Tác giả: Việt Long
Kính tặng những người đã đổ máu, sức lực cho biên giới mãi trường tồn
Ngoại giao bóng bàn và các chuyến đi bí mật của cố vấn Kissinger đã
đưa đến sự bắt tay Mỹ – Trung năm 1972 tại Thượng Hải làm thay đổi cục
diện thế giới cũng như khu vực. Sự kiện này làm thay đổi hẳn các tính
toán của các bên trong ván bài Đông Dương. Mỹ muốn rút khỏi Việt Nam nên
đã làm ngơ cho Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa năm 1974 để đổi lấy tác
động của Bắc Kinh lên chính sách của Hà Nội. Trung Quốc muốn duy trì hai
miền Việt Nam trước quyết tâm thống nhất đất nước của Hà Nội để có một
vùng đệm an ninh cho biên giới phía Nam. Sự bắt tay Mỹ – Trung làm Liên
Xô buộc phải tăng cường quan hệ với Việt Nam, tìm kiếm đồng minh trong
khi Hà Nội cần nhiều viện trợ quân sự trong bối cảnh Trung Quốc đang đe
dọa cắt viện trợ để buộc Việt Nam theo ý mình.Tuy nhiên, Việt Nam thống nhất năm 1975 đã làm đảo lộn tính toán của các nước lớn. Trong khi Việt Nam hân hoan với viễn cảnh đất nước bước vào một kỷ nguyên mới vĩnh viễn độc lập, tự do thì những bóng mây của cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ ba đã tích tụ. Trung Quốc không cam tâm để Việt Nam tuột khỏi quỹ đạo của mình. Một thế trận gọng kìm đã được giương lên từ cả biên giới phía Bắc và phía Nam. Việt Nam và Trung Quốc tố cáo nhau về các cuộc xâm phạm biên giới, dời trụ mốc, lấn chiếm lãnh thổ trên đất liền, về vấn đề người Hoa ở phía Bắc. Khmer Đỏ với sự giúp đỡ của Trung Quốc xâm lấn lãnh thổ Việt Nam ở phía Nam. Cuộc tiến công của bộ đội tình nguyện Việt Nam và các lực lượng Mặt trận Dân tộc Cứu nước Campuchia vào Phnom Penh đầu năm 1979 đã làm kế hoạch của Bắc Kinh có nguy cơ phá sản. Trong thời điểm quân chủ lực Việt Nam chưa rút về nước, Bắc Kinh đã phát động cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc.
Cuộc chiến tranh này kéo dài suốt hơn 10 năm (1979-1990), để lại nhiều hậu quả cho phía Việt Nam. Nó cũng là đề tài bất tận cho các sử gia, các nhà phân tích và bình luận quan hệ quốc tế khai thác. Rất nhiều câu hỏi vẫn còn bỏ ngỏ hoặc có những đánh giá khác nhau. Tại sao Trung Quốc đánh Việt Nam? Cuộc chiến tranh này có thể tránh được không? Số lượng quân tham chiến mỗi bên? Ai thắng ai bại và số lượng tổn thất? Tại sao Trung Quốc lại chọn thời điểm tháng 2 năm 1979?…Các tài liệu chiến tranh đều không được hai bên giải mật. Phần lớn các bài viết, nghiên cứu là từ các tác giả nước ngoài. Trong phần này chúng tôi chỉ tập trung vào những nội dung chính liên quan đến tiến trình giải quyết biên giới lãnh thổ và trên cơ sở các tài liệu công khai.
Mục tiêu chiến tranh của Trung Quốc
Cuộc chiến tranh này là do Trung Quốc phát động nên câu hỏi đầu tiên là Trung Quốc làm nhằm mục tiêu gì? Đâu là mục tiêu chính?
Phân tích Tuyên bố chiến tranh của Chính phủ Trung Quốc ngày 18/2/1979 và các phát biểu của lãnh đạo Trung Quốc cho thấy sự sắp xếp các mục tiêu của Trung Quốc theo một trật tự: biên giới, chính trị, quân sự, kinh tế.
Mục tiêu biên giới
Tuyên bố chiến tranh của Chính phủ Trung Quốc được Tân Hoa xã phát hành ngày 17/2/1979 nêu rõ:
“Chỉ trong vòng sáu tháng qua người Việt Nam đã xâm nhập có vũ trang 700 lần, giết hại và làm bị thương hơn 300 lính biên phòng và dân sự Trung Hoa. Bởi chính những hành động xâm lược điên cuồng đó nhà cầm quyền Việt Nam đã cố ý kích động và tăng căng thẳng dọc theo biên giới phía Nam Trung Hoa và ngăn cản chương trình canh tân xã hội chủ nghĩa Trung Hoa. Hành động xâm lược đó nếu không bị ngăn chặn, chắc chắn sẽ làm nguy hiểm cho hòa bình và ổn định Đông Nam Á, và ngay cả toàn châu Á.
Lập trường kiên định của Chính phủ và nhân dân Trung Hoa là “chúng tôi sẽ không tấn công trừ phi chúng tôi bị tấn công, – nếu chúng tôi bị tấn công, chắc chắn chúng tôi sẽ phản công”. Các đạo quân biên phòng Trung Hoa hoàn toàn chính đáng để đứng dậy phản công khi họ vượt quá sự chịu đựng. Chúng tôi muốn xây dựng đất nước và cần một môi trường quốc tế hòa bình. Chúng tôi không muốn chiến tranh. Chúng tôi không cần một tấc (inch) đất nào của người Việt Nam nhưng chúng tôi không muốn sự xâm nhập phá hoại vào lãnh thổ Trung Hoa. Tất cả điều chúng tôi muốn là một biên giới hòa bình và ổn định. Sau khi đánh trả đích đáng những kẻ xâm lược Việt Nam, lực lượng biên phòng Trung Hoa sẽ nghiêm chỉnh bảo vệ biên giới nước mình. Chúng tôi tin rằng lập trường của chúng tôi sẽ được sự hưởng ứng, cảm thông và hậu thuẫn của các nước và nhân dân yêu chuộng hòa bình và yểm trợ công lý ”.[1]
Theo tuyên bố này, hành động của Trung Quốc được biện minh bởi hai nguyên nhân: tranh chấp lãnh thổ và bảo vệ người Hoa. Mục tiêu nhất quán và cơ bản của chiến dịch năm 1979 là Phản kích tự vệ (对越自卫还击战 Đối Việt tự vệ hoàn kích chiến) , chống lại sự “tập trung một lực lượng vũ trang đông đảo dọc biên giới Việt – Trung và liên tiếp xâm nhập vào trong lãnh thổ Trung Hoa” để “có một đường biên giới hòa bình và ổn định” theo ý Trung Quốc.
Đối với Việt Nam, mục tiêu cuộc chiến do Trung Quốc phát động là: “tiêu diệt một bộ phận lực lượng vũ trang của Việt Nam, phá hoại tiềm lực quốc phòng và kinh tế, chiếm đất đai của Việt Nam, kích động bạo loạn”.[2]
Drew Middleton, ký giả kỳ cựu của New York Times trên bài nhận định của mình ngày 26/2/1979 đã nhận định cuộc chiến mà ông Đặng nói có thể giống một cuộc chiến tranh mà Cộng sản Trung Hoa đã phát động năm 1962-1963 trên biên giới phía Bắc Ấn Độ để thực hiện điều mà Cộng sản Trung Hoa mong muốn là thiết lập một làn ranh giới mới mà họ cho rằng đó là đường biên giới của họ. Nhận định này sau này đã được chứng minh chính xác như một mục tiêu đầu tiên trong các mục tiêu Trung Quốc đặt ra cho cuộc chiến. Tuy tuyên bố không xâm phạm tấc đất nào của Việt Nam nhưng diễn biến chiến tranh cho thấy Trung Quốc chủ ý thay đổi biên giới có lợi cho mình, nhất là tại những nơi Công ước Pháp – Thanh chưa giải quyết triệt để, hợp pháp hóa các vùng đất người Hoa đã sinh sống sang phía Việt Nam, chiếm đóng và khống chế một số điểm cao, tạo điều kiện thuận lợi cho đàm phán đồng thời nhằm đánh bại ý chí của Việt Nam trong tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và buộc rút quân khỏi Campuchia.
Để đạt được mục tiêu của mình, Trung Quốc đã chú trọng đẩy mạnh xung đột biên giới như một trong ba mũi giáp công gây sức ép với Việt Nam sau 1975: Pol Pot tấn công ở Tây Nam; xung đột biên giới và vấn đề Hoa kiều; cắt viện trợ, bỏ dở các công trình hợp tác và triệu hồi chuyên gia từ ngày 3/7/1978.
Tài liệu Bộ Ngoại giao Việt Nam cho biết: “Nếu số vụ khiêu khích lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam của Trung Quốc năm 1975 là 234 vụ, gấp rưỡi năm 1974, thì năm 1978 tăng vọt lên 2.175 vụ, gấp mười lần”.
