ khí cho Việt Nam đuổi Pháp (1950-1954) giúp tạo vùng đệm an toàn cho biên giới phía Nam của Cộng sản Trung Quốc, và để Việt Nam Dân chủ Cộng hoà chống Việt Nam Cộng hoà (thực chất là giết hại đồng bào Miền Nam – Việt Nam) và “đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng” (1954-1975)?
2.- Tại sao lại gọi là cuộc chiến dai dẳng?
(a) Nếu định nghĩa chiến tranh xâm lược là một quốc gia đưa quân đi giết người của nước đối phương để chiếm lãnh thổ, thì cuộc chiến Trung Quốc xâm lược Việt Nam vẫn chưa kết thúc. Vì từ vụ Trung Quốc xâm lược, bắn giết người Việt Nam để chiếm Hoàng Sa của Việt Nam ngày 19/1/1974; tiếp đó là Bắc Kinh dùng cộng sản Polpot xâm lược Tây Nam – Việt Nam; đặc biệt cuộc xâm lược 6 tỉnh biên giới Bắc Việt Nam từ 17/2/1979 -1989; vụ thảm sát 64 sĩ quan binh sĩ Việt Nam tại Gạc Ma để chiếm Gạc Ma và một số đảo đá thuộc Trường Sa của Việt Nam ngày 14/3/1988, cho đến nay, Trung Quốc vẫn đang chiếm giữ và xây căn cứ quân sự trên đó. Cuộc chiến tranh sử dụng “sức mạnh cứng” như thế chưa kết thúc.
(b) Nếu xét theo loại hình xâm lược bằng “sức mạnh mềm” như dùng chiến tranh tâm lý, kinh tế, văn hóa, giáo dục, luật pháp, ý thức hệ, thể chế chính trị… để một quốc gia này bắt quốc gia khác phải quy phục, phải lệ thuộc, phải “gọi dạ, bảo vâng”, thì Trung Quốc Cộng sản đã thực hiện loại hình này với Việt Nam ngay từ khi nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam từ ngày 18.1.1950 đến nay.
Nhà ngoại giao kỳ cựu từng làm Đại sứ Việt Nam tại Bắc Kinh 14 năm (1974-1987), Lão tướng Nguyễn Trọng Vĩnh viết:
Lược lại một đoạn lịch sử quan hệ Trung Quốc- Việt Nam thì thấy: Ngay từ những năm 50 của thế kỷ 20, khi hai nước còn “hữu hảo” lắm, thì họ đã muốn chinh phục ta bằng lý luận tư tưởng Mao Trạch Đông qua nhiều con đường sách báo, các đoàn cố vấn, các mối quan hệ qua lại… Ta cũng có thời kỳ bị ảnh hưởng về lý luận, tư tưởng đó. Bằng chứng là lúc đó trong trường Đảng của ta còn có chương trình học tư tưởng Mao Trạch Đông và trong thực tiễn cũng làm nhiều việc theo cách của Trung Quốc như việc cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ hoặc việc chỉnh đốn tổ chức đấu tố “phản tỉnh” trong nội bộ…Trung Quốc chuyển sang chinh phục ta bằng kinh tế… họ bắt ta phải hàm ơn, phải đi theo… muốn giữ ta luôn ở thế yếu… Trung Quốc không muốn ta đàm phán (với Mỹ) mà muốn ta ‘đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng’…’Trung Quốc muốn kéo ta vào tầm ảnh hưởng, bắt ta phải thần phục họ’… Trung Quốc quen đối xử với các nước nhỏ theo cách kẻ cả, bất công bằng như thời bộ lạc ‘mạnh được yếu thua’, không còn coi công lý là gì ‘nghe lời ta thì được ‘tốt đẹp’, chống lại ta thì ta cho chết”. (Trang 115, 117, 118,119 sách “Kể Lại Cuộc Đời”, Hồi ức của Nguyễn Trọng Vĩnh).