Theo Nguyễn Ngọc Minh,[3] từ 1974 tới tháng 1/1979, Bắc Kinh đã gây ra 4.563 vụ xâm lấn biên giới, gây hận thù dân tộc (1974: 179 vụ; 1975: 294 vụ; 1976: 812 vụ; 1977: 873 vụ; 1978: 2175 vụ; 1979: trước ngày 17/2/1979, 230 vụ). Tài liệu của Huỳnh Văn Trình cho biết: năm 1974 – 179 vụ, trong đó có vụ rất nghiêm trọng xảy ra vào 01/6/1974 (500 lính và dân binh Trung Quốc bao vây chiến sĩ biên phòng Việt Nam suốt 24 giờ ở Phia Un (Trà Lĩnh – Cao Bằng) và vào 16/6/1974 (gây ẩu đả ở khu vực Phai Luông – Sóc Giang, Cao Bằng; dùng hàng ngàn người gây nên trận “mưa đá” làm hàng chục dân Việt Nam bị trọng thương); năm 1975 – 294 vụ (gấp đôi năm 1974); năm 1976 – 812 vụ (gấp 4 lần năm 1974), trong đó 10 lần dùng lực lượng từ 1000 đến 3000 người bao vây chiến sĩ biên phòng, 3 lần cướp giật vũ khí, gây xô xát … làm cho số bị thương của Việt Nam lên đến 300 người; năm 1977 – 873 vụ, trong đó 25 lần dùng lực lượng đông người với hung khí (búa, xà beng, súng cao su bắn tên sắt) và hành vi côn đồ gây thương tích cho 413 người Việt Nam, bắt đi 17 người (trong đó 15 chiến sĩ biên phòng); năm 1978 – 2175 vụ (gần gấp 3 lần năm 1977) với 24 vụ nổ súng làm chết và bị thương 72 dân và chiến sĩ biên phòng Việt Nam.[4]
Tài liệu của Trung Quốc cho rằng “từ năm 1975 đến 16 tháng 2 năm 1979, trước ngày Trung Quốc buộc phải thực hiện hành động đánh trả để tự vệ, nhà cầm quyền Việt Nam liên tục gây ra khiêu khích vũ trang và liên tiếp gây ra các sự kiện xâm lược với số vụ ngày càng tăng. Số liệu các sự việc đó như sau: năm 1975: 439 vụ; năm 1976: 986 vụ; năm 1977: 572 vụ; năm 1978: 1108 vụ; năm 1979 (tính đến ngày 16 tháng 2 năm 1979): 129 vụ.”
Khó có thể đánh giá con số nào là chính xác và sự thực ai là bên gây hấn, nước nhỏ hay nước lớn, do các tài liệu chính thức chưa được giải mật. Song một điều hiển nhiên chúng chứng minh tình hình biên giới đã căng thẳng gấp nhiều lần so với trước và đã xảy ra trước khi quân tình nguyện Việt Nam tiến sang Campuchia.
Vấn đề người Hoa cũng bị cuốn hút vào trò chơi chính trị, gây bất ổn trên biên giới. Nguyên nhân chính là sự khác biệt trong chính sách của hai nước đối với bộ phân dân cư này. Trung Quốc coi đó là Hoa kiều ở Việt Nam còn Việt Nam thì có chính sách coi đó là người Việt gốc Hoa, một bộ phận trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Do những nguyên nhân lịch sử đến năm 1954, Hoa kiều cư trú tại Việt Nam ước chừng hơn 1,5 triệu người, trong đó khoảng 80% Hoa kiều tập trung ở miền Nam Việt Nam. Chỉ tính số người Hoa sinh sống ở Sài Gòn và Chợ Lớn đã chiếm khoảng trên 50% tổng số Hoa kiều ở Việt Nam. Hoa kiều ở miền Bắc có khoảng 300 ngàn người, phần lớn tập trung ở tỉnh Quảng Ninh 180 ngàn người, thành phố Hải Phòng hơn 50 ngàn người, và Hà Nội.
Năm 1955, Đảng Lao động Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc đã thỏa thuận là người Hoa ở miền Bắc là do Đảng Lao động Việt Nam lãnh đạo và dần dần chuyển thành công dân Việt Nam. Trong vòng 20 năm (1955-1975), người Hoa ở miền Bắc được hưởng quyền lợi và làm nghĩa vụ như công dân Việt Nam. Còn người Hoa ở miền Nam, từ năm 1956 dưới chính quyền Ngô Đình Diệm, đã vào quốc tịch Việt Nam để được hưởng nhiều điều kiện dễ dàng trong việc làm ăn sinh sống.
Sau khi giải phóng hoàn toàn miền Nam, Chính phủ và nhân dân Việt Nam tiếp tục nghiêm chỉnh thực hiện sự thỏa thuận năm 1955 giữa hai đảng về người Hoa ở miền Bắc, đồng thời tôn trọng thực tế lịch sử về người Việt gốc Hoa ở miền Nam, coi người Hoa ở cả hai miền là một bộ phận trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Người Việt gốc Hoa ở Việt Nam đã sát cánh cùng các dân tộc anh em khác và có nhiều đóng góp trong cuộc đấu tranh chống Mỹ và xây dựng CNXH ở miền Bắc.
Việt Nam đề xuất đàm phán vì vấn đề người Hoa rất dễ giải quyết trên tinh thần những người đã vào quốc tịch Việt Nam, đã là một bộ phận người Việt gốc Hoa, được hưởng mọi quyền lợi và nghĩa vụ của công dân Việt Nam yên tâm ở lại, có một cuộc sống bình thường, không lo lắng, cùng với toàn thể cộng đồng dân tộc Việt Nam chung tay xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và cuộc sống hạnh phúc, phồn vinh cho chính họ. Những người đã vào quốc tịch Việt Nam và những người chưa vào quốc tịch Việt Nam nay muốn rời Việt Nam sẽ được cho phép bởi chính quyền Việt Nam sau khi họ thực hiện đầy đủ các thủ tục xuất cảnh và được phép mang theo đầy đủ tài sản. Những người không phải quốc tịch Việt Nam mong muốn ở lại Việt Nam sẽ được đối xử như những người nước ngoài định cư khác.[5]
Ngược lại, phía Trung Quốc phủ nhận thực tế lịch sử về những người Việt gốc Hoa ờ miền nam Việt Nam đã vào quốc tịch Nam Việt Nam, cho rằng chính sách của chính quyền Ngô Đình Diệm bắt người Hoa vào quốc tịch Việt Nam là phản động. Bắc Kinh cho rằng vấn đề người Hoa ở miền Nam Việt Nam, chiếm 90% người Hoa ở Việt Nam phải được giải quyết bằng tham vấn hai bên sau khi Việt Nam thống nhất.[6] Trong khi hai bên chưa thống nhất thì người Việt gốc Hoa tại Nam Việt Nam dù đã vào quốc tịch Việt Nam từ 1956 vẫn được coi là kiều dân Trung Quốc. Bắc Kinh đã triển khai lập các tổ chức “Hoa kiều hòa bình liên hiệp hội”, “Hoa kiều tiến bộ”, “Hoa kiều cứu vong hội”, “Đoàn thanh niên chủ nghĩa Mac – Lenin”, “Hội học sinh Hoa kiều yêu nước”, “Mặt trận thống nhất Hoa kiều”..,v.v.. mà không có sự đồng ý của Hà Nội.[7] Các tổ chức này tuyên truyền, nhập khẩu cách mạng văn hóa. Sau năm 1972, khi Trung-Mỹ bắt tay, người Việt Nam cảm thấy cuộc chiến đấu chống Mỹ của mình bị phản bội nên bắt đầu nhìn nhận những tổ chức này dưới con mắt ngờ vực. Các tổ chức này đã có những hoạt động chống lại các chính sách của chính quyền, chống lệnh đăng ký nghĩa vụ quân sự, chống việc đi xây dựng vùng kinh tế mới, kích động tâm lý huyết thống trong người Việt gốc Hoa, khơi lên phong trào đòi trở lại quốc tịch Trung Quốc. Sau năm 1975, một số chi bộ Hoa Kiều ở Sài Gòn Chợ Lớn còn có vũ trang.[8] Để đối phó với sức ép chiến tranh biên giới Tây Nam, Việt Nam siết chặt chính sách một quốc tịch. Các hoạt động in tiền giả, đầu cơ tích trữ, nâng giá hàng trong một bộ phận tư sản mại bản, phá kế hoạch ổn định và phát triển kinh tế của các cơ quan Nhà nước ở miền Nam là nguyên nhân Việt Nam tiến hành cuộc “cải tạo tư sản công thương nghiệp” năm 1978. Nó tác động đến hàng loạt các nhà tư sản trong đó có nhiều người Việt gốc Hoa.[9] Truyền thông Trung Quốc vu cáo Việt Nam “xua đuổi, bài xích, khủng bố người Hoa”, gây ra vấn đề “nạn kiều” cưỡng bức người Hoa ở Việt Nam ồ ạt di cư đi Trung Quốc. Hai tàu của Trung Quốc có tên Minh Hoa (Minghua) và Trường Lý (Changli) không có phép của Việt Nam đã được đưa ngay vào cảng Hải Phòng và thành phố Hồ Chí Minh để đón người nhập cư và gây áp lực với chính quyền sở tại. Việt Nam cáo buộc Trung Quốc kích động quần chúng người Việt gốc Hoa đang làm ăn yên ổn ở Việt Nam một tâm trạng hoang mang, lo sợ chiến tranh sắp nổ ra, một tâm lý nghi ngờ, thậm chí thù ghét người Việt Nam, khiến họ ồ ạt kéo đi Trung Quốc. Đây là động thái gây xáo trộn về chính trị, xã hội, kinh tế ở Việt Nam, như họ đã làm ở một số nước Đông Nam châu Á và Nam Á trước kia, đồng thời kích động dư luận Trung Quốc, chuẩn bị sẵn sàng “đạo quân thứ năm” cho việc tiến hành xâm lược Việt Nam trong bước sau.