Nay thì, ngay từ Lời nói đầu, Chương 1 của Hiến pháp Việt Nam đến nhiều điều cơ bản về thể chế chính trị, CHXHCN Việt Nam cũng “giống” Hiến pháp Trung Quốc. Rồi đến các chính sách mở cửa, cổ phần hóa, đa dạng các loại hình kinh tế… gần đây nhất là Luật Khu Hành Chính và Kinh Tế Đặc Biệt, Luật An Ninh Mạng thì Cộng sản Ba Đình luôn luôn giẫm đúng vết chân người đồng chí anh em bốn tốt Cộng sản Trung Nam Hải bất kể những chính sách, đạo luật ấy tốt hay xấu cho người dân Việt Nam.
Đến mức chỉ số minh bạch, chỉ số Tự do báo chí, Tự do internet, điểm số về đàn áp Nhân quyền… thì Việt Nam luôn luôn theo sát sàn sạt người anh em Cộng sản Trung Quốc.
Từ những điều trên đây, có thể khẳng định rằng cuộc chiến giành tự do độc lập, toàn vẹn lãnh thổ của nhân dân Việt Nam đến nay chưa kết thúc, đó là một “cuộc chiến dai dẳng”. Kẻ thù của dân tộc Việt Nam không ai khác chính là kẻ chiếm Hoàng Sa của Việt Nam 19/1/1974, kẻ chủ mưu gây ra cuộc chiến đẫm máu hơn 43 năm trước ở biên giới Tây Nam, và 41 năm trước (từ 17/2/1979 – 1989) ở 6 tỉnh biên giới phía Bắc. Nay kẻ thù vẫn ngang nhiên vẽ “lưỡi bò” để chiếm 80% biển Đông của Việt Nam, đang chiếm Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam; kẻ với chiến lược “vành đai con đường” để bành trướng lãnh thổ; kẻ quấy phá biển đảo và thềm lục địa Việt Nam không để Việt Nam yên bình hợp tác với các nước khác khai thác dầu khí ở khu mỏ Cá Rồng Đỏ, bãi Tư Chính năm 2018, 2019…
Kẻ thù đó ngày nay với “sức mạnh mềm” kinh tế, văn hóa, chính trị… đã lôi kéo được nhiều người mang dòng máu Việt Nam nhưng cơ hội chính trị và tham lam quyền lực và vật chất, nhiều kẻ mang danh là trí thức Việt Nam cũng bị mờ mắt, bị lú lẫn đã vô tình hay hữu ý làm tay sai cho bọn xâm lược đất nước của ông cha mình.
Bộ lịch sử 15 tập, hơn 10.000 trang, với khoảng 290.000 dòng, viết cả chục ngàn dòng (ở hai tập 12, 13 với 1100 trang) về cuộc chiến ý thức hệ 1954-1975, cuộc chiến mà Cộng sản Trung Quốc “anh em” đã “tận tình giúp đỡ vũ khí, hậu cần” để “ta đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng”, nhưng chỉ viết 11 dòng về cuộc chiến chống Trung Quốc xâm lược Việt Nam với hàng chục vạn người Việt Nam chiến đấu hy sinh ở thế kỷ 20. Việc này làm lợi cho ai?
Tại sao sách sử “chính thống” hiện đại của Việt Nam không liệt kê những thiệt hại vật chất và sinh mạng vô cùng thảm khốc của Việt Nam trong hai cuộc chiến biên giới do Trung Cộng gây ra (1979-1989), mà lại ghi khá rõ “Việt Nam luôn luôn luôn biết ơn sự tận tình giúp đỡ của Chính phủ và nhân dân Trung Quốc” (trang 351, tập 14 Lịch sử Việt Nam, NXB KHXH) với những hạng mục vật chất, kinh tế, nhân sự khá chi tiết để Việt Nam đánh đuổi hai nền văn minh Pháp và Mỹ (1950-1975), để Việt Nam quay về thần phục Thiên Triều mọi mặt như ngàn năm phong kiến lạc hậu trước kia?
Phải chăng Viện Sử Học của Viện Hàn Lâm Khoa Học Xã Hội Việt Nam cũng bị “tê liệt và thất thủ” trước cuộc xâm lăng bằng “sức mạnh mềm” của Cộng sản Bắc Kinh còn đang tiếp diễn?
CÂU LẠC BỘ LÊ HIẾU ĐẰNG