[10] Tại biên giới phía Bắc, Trung Quốc tổ chức cho người Việt gốc Hoa vượt biên giới trái phép rồi lại chặn họ lại, gây ra ùn tắc ở biên giới Việt – Trung để dễ bề kích động họ chống lại và hành hung những nhà chức trách Việt Nam ở địa phương. Chỉ riêng trong ngày 28/7/1978, đã có tới 4.000 người bị mắc kẹt tại biên giới do công an Trung Quốc không muốn đón “những khúc ruột ngoài ngàn dặm” khi họ không có giấy nhập cảnh của Đại sứ quán Trung Quốc ở Hà Nội, còn công an Việt Nam chỉ đón nhận những người có quốc tịch Việt Nam. Đáng chú ý, trong khi phản ứng với chính sách một quốc tịch của Việt Nam thì Trung Quốc lại có một bước đi trái ngược và dứt khoát liên quan đến Hoa kiều – “đội quân thứ năm” của Trung Quốc ở Đông Nam Á và ở nước ngoài. Hoa kiều được khuyến khích nhập quốc tịch nước sở tại. Trung Quốc thôi nhấn mạnh quan hệ huyết thống giữa cộng đồng người Hoa ở các nước này với lục địa; người Hoa đang sinh sống ở nước ngoài không còn đương nhiên được coi là công dân Trung Quốc; dỡ bỏ các đài phát thanh dành riêng cho cộng đồng người Hoa[11]…. Những chính sách nêu trên nhằm dẹp bớt những nghi kỵ của các nước Đông Nam Á đối với Trung Quốc tồn tại lâu đời nay, tranh thủ sự ủng hộ của các nước này khi Trung Quốc tấn công Việt Nam, chống “tiểu bá” Việt Nam và “đại bá” Liên Xô.[12] Trung Quốc cũng có chính sách phân biệt giữa Việt Nam và Campuchia. Bắc Kinh đã không nói gì ngay cả khi Pol Pot thanh lọc người gốc Hoa. Khi cuộc diệt chủng khởi sự, nhiều người gốc Hoa và dân Campuchia đã chạy trốn sang Việt Nam. Dưới thời Polpot, đồng minh của Trung Quốc, thống trị Campuchia, có tới hơn 200 ngàn Hoa kiều bị Khmer Đỏ bức hại. Song chính quyền Trung Quốc đã không lên án hành động diệt chủng này. Trung Quốc lại lấy việc cứu vớt Khmer Đỏ diệt chủng làm lý do để tấn công Việt Nam.
Trung Quốc cáo buộc “đến cuối năm 1978, đã có 200 ngàn Hoa kiều và công dân Việt Nam gốc Hoa bị xua đuổi về Trung Quốc, đã buộc phía Trung Quốc phải gánh chịu những hậu quả nặng nề về các mặt kinh tế và xã hội vv … Các cuộc đàm phán cấp Thứ trưởng Ngoại giao về vấn đề người Hoa bế tắc. Ngày 8/8/1978, Bắc Kinh tố cáo Hà Nội đang vi phạm Thỏa thuận 1955 giữa hai chính phủ về tình trạng Hoa Kiều.
Cần kinh phí hỗ trợ Hoa kiều hồi hương là lý do để lần đầu tiên, tháng 5 năm 1978, Trung Quốc tuyên bố cắt một phần viện trợ (72 trong số 111 công trình viện trợ) không hoàn lại đã ký cho Việt Nam và rút bớt chuyên gia về nước. Ngày 29/6/1978 Việt Nam gia nhập Hội đồng Tương trợ Kinh tế. Tháng 7, Trung Quốc tuyên bố cắt hết viện trợ và rút hết chuyên gia đang làm việc tại Việt Nam về nước.
Người Hoa ở Việt Nam ít nhất cũng trên 20 năm, được tạo điều kiện gia nhập quốc tịch Việt Nam, có nghĩa vụ tôn trọng pháp luật sở tại. Chính tài liệu của Trung Quốc cũng thừa nhận có bộ phận người Việt gốc Hoa nhưng họ lại đặt yếu tố Hoa Kiều lên cao hơn, đòi hỏi có quyền chi phối quyền lợi của những người này bỏ qua chính quyền địa phương. Bắc Kinh cố tình tạo hình ảnh Hà Nội bài Hoa, vong ơn bội nghĩa trước những giúp đỡ và hy sinh của Trung Quốc. Ngược lại người Việt Nam tức giận vì công việc nội bộ bị can thiệp và sự “phản bội đồng chí” của Trung Quốc khi bắt tay với Mỹ. Việc gần 20 vạn người Việt gốc Hoa đột nhiên bỏ ruộng đồng, nhà máy đi Trung Quốc đã đưa đến cho Việt Nam những khó khăn gấp bội trong cùng thời điểm phải đối phó với những thiệt hại nghiêm trọng do những trận bão, lụt nặng nề nhất ở Việt Nam trong hàng trăm năm qua gây ra cũng như sự cắt đứt viện trợ từ Trung Quốc. Sau chiến tranh biên giới phía Bắc, rất nhiều tù binh bị Việt Nam bắt giữ là người Hoa ở Việt Nam đi Trung Quốc. Họ đã được chọn lựa đưa vào những “sư đoàn sơn cước” chuyên đánh rừng núi, thọc sâu vào hậu phương, hoặc những đơn vị đi trước mở đường, hoặc những đơn vị thám báo, dẫn đường, bắt cóc, ám sát, phá hoại cầu cống, kho tàng của Việt Nam vì đã làm ăn sinh sống lâu đời ở Việt Nam, thông thạo địa hình, phong tục, tập quán, có nhiều cơ sở quen thuộc cũ, có nhiều khả năng nắm được nhiều tin tức, tình hình.
Các nghiên cứu quốc tế khác hướng sự chú ý tới các mục tiêu khác không được viết rõ trong Tuyên bố chiến tranh của Trung Quốc hơn là mục tiêu biên giới lãnh thổ.
Theo Robert D. Mcfaddenm đó là các nguyên nhân sau:
- Việc Cộng sản Việt Nam nghiêng về phía Liên Xô làm tăng lo sợ cho Trung Quốc.
- Việt Nam đánh tư sản mại bản xua đuổi 1,2 triệu người Việt gốc Hoa đã khiến Cộng sản Trung Hoa có lý lẽ tấn công.
- Cuộc tranh cãi chủ quyền quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
- Cộng sản Việt Nam xâm lăng Campuchia, một nước đàn em do Cộng sản Trung Hoa đỡ đầu.
Như vậy, ngoài mục tiêu biên giới, chúng ta có thể xem xét đến các mục tiêu chính trị, quân sự, kinh tế của cuộc chiến biên giới 1979 mà Trung Quốc hướng tới.
Mục tiêu chính trị là buộc Việt Nam phải rút quân khỏi Campuchia, cứu được chính quyền Pol Pot và cải thiện được quan hệ với Mỹ, tạo điều kiện xuất hiện như một cường quốc thế giới, khống chế tại Châu Á và chứng minh Liên Xô không phải là một đồng minh đáng tin cậy.[14]
Bắc Kinh rõ ràng muốn dạy cho Việt Nam một bài học vì đã xâm lược Campuchia, đồng minh của Trung Quốc. Hai ngày sau khi quân tình nguyện Việt Nam vào Phnom Penh, Nhân Dân Nhật báo đăng xã luận cảnh cáo rằng “sự chiếm đoạt Phnom Penh bởi Việt Nam không có nghĩa là kết thúc mà đúng ra là sự khởi đầu chiến tranh”.[15] “Bắc Kinh đã nhìn biến cố đó (Việt Nam đưa quân vào Campuchia) không phải với tư cách giải phóng nhân dân Campuchia khỏi nạn diệt chủng, mà nhìn nó như việc hoàn tất sự theo đuổi của Việt Nam từ năm 1930 về một Liên bang Đông Dương dưới sự thống trị của Hà Nội”.[16] Nhân Dân Nhật báo liên tục đưa ra các bài xã luận: “Hà Nội đang theo đuổi một chính sách bành trướng khu vực, thiết lập một Liên bang Ðông Dương, dưới sự che chở hay đồng lõa của đế quốc xã hội chủ nghĩa Nga Xô”.[17]
Tại họp báo trong chuyến thăm Bangkok tháng 11/1978, Phó Thủ tướng Đặng Tiểu Bình nói rằng Trung Quốc “sẽ quyết định phương cách đối phó với chính sách bá quyền khu vực của Việt Nam, tùy thuộc vào việc Hà Nội thực hiện đến đâu cuộc xâm lược của nó đối với Campuchia”.[18] Tại Washington, ngày 31/01/1979, Đặng cảnh báo một cuộc tấn công của Trung Quốc vào Việt Nam có thể xảy ra do Việt Nam chiếm đóng Campuchia và những căng thẳng trên biên giới Việt-Trung. Trên đường về qua Tokyo, Đặng tuyên bố cần phải dạy Việt Nam một bài học.[19] Herbert S. Yee bình luận “Một trong các mục tiêu chính của Trung Quốc rõ ràng là để rút bộ đội Việt Nam ra khỏi Campuchia và Lào và phân tán mỏng sức mạnh quân sự của Việt Nam, từ đó làm suy yếu năng lực của Việt Nam dồn cho sự bành trướng hơn nữa tại Đông Dương. Phía Trung Quốc hy vọng rằng “với chiến trường bị căng mỏng quá độ, các khu vực hậu phương phòng vệ yếu kém, và việc tiếp liệu của họ bị thiếu thốn”, Việt Nam sẽ bị “sa vào trong một vũng lầy” tại Campuchia. Mục tiêu này của Trung Quốc được xác nhận một cách gián tiếp bởi áp lực tăng cường đồng thời từ các lực lượng du kích lãnh đạo bởi Pol Pot đánh vào bộ đội Việt Nam tại Campuchia khi biên giới phía bắc của Việt Nam chịu cuộc tấn công quy mô của Trung Quốc. Sự vắng bóng mục tiêu được che dấu này của Trung Quốc trong bản tuyên bố “hoàn kích tự vệ” của Bắc Kinh hiển nhiên không phải là sự sơ sót mà là có cân nhấc và tính toán. Nó có thể chủ ý dành cho Việt Nam một cơ hội để triệt thoái bộ đội ra khỏi Campuchia mà không bị mất mặt; và không cung cấp cho Moskva một duyên cớ tương tự nào khác (bằng việc tố cáo cuộc xâm lăng của Trung Quốc vào lãnh thổ Việt Nam) để can thiệp nhân danh Việt Nam.[20] Tuy nhiên, nếu so sánh mục tiêu biên giới và mục tiêu buộc Việt Nam rút quân khỏi Campuchia thì mục tiêu biên giới vẫn là chủ đạo khi kế hoạch đánh Việt Nam đã được chuẩn bị từ trước khi bộ đội Việt Nam vượt biên giới theo lời kêu gọi của Chính phủ cách mạng Campuchia để cứu những người anh em khỏi nạn diệt chủng.
Dạy Việt Nam một bài học, theo Trung Quốc, còn do Việt Nam xích lại gần Liên Xô, kẻ thù số một của Trung Quốc, hơn cả Mỹ. Nếu Việt Nam coi Thông cáo Thượng Hải năm 1972 là sự quay lưng của người anh lớn với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của mình,[21] thì Trung Quốc coi Hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa Việt Nam và Liên Xô ký ngày 03/11/1978 là sự phản bội của đứa em với vai trò lãnh đạo cách mạng thế giới của mình, là sự bắt tay giữa đại bá Xô-viết và tiểu bá phương Nam. Điều 6 của Hiệp ước Việt – Xô quy định: “Trong trường hợp một bên bị tấn công hay bị đe dọa tấn công, hai bên ký kết Hiệp ước sẽ ngay lập tức tham khảo ý kiến lẫn nhau với quan điểm nhằm loại bỏ mối đe dọa đó, và sẽ áp dụng biện pháp thích hợp và hiệu quả để bảo đảm hòa bình và an ninh của hai nước”. Hiệp ước này làm cả Mỹ và Trung Quốc không hài lòng vì lo sợ Liên Xô mở rộng ảnh hưởng xuống Đông Nam Á. Khả năng Liên Xô sử dụng căn cứ Cam Ranh để kiềm chế Mỹ và Trung Quốc cũng gây lo ngại. Thông cáo báo chí chung Trung-Mỹ ngày 01/01/1979 có đoạn: “Không bên nào tìm kiếm bá quyền tại châu Á-Thái Bình dương hoặc bất kỳ khu vực nào của thế giới và mỗi bên sẽ chống lại những cố gắng của bất cứ nước nào hay nhóm nước nào nhằm xác lập bá quyền”.[22]
Ngày 05/11/1978, khi thăm các nước ASEAN, Đặng Tiểu Bình tuyên bố Hiệp ước Việt – Xô là mối de dọa đối với các nước ASEAN và kêu gọi thành lập Mặt trận chống Liên Xô và Việt Nam, bao gồm Trung Quốc và khối ASEAN. Đặng Tiểu Bình cũng công khai ý định dùng biện pháp quân sự đối phó với Việt Nam. Một trong những mục tiêu đối ngoại của Trung Quốc lúc đó là hạ thấp vai trò của Liên Xô, khẳng định trung tâm nước lớn, các nước nhỏ phải thần phục. Đặng Tiểu Bình lý giải một trong ba lý do lớn để “trận này nhất định phải đánh” là: “Hành động này không đơn thuần là chỉ để bảo vệ biên giới, nó liên quan đến tình hình Đông Dương, cục diện Đông Nam Á, nói rộng hơn là liên quan đến cục diện thế giới” và “nếu chúng ta không đánh trả thì Việt Nam sẽ ngày càng trở nên kiêu ngạo, thúc đẩy phương Bắc lấn tới” trong khi “Liên Xô đã có mặt ở Afghanistan, Iran và tiếp đến là ở Việt Nam, gia tăng mối đe dọa đối với chúng ta từ phía Đông, do vậy, chúng ta cần phải đánh Việt Nam”[23]. Đánh Việt Nam cũng là nước cờ của Bắc Kinh giảm thiểu khả năng bị kẹp giữa hai gọng kìm ảnh hưởng của Liên Xô, một từ biên giới Xô – Trung, hai từ biên giới Việt – Trung thông qua vai trò của Việt Nam, nước mới gia nhập câu lạc bộ Hội đồng tương trợ kinh tế (COMECOM) do Liên Xô đứng đầu. Bruce Elleman nhận định “một trong những mục tiêu ngoại giao quan trọng nhất đằng sau cuộc tấn công của Trung Quốc là nhằm phơi bày rằng, những đảm bảo hỗ trợ quân sự của Liên Xô với Việt Nam là lừa gạt. Phơi bày nó ra ánh sáng, chính sách của Bắc Kinh thực tế là một thành công ngoại giao, kể từ khi Moskva không tích cực can thiệp, vì vậy cũng cho thấy những hạn chế thực tế của hiệp ước quân sự Xô – Việt … Trung Quốc đã giành được một thắng lợi chiến lược bằng cách giảm thiểu khả năng tương lai của một cuộc chiến hai mặt trận chống lại Liên Xô và Việt Nam.[24] Đánh Việt Nam là nước cờ giải tỏa mối lo sợ vĩnh cửu về một sự bao vây chiến lược với Trung Quốc.
Đánh Việt Nam, Trung Quốc sẽ khẳng định được với Mỹ không sợ Liên Xô, sẵn sàng đoạn tuyện với hệ thống XHCN, hợp tác chặt chẽ với Mỹ chống Liên Xô. Đánh Việt Nam là một món quà cho Mỹ, mong muốn phát triển quan hệ với Mỹ.[25]
Mục tiêu quân sự: tiêu diệt một bộ phận chính quy của Việt Nam, kéo các sư đoàn chủ lực của Việt Nam từ Campuchia về vào các “cối xay thịt” để trừng phạt. Cuộc tấn công cũng để làm sáng tỏ nhu cầu hiện đại hóa quân đội Trung Quốc.
Mục tiêu kinh tế: làm kiệt quệ kinh tế Việt Nam, buộc phải phụ thuộc vào Trung Quốc.
Mục tiêu đối nội: Tấn công Việt Nam để chuyển hướng chú ý của dư luận khỏi tình trạng đấu đá nội bộ Trung Quốc, tạo cơ hội thúc đẩy 4 hiện đại hóa trong đó hiện đại hóa quân đội là quan trọng, Đối với cá nhân ông Đặng Tiểu Bình, đánh Việt Nam là cách để củng cố quyền lực mới giành lại trong nội bộ Trung Quốc. Bề ngoài đây là cuộc chiến tranh giữa hai nước láng giềng nhưng bên trong nó còn phản ánh cuộc đấu tranh nội bộ, tranh chấp phức tạp giữa lợi ích quốc gia và ý thức hệ. Theo Thẩm Thính Tuyết,[26] Đặng Tiểu Bình đưa ra ba nguyên nhân đánh Việt Nam: Một là, để xây dựng một Mặt trận quốc tế thống nhất chống Liên Xô. Hai là, để xây dựng hiện đại hóa Trung Quốc. Ba là, để thử nghiệm sức chiến đấu của Giải phóng quân vốn đã rệu rã sau 10 năm trải qua Đại cách mạng văn hóa (1966-1976).
Tổng kết các nhận định trái chiều trên có thể thấy về thực chất, đây là cuộc chiến nhằm hợp pháp hóa tranh chấp lãnh thổ biên giới, và nhằm giải quyết mâu thuẫn về lợi ích quốc gia và chiến lược quốc tế của Bắc Kinh.