Đọc thêm


“Những cái nhất” của ngày 17/2/1979

Đinh Hoàng Thắng

Đọc cái “tút” của GS-TS Trần Ngọc Vương từ Đại học Quốc gia nhân ngày tập đoàn lãnh đạo Bắc Kinh phát động cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam 41 năm trước đây, thú thật người viết bài này không khỏi giật mình. Nói chuyện điện thoại với Giáo sư xong, viết bài này, như thắp một nén tâm hương, tưởng niệm gần 100.000 chiến sỹ và đồng bào ta đã bỏ mình trong hai cuộc chiến tranh biên giới bảo vệ Tổ quốc vốn bị lãng quên một cách nhẫn tâm và chóng vánh nhất.

Con số 100.000 chiến sỹ và đồng bào ta hy sinh là lấy từ Tuyên bố của Câu Lạc Bộ Lê Hiếu Đằng. Tuyên bố viết: “Lịch sử rồi sẽ phải công khai sự thật số lượng người Việt Nam thương vong trong cuộc chiến chống Trung Quốc xâm lược ở cuối thế kỷ 20, nhưng theo các nhà quan sát phương Tây ước tính, thì quân và dân Việt Nam đã hy sinh trong hai cuộc chiến tranh biên giới mà nguyên nhân là từ Trung Quốc cộng sản gây ra khoảng 100.000 người”.

Vâng, con số nói trên rõ ràng chưa được thẩm định. Ở một đất nước mà phải sau 3 Nghị quyết của Bộ Chính trị, doanh nghiệp, người dân và xã hội mới được phép “hội nhập toàn diện” với thế giới, thì việc trích con số mất mát trong trận mạc chưa qua thẩm định rất có thể bị xử lý. Vẫn biết chẳng hy vọng gì nhiều vào câu chữ trong EVFTA, tự do báo chí sẽ được bảo đảm ở Việt Nam, để tính chuyện “chạy tội”. Đơn giản, phải chờ đến năm 2023, cam kết trong Hiệp định ấy mới có hiệu lực pháp lý. Còn trên thực tế thì chưa biết đến “Tết Công gô” nào mới có!

Nhưng chẳng nhẽ vì thế mà những nhà báo trung thực dịp này vẫn “mũ ni che tai”? Tác giả bài này còn nhớ, dạo nọ, nhân tưởng niệm ngày 17/2, một trang mạng hàng đầu ở Việt Nam có đặt bài về cuộc chiến tranh biên giới, nhưng lại đưa ra yêu cầu là không được đề cập đến hai từ “Trung Quốc” trong bài viết. Thật là tột cùng của mọi sự phi lý! Đỉnh cao của mọi sự vô liêm sỉ! Ngay như 17/2 năm nay, các báo hầu như “không giám chấp” hay là do “huý kỵ” đặc biệt, vẫn tránh hai chữ “Trung Quốc” trong bài viết như tránh dịch Covid-19. Lần này, cùng với GS. Trần Ngọc Vương, tác giả muốn đề xuất với các “sử gia” đáng kính 5 “cái nhất” mà những người viết bộ sử “chính thống” ấy không rõ vì lý do gì đã bị ép quên hay tự lãng quên.