Nếu so sánh xung đột biên giới Việt-Trung 1979 với chiến tranh biên giới Xô – Trung 1969 ta thấy có những điểm khá tương đồng. Xung đột tháng 3 năm 1969 là cần thiết với Chủ tịch Mao Trạch Đông khi ông tỏ rõ ý định đoạn tuyện hẳn với Liên Xô, tìm cách ve vãn Mỹ và đồng minh, củng cố ưu thế lãnh đạo trước Đại hội IX Đảng Cộng sản Trung Quốc vào tháng 4 năm 1969, đồng thời sử dụng xung đột để tác động tới Đại Cách mạng Văn hóa trong nội địa. Kết quả cuối cùng của biến cố 1969 chính là sự bắt tay Mỹ-Trung tại Thượng Hải 3 năm sau. Cuộc chiến biên giới Việt – Trung cho Đặng Tiểu Bình cơ hội thu hút đầu tư Hoa Kỳ, hiện đại hóa quân đội và củng cố quyền lực trong nước. Kết quả sau chiến tranh là sự hợp tác chặt chẽ hơn nữa giữa Mỹ và Trung Quốc để ngăn chặn Liên Xô. Trong cả hai sự kiện này Trung Quốc đều tuyên truyền chỉ có tính “tự vệ” song thực tế là bên chủ động nổ súng tấn công trước, kết thúc trong thời gian ngắn đủ để có được kết quả chính trị. Trong chiến tranh biên giới Việt – Trung, mục tiêu quan trọng nhất là hợp thức hóa các khu vực tranh chấp biên giới và nếu có thời cơ mới tiến sâu. Điều này lý giải, Trung Quốc chủ động rút quân ngày 5/3/1979 trước khi Việt Nam điều đủ lực lượng tinh nhuệ lên biên giới và tổng động viên cho chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chống xâm lược.
Mục tiêu của Việt Nam
Về phía Việt Nam, mục tiêu cao nhất là bảo vệ được chủ quyền lãnh thổ, tính độc lập trong đường lối đối ngoại. Mục tiêu này thể hiện rõ trong Tuyên bố đáp lại của Chính phủ CHXHCN Việt Nam ngày 18/2/1979: “Trung Quốc đã mở ra một cuộc chiến tranh xâm lược trên suốt chiều dài biên giới của nước ta. Sáng sớm ngày 17 tháng 2 năm 1979, những kẻ cầm quyền Trung Quốc đã động viên một lực lượng vũ trang lớn lao gồm cả lính bộ binh, pháo binh và lực lượng xe bọc sắt mở ra một cuộc chiến xâm lược vào lãnh thổ nước ta dọc theo biên giới từ Phong Thổ và Lai Châu đến thành phố Móng Cái, Quảng Ninh. Chúng dùng pháo binh tầm xa bắn bừa bãi vào các thành phố, thị trấn, các khu dân cư và làng xã đông đúc nhằm mở đường cho các đơn vị xe bọc sắt và bộ binh để mở những cuộc tấn công sâu vào lãnh thổ nước ta. …Cuộc chiến đấu chống quân xâm lược Trung Quốc tại biên giới phía Bắc của Tổ quốc đã bắt đầu. Các lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc các vùng biên giới đang gìn giữ truyền thống anh hùng quyết tâm chiến đấu đến thắng lợi cuối cùng, kiên quyết đánh trả bọn xâm lược Trung Quốc từ ngay trận đánh đầu tiên trên tuyến đầu của tổ quốc”.
Các mục tiêu chiến lược của Việt Nam, trong khi it được nghiên cứu và phát biểu hơn, có thể gồm:
- Bảo vệ biên giới lãnh thổ phía Bắc.
- Tiếp tục giúp đỡ Campuchia truy quét Pol Pot và bảo vệ biên giới Tây Nam.
- Tranh thủ sự ủng hộ của dư luận thế giới chống sự xâm lược của Trung Quốc.
- Tranh thủ sự giúp đỡ của Liên Xô theo các nghĩa vụ cam kết của Hiệp ước Việt-Xô 1978 ở mức có thể (các cố vấn, tái tiếp tế các vũ khí then chốt, và sự hiện diện của hải quân) mà không làm khó cho Liên Xô về khả năng can thiệp quân sự trực tiếp gây ra cuộc chiến tranh quy mô lớn.
- Đánh bại về mặt chiến thuật lực lượng của Trung Quốc mà vẫn bảo toàn được các lực lượng chính quy, không phải rút quân từ Campuchia hay phải tổng động viên sâu rộng, gây tốn kém.[27]
Phía Việt Nam cho rằng đây là một cuộc xâm lược, sử dụng lực lượng lớn quân vũ trang chính quy, vào sâu lãnh thổ Việt Nam hàng chục km. Cuộc chiến đấu của Việt Nam thực sự là cuộc chiến tranh vệ quốc, thực hiện quyền tự vệ chính đáng theo điều 51 Hiến chương Liên hợp quốc. Đó cũng là suy nghĩ, đánh giá chung của đa số các bình luận quốc tế.
Nhà phân tích quân sự người Anh – Thiếu Tướng Shelford Bidwell, chỉ ra “mô hình dạy một bài học” của Trung Quốc lần đầu tiên áp dụng trong cuộc chiến tranh Trung Quốc – Ấn Độ 33 ngày năm 1962. “Cuộc động binh này được thiết kế bề ngoài để dạy cho Ấn Độ một bài học cho sự ủng hộ được thấy rõ của Ấn Độ dành cho Dalai Lama và cuộc kháng chiến của Tây Tạng. Cuộc tranh chấp biên giới đã là một duyên cớ thuận tiện được khai thác bởi phía Trung Quốc để phóng ra một cuộc xâm lăng đột ngột và chóng vánh (đã làm cho Ấn Độ hoàn toàn bị bất ngờ), gây ra một sự thất trận cục bộ đáng xấu hổ và sau đó thực hiện một màn triệt thoái đơn phương hào hiệp được sắp đặt để nhấn mạnh đến sự bất lực của quốc gia nạn nhân. Cũng với cùng “mô hình dạy một bài học” này mà phía Trung Quốc đã quyết định làm lại đối với Việt Nam. Bất hạnh thay hay nói cách khác, họ chung cuộc đã học được vài bài học quân sự cho chính họ — bài học đầu tiên trong đó là nhu cầu hiện đại hóa quân đội của họ”.[29] Gerald Segal kết luận “những tính toán chính trị sai lầm đã cho thấy rằng các lãnh tụ Trung Quốc đã đặt chính họ vào thế khó khăn khi xây dựng một chiến lược trừng phạt Việt Nam mà không bao giờ có cơ hội thành công”.[30]
Hai lý do chính liên quan đến biên giới mà Trung Quốc đưa ra trong thông cáo chiến tranh (vi phạm biên giới và bài xích người Hoa) để biện minh cho hành động phản kích tự vệ đều khó thuyết phục.
Giữa các nước láng giềng có biên giới chung thì những tranh cãi về biên giới lãnh thổ là khó tránh khỏi. Các tranh chấp biên giới này, theo luật quốc tế, hoàn toàn có thể giải quyết hòa bình thông qua thương lượng đàm phán mà không cần tới sử dụng vũ lực, sử dụng chiến tranh. Trung Quốc đã đưa quân vượt biên giới đánh sang đất Việt Nam thì không thể gọi là “phản kích tự vệ”. Sự kiện này phải được xem xét theo đúng định nghĩa “xâm lược” trong luật quốc tế.
Ý đồ đã được tuyên bố của Trung Quốc là “dạy cho Việt Nam bài học” đã biến mục tiêu hàng đầu của cuộc chiến tranh thành một “hành động nước lớn tự cho mình quyền bắt nạt nước bé”, một “hành động trả thù vô cớ”, một điều đi ngược với nguyên tắc bình đẳng chủ quyền của luật quốc tế, vi phạm nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế cũng như 5 nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình mà Trung Quốc vẫn được coi là một bên sáng lập.
(Còn nữa)
———–
[1]Statement by Xinhua News Agency upon Authorization of the Government of PRC on February 17, 1979, http://digitalarchive.wilsoncenter.org/document/118480
[2] Sự thật quan hệ Việt Nam-Trung Quốc trong 30 năm qua, NXB Sự Thật, tháng 10 năm 1979, phần 4.
[3]Nguyễn Ngọc Minh, “Bọn bành trướng và bá quyền nước lớn Trung Quốc phạm tội ác xâm lược, tội ác chống hòa bình và an ninh quốc tế;” UBKHXHVN, Phê phán chủ nghĩa bành trướng và bá quyền nước lớn của giới cầm quyền phản động Bắc Kinh (Hà Nội: KHXH, 1979), tr. 126-127, 130-131
[4]Huỳnh Văn Trình, Sự hình thành đường biên giới Việt Nam – Trung Quốc, 1979, Uỷ ban Biên giới quốc gia.
[5] Statement by the Ministry of Foreign Affairs of the Socialist Republic of Vietnam on question of Hoa people in Vietnam on June 6, 1978, http://digitalarchive.wilsoncenter.org/document/118403
[6] Statement of the Ministry of Foreign Affairs of the People’s Republic of China on the expulsion of Chinese residents by Vietnam on June 12. 1978, http://digitalarchive.wilsoncenter.org/document/118404
[7] Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua, NXB Sự Thật, Hà Nội tháng 10 năm 1979, phần 4
[8]Huy Đức, Bên thắng cuộc, Quyển I – Giải phóng, chương V Nạn Kiều, tr. 67
[9] King C. Chen, China’s War with Vietnam, 1979: Issues, Decisions, and Implications, Hoover Press, 1987, pp. 51-53 (King C. Chen, China’s War with Vietnam)
[10]Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua, phần 4.
Statement by the Ministry of Foreign Affairs of the Socialist Republic of Vietnam on question of Hoa people in Vietnam on June 6, 1978, http://digitalarchive.wilsoncenter.org/document/118403
[11] D.V. Mosiakov, Chính sách của Trung Quốc ở Đông Nam Á từ quá khứ đến hiện tại, Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á (Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam) dịch, NXB Chính trị quốc gia – Sự Thật, Hà Nội 2016, 358 trang.
[12]Herbert S. Yee, The Sino-Vietnamese Border War: China’s Motives, Calculations and Strategies, China Report, New Delhi, India), Volume 16, No 1, 1980, p. 15-32.
[13]Womack, Brantly. China and Vietnam: The Politics of Asymmetry, Cambridge University Press 2006, p. 192
Vogel, Ezra F. Deng Xiaoping and the Transformation of China, Harvard University Press, 2013. Chapter 9. The Soviet-Vietnamese Threat 1978– 1979, pp 266-276
[14]King C. Chen, China’s War Against Vietnam, A Military Analysis, The Journal of East Asian Affairs, Vol. 3, Issue 1, 1983, p. 233-263. Ngô Bắc dịch
[15]Renmin Ribao, 9 Tháng Một 1979 (được in lại trong tờ Beijing Review, 12 Tháng Một 1979).
[16]Ramesh Thakur: Coexistence to Conflict: Hanoi-Moscow-Pekings Relations and The China-Vietnam War, The Australian Outlook, Volume 34, No 1, 1980, p. 69.
[17]“Regional hegemonist policy,” “Indochina Federation,” They found a patron in Soviet social-imperialism;” Tighter to the apron strings of social-imperialism”. Renmin Ribao (Beijing), 4/9/1978; Peking Review No 36, 8/9/1978, pp. 23-4.
[18]Renmin Ribao, 9 November 1978.
[19]Beijing Review, 9 February 1979, p. 13; và New York Times, 1 February 1979.
[20]Herbert S. Yee,The Sino-Vietnamese Border War: China’s Motives, Calculations and Strategies, China Report, New Delhi, India Tom 16, Volume 1, 1980, p. 15-32.
[21]Nayan Chanda, Brother Enemy: The War After The War, A History of Indonchina after the fall of Saigon, San Diego – New York – London, Harcourt Brace Jovanovic Publishers 1986, p.134
[22] Joint Communiqué on the Establishment of Diplomatic Relations between the United States of America and the People’s Republic of China, January 1, 1979, http://13ndxw3o9yns2zjjq31htyst.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/uploads/2017/08/choices-china-US-china.pdf
[23]邓小平当年在中越边境作战情况报告会上的讲话, Junshi.xilu.com.
[24]Bruce Elleman, Sino-Soviet Relations and the February 1979 Sino-Vietnamese Conflict, 20 April 1996
[25]Theo Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, Trung Quốc đánh Việt Nam “Cũng một cách nữa là họ trả thù cho Pol Pot. Đồng thời lúc bấy giờ ông Đặng Tiểu Bình cũng muốn quan hệ với Mỹ cho nên đánh chúng tôi để cho Mỹ thấy rằng là giữa Trung Quốc và Việt Nam không phải là đồng minh, không phải là cùng nhau Cộng Sản nữa. Trung Quốc muốn cho Mỹ tin để phát triển quan hệ với Trung Quốc. Vì Trung Quốc lúc bấy giờ muốn phát triển quan hệ với Mỹ. Đánh Việt Nam là một món quà tặng cho Mỹ”.[26] Thẩm Thính Tuyết, diễn đàn “Điểm lại cuộc chiến tranh Việt-Trung 1979” tổ chức ngày 9/2/2015 ở Hồng Kông, trích lại từ Kiều Tỉnh, http://soha.vn/quoc-te/chien-tranh-bien-gioi-1979-tq-ra-lenh-gap-nguoi-vn-la-giet-het-20160216223609194.htm, 18/2/2016.
[27]John M. Peppers, Lieutenant Colonel, United States Army, Strategy In Regional Conflicy: A Case Study of China in the Third Indochina Conflict of 1979, Carlisle Barracks, Pennsylvania: U. S. Army War College, 2001, 48 p.
[28] Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua, phần 4.
[29]Colonel G. D. Bakshi, VSM, The Sino-Vietnam War – 1979: Case Studies in Limited Wars, Indian Defence Review, Volume 14 (2) July – September 2000.
[30] Gerald Segal, Defending China, New York, Oxford University Press 1985, p. 211-227
Tưởng niệm 41 năm cuộc chiến chống xâm lược Trung Quốc ở biên giới phía Bắc
CLB Lê Hiếu Đằng
16-2-2020
Hàng
năm, cứ đến dịp 17 tháng 2 là các Tổ chức Xã hội Dân sự độc lập như CLB
Lê Hiếu Đằng, No-U, nhóm Vì Môi Trường, Hội Anh em Dân chủ… thường đến
dâng hoa, thắp nhang tưởng niệm đồng bào, chiến sĩ Việt Nam hy sinh
trong cuộc chiến biên giới chống Trung Cộng xâm lược (1979-1989) tại
Tượng Đức Thánh Trần ở Bến Bạch Đằng, Sài Gòn và Tượng Vua Lý Thái Tổ ở
Hà Nội hoặc các nghĩa trang liệt sĩ chống Trung Cộng xâm lược.
Năm
nay do dịch bệnh COVID-19 nên mỗi người Việt Nam yêu nước sẽ tự tưởng
niệm Liệt sĩ chống Trung Cộng xâm lược (17/2/1979) theo cách riêng của
mình.
Các
thành viên CLB Lê Hiếu Đằng xin tri ân và thắp một nén nhang lòng tưởng
niệm cho tất cả đồng bào, chiến sĩ Việt Nam hy sinh trong cuộc chiến
chống Trung Cộng xâm lược Việt Nam khởi đầu ngày 17/2/1979!
Và xin có nhận định sau đây về việc ghi nhận cuộc chiến nói trên trong sách Lịch sử Việt Nam “chính thống”:
CUỘC CHIẾN ĐẪM MÁU, DAI DẲNG CHỐNG TRUNG CỘNG XÂM LƯỢC BỊ COI NHẸ HẾT SỨC TRONG SÁCH LỊCH SỬ VIỆT NAM “CHÍNH THỐNG”
“5h
sáng ngày 17-2-1979, 60 vạn quân Trung Quốc đồng loạt vượt biên giới
kéo dài 1.400km tiến vào sáu tỉnh của Việt Nam gồm Quảng Ninh, Lạng Sơn,
Cao Bằng, Hà Tuyên (Hà Giang, Tuyên Quang), Hoàng Liên Sơn (Lào Cai,
Yên Bái), Lai Châu, điều động 9 quân đoàn chủ lực, 2.559 khẩu pháo, 550
xe tăng và thiết giáp tiến sâu vào đất Lạng Sơn, Lào Cai (30Km), Lai
Châu (15km), Cao Bằng (50km).
Quân
dân Việt Nam kiên cường chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, loại khỏi vòng chiến
đấu 62.500 tên địch, tiêu diệt, đánh thiệt hại nặng 3 trung đoàn, 18
tiểu đoàn, bắn cháy và phá hủy 550 xe quân sự, trong đó có 280 xe tăng,
phá hủy 115 khẩu pháo và súng cối, thu nhiều vũ khí, bắt nhiều tên xâm
phạm lãnh thổ Việt Nam”. (Trang 355, Tập 14, Lịch sử Việt Nam, NXB KHXH)
Những
dòng trên là toàn bộ dung lượng viết về cuộc chiến chống Trung Quốc
Cộng sản xâm lược Việt Nam trong 10 năm ròng rã đẫm máu từ 17/2/1979 đến
tháng 12/1988 trong bộ sách “Lịch sử Việt Nam” của Viện Sử Học, Viện
Hàn lâm KHXH Việt Nam 15 tập, với 10.000 trang (khoảng 290.000 dòng).
Riêng giai đoạn năm 1930 đến năm 2000 đã có 6 tập (tập 9-15), với tổng
số khoảng 3.600 trang (ước khoảng 103.000 dòng).
1.-Tại sao lại gọi đó là cuộc chiến đẫm máu?
Bởi
nếu so với 58.000 lính Mỹ chết ở Việt Nam giai đoạn 1963-1973, thì số
lính Trung Quốc chết là 62.500 tên (1979-1989), nhiều hơn 4.500 tên.
Chưa kể ngoài cuộc chiến phía Bắc này, còn có cuộc chiến do Khmer Đỏ xâm
lược Tây Nam – Việt Nam 1977-1978 từ cùng một bộ não chỉ huy là Cộng
sản Bắc Kinh, và với trang bị hậu cần, vũ khí giết người Việt Nam cũng
“made in China” mà thiệt hại hai bên chưa thấy công bố (?)
Lịch
sử rồi sẽ phải công khai sự thật số lượng người Việt Nam thương vong
trong cuộc chiến chống Trung Quốc xâm lược ở cuối thế kỷ 20, nhưng theo
các nhà quan sát phương Tây ước tính, thì quân và dân Việt Nam hy sinh
trong hai cuộc chiến biên giới mà nguyên nhân là từ Trung Quốc Cộng sản
gây ra khoảng 100.000 người.