Thứ nhất, đợt tấn công phủ đầu trên toàn tuyến biên giới bắt đầu ngày 17/2/1979 thực chất là một cuộc chiến tranh xâm lược có quy mô lớn nhất nhưng lại diễn ra trong một thời gian ngắn nhất, tính đến thời điểm kẻ địch phải tuyên bố rút quân (ngày 5/3/1979). Theo nhà nghiên cứu Lịch sử Lê Mã Lương, đấy thực sự là cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc. Chưa bao giờ chúng ta phải đối phó với một đội quân xâm lược nhung nhúc như thế! Địch tung ra một lực lượng quân sự 600.000 lính, cùng các phương tiện chiến tranh hiện đại, tàn phá 6 tỉnh biên giới phía Bắc trong gần một tháng. Tuy nhiên, chúng chỉ tiến sâu vào được đất ta không quá 50km. Khác với các triều đại trước đây, mỗi lần đánh ta, đa phần quân Tàu vào tận kinh đô. Ấy vậy mà, các sử gia chính thống chỉ chép về chiến công hiển hách ấy có 290 dòng trên tổng số 103.000 dòng về các sự kiện qua 70 năm của bộ sử chính. Số chữ về cuộc chiến chiếm chưa đầy 0,003% toàn bộ số chữ về các sự kiện từ 1930 đến 2000. Mỉa mai thay, các “sử nô” đã viết về cuộc chiến tranh bi thảm ấy bằng những con chữ vô hồn nhất, với nguỵ biện để bảo đảm trung tính và khách quan, vì chưa “thương lượng” xong với các “sử gia bạn”.

Thứ hai, từ đòn đánh bất ngờ ấy, một cuộc chiến tranh đẫm máu nhất đã diễn ra, như tài liệu từng tổng kết. Nhưng sử “chính thống” chép quá sơ lược, thậm chí hầu như không viết gì về cuộc chiến từ 1984 đến 1989, nên rất nhiều người Việt Nam, nhất là thế hệ trẻ, vẫn không biết gì về mức độ ác liệt của nó. Trên thực tế, chỉ riêng tại Vị Xuyên, Hà Tuyên giai đoạn 1984-1989, Trung Quốc chết 15.178 quân, bị thương 17.757 tên. Ở khu vực này, có chỗ ta và địch giằng co nhau từng mét đất biên cương. Việt Nam đã tổn thất 4.000 (có nguồn ghi 5.000) sĩ quan, chiến sĩ và hơn 9.000 bị thương. Chỉ riêng một đêm 12/7/1984 mở màn chiến dịch tái chiếm các điểm cao, quân khu II thiệt hại hơn 600 cán ,bộ chiến sĩ. Có nguồn ghi ngày đó, trên các điểm cao ấy, các sư của ta “mất” ít nhất 1200 người.

Thứ ba, cuộc chiến đẫm máu nói trên lại cũng là một cuộc chiến dai dẳng nhất (kéo dài chục năm có lẻ) trong lịch sử cận đại Việt Nam. Như tuyên bố của CLB Lê Hiếu Đằng, nếu định nghĩa chiến tranh xâm lược là một quốc gia đưa quân đi giết người của đối phương để chiếm lãnh thổ, thì cuộc chiến Trung Quốc xâm lược Việt Nam vẫn chưa kết thúc. Trung Quốc từng xâm lăng, bắn giết người Việt Nam để chiếm Hoàng Sa của Việt Nam ngày 19/1/1974, tiếp đó dùng tập đoàn Polpot xâm lược Tây Nam – Việt Nam, đặc biệt cuộc tấn công 6 tỉnh biên giới phía Bắc từ 17/2/1979 đến 1989, vụ thảm sát binh sĩ, sĩ quan Việt Nam để chiếm Gạc Ma và một số đảo đá thuộc Trường Sa ngày 14/3/1988, cho đến nay, Trung Quốc vẫn đang chiếm giữ và xây các căn cứ quân sự trên đó.