Còn
nhiều sự thật đã phơi bày ngay trước thanh thiên bạch nhật: 4 thị xã
của Việt Nam là Cao Bằng, Lạng Sơn, Lào Cai, Cam Đường bị quân Trung
Quốc phá hủy hoàn toàn; 6 tỉnh Biên Giới phía Bắc Việt Nam bị Trung Quốc
phá hủy triệt để hạ tầng giao thông gồm cả đường sắt, đường bộ, cầu
cống, điện, nước, và các cơ sở kinh tế kỹ thuật khác như trụ sở cơ quan,
nhà máy, xí nghiệp, hầm mỏ, nhà ga, trường học, bệnh viện, cửa hàng
bách hóa… nơi quân Trung Quốc đi qua.
Sử
“chính thống” không ghi, nhưng báo chí nói nhiều đến việc quân Trung
Quốc thảm sát dã man người Việt Nam ở Tổng Chúp (chúng giết 43 phụ nữ,
trẻ em rồi quăng xuống giếng ở Tổng Chúp, xã Hưng Đạo, TP Cao Bằng,
tháng 2/1979).
Chính
vì sách Lịch sử “chính thống” viết quá sơ lược, thậm chí không viết về
những sự kiện chiến tranh biên giới Việt – Trung trong những năm
1984-1989, nên rất nhiều người Việt Nam đến nay vẫn cho là cuộc chiến
tranh Trung Quốc xâm lược ngày 17/2/1979 chỉ kéo dài 1 tháng.
Nhiều
người Việt Nam trưởng thành vẫn tưởng nhầm cuộc chiến chống Trung Cộng
xâm lược khởi đầu 17/2/1979 đã chấm dứt khi Đặng Tiểu Bình tuyên bố hoàn
thành rút quân ngày 16/3/1979 do đã “dạy xong cho Việt Nam bài học”. Sự
thật là do Trung Quốc thất bại nặng nề về quân sự, do vũ khí lạc hậu,
kỹ thuật, chiến thuật lạc hậu, chỉ huy tác chiến kém, huấn luyện kém…
khi tiến đánh Việt Nam, Đặng đã chỉnh huấn như vậy khi họp Quân ủy Trung
Quốc.
Nhiều sự thật về những trận chiến sau đó, mà sách sử “chính thống” không nhắc đến, ví dụ sơ lược vài dòng như sau:
Từ
tháng 4/1984 – 12/1988, tại khu vực núi đá Vị Xuyên, Hà Giang là nơi
được các chiến sĩ tiền tiêu Việt Nam ở các sư đoàn F356, F313, F312,
F316… gọi là “lò vôi thế kỷ” (do hứng chịu hàng trăm ngàn quả đạn pháo
cả hai bên làm núi đá bị nung nóng thành vôi) đã đối đầu với nhiều sư
đoàn, quân đoàn, quân khu của Trung Quốc tấn công đánh chiếm, tái chiếm
giằng co từng mét đất biên cương, bộ đội Việt Nam đã tổn thất 4.000 (có
nguồn ghi 5.000) sĩ quan chiến sĩ hy sinh, hơn 9.000 bị thương, hàng
chục người bị bắt. Nhiều Liệt sĩ Việt Nam ở khu vực này đến nay không có
mộ, nhiều ngôi mộ vô danh vì cuộc chiến quá ác liệt nên thịt nát xương
tan lẫn lộn, khi quy tập đã không xác định được hình dạng, họ tên!
Chỉ riêng tại mặt trận Vị Xuyên, Hà Tuyên giai đoạn (1984-1989) quân Trung Quốc bị chết 15.178 tên, bị thương 17.757 tên.
Chỉ
trong một đêm 12/7/1984 mở màn chiến dịch tiến công tái chiếm các điểm
cao 685, 1509, 772, 1030 do quân Trung Quốc đánh chiếm từ tháng 4/1984,
riêng F356, quân đoàn 29, Quân khu II của Việt Nam đã thiệt hại hơn 600
sĩ quan, chiến sĩ (có nguồn ghi ngày đó, tại các điểm cao trên các Sư
đoàn Việt Nam bị thiệt hại 1200)“. (Tóm tắt trang 449, 450 sách VỊ XUYÊN
& THẾ SỰ VIỆT TRUNG của Phạm Viết Đào)
Quân
Trung Quốc còn thảm sát 74 sĩ quan chiến sĩ công binh Việt Nam ra xây
đảo Gạc Ma ngày 14/3/1988, và Trung Quốc đã chiếm đảo Gạc Ma và nhiều
đảo đá khác thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam cho đến nay.
Những
sự phá hoại và giết chóc hàng vạn người Việt Nam do Trung Quốc gây ra
cho Việt Nam (1979-1989) đã vượt quá bao lần giá trị Trung Quốc viện trợ
hậu cần, nhân sự và vũ khí cho Việt Nam đuổi Pháp (1950-1954) giúp tạo
vùng đệm an toàn cho biên giới phía Nam của Cộng sản Trung Quốc, và để
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà chống Việt Nam Cộng hoà (thực chất là giết hại
đồng bào Miền Nam – Việt Nam) và “đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng”
(1954-1975)?
…
2.- Tại sao lại gọi là cuộc chiến dai dẳng?
(a)
Nếu định nghĩa chiến tranh xâm lược là một quốc gia đưa quân đi giết
người của nước đối phương để chiếm lãnh thổ, thì cuộc chiến Trung Quốc
xâm lược Việt Nam vẫn chưa kết thúc. Vì từ vụ Trung Quốc xâm lược, bắn
giết người Việt Nam để chiếm Hoàng Sa của Việt Nam ngày 19/1/1974; tiếp
đó là Bắc Kinh dùng cộng sản Polpot xâm lược Tây Nam – Việt Nam; đặc
biệt cuộc xâm lược 6 tỉnh biên giới Bắc Việt Nam từ 17/2/1979 -1989; vụ
thảm sát 64 sĩ quan binh sĩ Việt Nam tại Gạc Ma để chiếm Gạc Ma và một
số đảo đá thuộc Trường Sa của Việt Nam ngày 14/3/1988, cho đến nay,
Trung Quốc vẫn đang chiếm giữ và xây căn cứ quân sự trên đó. Cuộc chiến
tranh sử dụng “sức mạnh cứng” như thế chưa kết thúc.
(b)
Nếu xét theo loại hình xâm lược bằng “sức mạnh mềm” như dùng chiến
tranh tâm lý, kinh tế, văn hóa, giáo dục, luật pháp, ý thức hệ, thể chế
chính trị… để một quốc gia này bắt quốc gia khác phải quy phục, phải lệ
thuộc, phải “gọi dạ, bảo vâng”, thì Trung Quốc Cộng sản đã thực hiện
loại hình này với Việt Nam ngay từ khi nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa
đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam từ ngày 18.1.1950 đến nay.
Nhà ngoại giao kỳ cựu từng làm Đại sứ Việt Nam tại Bắc Kinh 14 năm (1974-1987), Lão tướng Nguyễn Trọng Vĩnh viết:
“Lược
lại một đoạn lịch sử quan hệ Trung Quốc- Việt Nam thì thấy: Ngay từ
những năm 50 của thế kỷ 20, khi hai nước còn “hữu hảo” lắm, thì họ đã
muốn chinh phục ta bằng lý luận tư tưởng Mao Trạch Đông qua nhiều con
đường sách báo, các đoàn cố vấn, các mối quan hệ qua lại… Ta cũng có
thời kỳ bị ảnh hưởng về lý luận, tư tưởng đó. Bằng chứng là lúc đó trong
trường Đảng của ta còn có chương trình học tư tưởng Mao Trạch Đông và
trong thực tiễn cũng làm nhiều việc theo cách của Trung Quốc như việc
cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ hoặc việc chỉnh đốn tổ chức đấu tố
“phản tỉnh” trong nội bộ…Trung Quốc chuyển sang chinh phục ta bằng kinh
tế… họ bắt ta phải hàm ơn, phải đi theo… muốn giữ ta luôn ở thế yếu…
Trung Quốc không muốn ta đàm phán (với Mỹ) mà muốn ta ‘đánh Mỹ đến người
Việt Nam cuối cùng’…’Trung Quốc muốn kéo ta vào tầm ảnh hưởng, bắt ta
phải thần phục họ’… Trung Quốc quen đối xử với các nước nhỏ theo cách kẻ
cả, bất công bằng như thời bộ lạc ‘mạnh được yếu thua’, không còn coi
công lý là gì ‘nghe lời ta thì được ‘tốt đẹp’, chống lại ta thì ta cho
chết”. (Trang 115, 117, 118,119 sách “Kể Lại Cuộc Đời”, Hồi ức của Nguyễn Trọng Vĩnh).
Nay
thì, ngay từ Lời nói đầu, Chương 1 của Hiến pháp Việt Nam đến nhiều
điều cơ bản về thể chế chính trị, CHXHCN Việt Nam cũng “giống” Hiến pháp
Trung Quốc. Rồi đến các chính sách mở cửa, cổ phần hóa, đa dạng các
loại hình kinh tế… gần đây nhất là Luật Khu Hành Chính và Kinh Tế Đặc
Biệt, Luật An Ninh Mạng thì Cộng sản Ba Đình luôn luôn giẫm đúng vết
chân người đồng chí anh em bốn tốt Cộng sản Trung Nam Hải bất kể những
chính sách, đạo luật ấy tốt hay xấu cho người dân Việt Nam.