Thứ tư, trong thời gian chiến tranh Trung – Việt 10 năm có lẻ ấy, Trung Quốc đã vi phạm luật tù binh thô bạo nhất và đối xử dã man nhất với thường dân. Quân Trung Quốc đã thảm sát hàng ngàn tù binh, đặc biệt là 64 cán bộ chiến sĩ công binh Việt Nam ra xây đảo Gạc Ma ngày 14/3/1988, cùng với 2 tàu vận tải vĩnh viễn nằm sâu dưới lòng Biển Đông. Trung Quốc đã chiếm đảo Gạc Ma và nhiều đảo đá khác thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam cho đến ngày nay. Trên biên giới, lính Trung Quốc đã thảm sát dã man hàng ngàn thường dân, đặc biệt ở Tổng Chúp, đã giết 43 phụ nữ, trẻ em rồi quăng xuống giếng ở Tổng Chúp, xã Hưng Đạo, thành phố Cao Bằng, tháng 2/1979.

Thứ năm, một cái nhất nữa không thể không nhắc đến: Chưa có một cuộc chiến tranh nào trong lịch sử Việt Nam được cả chính quyền lẫn các sử quan “lãng quên nhanh nhất” và “bỏ chạy một cách kỹ lưỡng nhất” (từ của GS. Trần Ngọc Vương). Bộ lịch sử 15 tập, dày hơn 10.000 trang, với khoảng 290.000 dòng, trong đó dành cả chục ngàn dòng về cuộc chiến ý thức hệ từ 1954 đến 1975 – cuộc chiến mà Trung Quốc đã “tận tình giúp” để ta “đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng” – trong khi đó chỉ chép vẻn vẹn có mười một dòng về cuộc chiến chống Trung Quốc xâm lược. Sau hơn 4 thập kỷ, người ta cố tình tung hoả mù lên tính chính danh của cuộc chiến. Không giám gọi kẻ xâm lược là địch, các chiến sỹ ta hy sinh thì khó khăn lắm mới được vinh danh là liệt sỹ. Chứ không phải chết ngày hôm trước thì ngay hôm sau đã được truy tặng “Huân chương Chiến công hạng nhất”. Quả là một kỷ lục về sự “nhập nhằng ý thức hệ!”

Từ những thiện nghĩ trên đây, có thể thấy cuộc chiến bảo vệ tự do độc lập, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam cho đến hôm nay vẫn chưa kết thúc. Kẻ thù của ta không ai khác chính là kẻ chiếm Hoàng Sa của Việt Nam 19/1/1974, kẻ chủ mưu gây ra cuộc chiến đẫm máu hơn 43 năm trước ở biên giới Tây Nam và 41 năm trước (từ 17/2/1979 – 1989) ở 6 tỉnh biên giới phía Bắc. Ngày nay, kẻ thù ấy vẫn ngang nhiên bám vào đường “lưỡi bò” để đòi chiếm 80% Biển Đông, cho dù Toà Trọng tài của Liên hiệp quốc đã hoàn toàn bác bỏ.

Đúng như cảnh báo của CLB Lê Hiếu Đằng, với chiến lược “vành đai con đường” Trung Quốc đã/đang bành trướng lãnh thổ, xâm phạm biển đảo và thềm lục địa Việt Nam, không để Việt Nam hợp tác với các nước khác khai thác dầu khí ở khu mỏ Cá Rồng Đỏ, Bãi Tư Chính.. Kẻ thù đó ngày nay với “sức mạnh mềm” kinh tế, văn hóa, chính trị… đã/đang lôi kéo được nhiều người mang dòng máu Việt Nam nhưng vì cơ hội chính trị, tham lam quyền lực và vật chất, có nhiều người mang danh trí thức cũng bị mờ mắt, bị lú lẫn, đã vô tình hay hữu ý làm tay sai cho kẻ xâm lược đất nước mình./.

Có thể tham khảo thêm:





Tác giả gửi cho viet-studies ngày 17-2-20