Đến
mức chỉ số minh bạch, chỉ số Tự do báo chí, Tự do internet, điểm số về
đàn áp Nhân quyền… thì Việt Nam luôn luôn theo sát sàn sạt người anh em
Cộng sản Trung Quốc.
Từ
những điều trên đây, có thể khẳng định rằng cuộc chiến giành tự do độc
lập, toàn vẹn lãnh thổ của nhân dân Việt Nam đến nay chưa kết thúc, đó
là một “cuộc chiến dai dẳng”. Kẻ thù của dân tộc Việt Nam không ai khác
chính là kẻ chiếm Hoàng Sa của Việt Nam 19/1/1974, kẻ chủ mưu gây ra
cuộc chiến đẫm máu hơn 43 năm trước ở biên giới Tây Nam, và 41 năm trước
(từ 17/2/1979 – 1989) ở 6 tỉnh biên giới phía Bắc. Nay kẻ thù vẫn ngang
nhiên vẽ “lưỡi bò” để chiếm 80% biển Đông của Việt Nam, đang chiếm
Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam; kẻ với chiến lược “vành đai con đường”
để bành trướng lãnh thổ; kẻ quấy phá biển đảo và thềm lục địa Việt Nam
không để Việt Nam yên bình hợp tác với các nước khác khai thác dầu khí ở
khu mỏ Cá Rồng Đỏ, bãi Tư Chính năm 2018, 2019…
Kẻ
thù đó ngày nay với “sức mạnh mềm” kinh tế, văn hóa, chính trị… đã lôi
kéo được nhiều người mang dòng máu Việt Nam nhưng cơ hội chính trị và
tham lam quyền lực và vật chất, nhiều kẻ mang danh là trí thức Việt Nam
cũng bị mờ mắt, bị lú lẫn đã vô tình hay hữu ý làm tay sai cho bọn xâm
lược đất nước của ông cha mình.
Bộ
lịch sử 15 tập, hơn 10.000 trang, với khoảng 290.000 dòng, viết cả chục
ngàn dòng (ở hai tập 12, 13 với 1100 trang) về cuộc chiến ý thức hệ
1954-1975, cuộc chiến mà Cộng sản Trung Quốc “anh em” đã “tận tình giúp
đỡ vũ khí, hậu cần” để “ta đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng”, nhưng
chỉ viết 11 dòng về cuộc chiến chống Trung Quốc xâm lược Việt Nam với
hàng chục vạn người Việt Nam chiến đấu hy sinh ở thế kỷ 20. Việc này làm
lợi cho ai?
Tại
sao sách sử “chính thống” hiện đại của Việt Nam không liệt kê những
thiệt hại vật chất và sinh mạng vô cùng thảm khốc của Việt Nam trong hai
cuộc chiến biên giới do Trung Cộng gây ra (1979-1989), mà lại ghi khá
rõ “Việt Nam luôn luôn luôn biết ơn sự tận tình giúp đỡ của Chính phủ và
nhân dân Trung Quốc” (trang 351, tập 14 Lịch sử Việt Nam, NXB KHXH) với
những hạng mục vật chất, kinh tế, nhân sự khá chi tiết để Việt Nam đánh
đuổi hai nền văn minh Pháp và Mỹ (1950-1975), để Việt Nam quay về thần
phục Thiên Triều mọi mặt như ngàn năm phong kiến lạc hậu trước kia?
Phải
chăng Viện Sử Học của Viện Hàn Lâm Khoa Học Xã Hội Việt Nam cũng bị “tê
liệt và thất thủ” trước cuộc xâm lăng bằng “sức mạnh mềm” của Cộng sản
Bắc Kinh còn đang tiếp diễn?
CÂU LẠC BỘ LÊ HIẾU ĐẰNG
Đọc thêm
Đọc thêm
“Những cái nhất” của ngày 17/2/1979
Đinh Hoàng Thắng
Đọc
cái “tút” của GS-TS Trần Ngọc Vương từ Đại học Quốc gia nhân ngày tập
đoàn lãnh đạo Bắc Kinh phát động cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam 41
năm trước đây, thú thật người viết bài này không khỏi giật mình. Nói
chuyện điện thoại với Giáo sư xong, viết bài này, như thắp một nén tâm
hương, tưởng niệm gần 100.000 chiến sỹ và đồng bào ta đã bỏ mình trong hai cuộc chiến tranh biên giới bảo vệ Tổ quốc vốn bị lãng quên một cách nhẫn tâm và chóng vánh nhất.
Con số 100.000 chiến sỹ và đồng bào ta hy sinh là lấy từ Tuyên bố của Câu Lạc Bộ Lê Hiếu Đằng. Tuyên
bố viết: “Lịch sử rồi sẽ phải công khai sự thật số lượng người Việt Nam
thương vong trong cuộc chiến chống Trung Quốc xâm lược ở cuối thế kỷ
20, nhưng theo các nhà quan sát phương Tây ước tính, thì quân và dân
Việt Nam đã hy sinh trong hai cuộc chiến tranh biên giới mà nguyên nhân
là từ Trung Quốc cộng sản gây ra khoảng 100.000 người”.
Vâng,
con số nói trên rõ ràng chưa được thẩm định. Ở một đất nước mà phải sau
3 Nghị quyết của Bộ Chính trị, doanh nghiệp, người dân và xã hội mới
được phép “hội nhập toàn diện” với thế giới, thì việc trích con số mất
mát trong trận mạc chưa qua thẩm định rất có thể bị xử lý. Vẫn biết
chẳng hy vọng gì nhiều vào câu chữ trong EVFTA, tự do báo chí sẽ được
bảo đảm ở Việt Nam, để tính chuyện “chạy tội”. Đơn giản, phải chờ đến
năm 2023, cam kết trong Hiệp định ấy mới có hiệu lực pháp lý. Còn trên
thực tế thì chưa biết đến “Tết Công gô” nào mới có!
Nhưng
chẳng nhẽ vì thế mà những nhà báo trung thực dịp này vẫn “mũ ni che
tai”? Tác giả bài này còn nhớ, dạo nọ, nhân tưởng niệm ngày 17/2, một
trang mạng hàng đầu ở Việt Nam có đặt bài về cuộc chiến tranh biên giới,
nhưng lại đưa ra yêu cầu là không được đề cập đến hai từ “Trung Quốc”
trong bài viết. Thật là tột cùng của mọi sự phi lý! Đỉnh cao của mọi sự
vô liêm sỉ! Ngay như 17/2 năm nay, các báo hầu như “không giám chấp” hay
là do “huý kỵ” đặc biệt, vẫn tránh hai chữ “Trung Quốc” trong bài viết
như tránh dịch Covid-19. Lần này, cùng với GS. Trần Ngọc Vương, tác giả
muốn đề xuất với các “sử gia” đáng kính 5 “cái nhất” mà những người viết
bộ sử “chính thống” ấy không rõ vì lý do gì đã bị ép quên hay tự lãng
quên.
Thứ
nhất, đợt tấn công phủ đầu trên toàn tuyến biên giới bắt đầu ngày
17/2/1979 thực chất là một cuộc chiến tranh xâm lược có quy mô lớn nhất
nhưng lại diễn ra trong một thời gian ngắn nhất, tính đến thời điểm kẻ
địch phải tuyên bố rút quân (ngày 5/3/1979). Theo nhà
nghiên cứu Lịch sử Lê Mã Lương, đấy thực sự là cuộc chiến tranh vệ quốc
vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc. Chưa bao giờ chúng ta phải đối phó
với một đội quân xâm lược nhung nhúc như thế! Địch tung ra một lực lượng
quân sự 600.000 lính, cùng các phương tiện chiến tranh hiện đại, tàn
phá 6 tỉnh biên giới phía Bắc trong gần một tháng. Tuy nhiên, chúng chỉ
tiến sâu vào được đất ta không quá 50km. Khác với các triều đại trước
đây, mỗi lần đánh ta, đa phần quân Tàu vào tận kinh đô. Ấy vậy mà, các
sử gia chính thống chỉ chép về chiến công hiển hách ấy có 290 dòng trên tổng số 103.000 dòng về
các sự kiện qua 70 năm của bộ sử chính. Số chữ về cuộc chiến chiếm chưa
đầy 0,003% toàn bộ số chữ về các sự kiện từ 1930 đến 2000. Mỉa
mai thay, các “sử nô” đã viết về cuộc chiến tranh bi thảm ấy bằng những
con chữ vô hồn nhất, với nguỵ biện để bảo đảm trung tính và khách quan,
vì chưa “thương lượng” xong với các “sử gia bạn”.
Thứ hai, từ đòn đánh bất ngờ ấy, một cuộc chiến tranh đẫm máu nhất đã diễn ra, như tài liệu từng tổng kết. Nhưng
sử “chính thống” chép quá sơ lược, thậm chí hầu như không viết gì về
cuộc chiến từ 1984 đến 1989, nên rất nhiều người Việt Nam, nhất là thế
hệ trẻ, vẫn không biết gì về mức độ ác liệt của nó. Trên thực tế, chỉ
riêng tại Vị Xuyên, Hà Tuyên giai đoạn 1984-1989, Trung Quốc chết 15.178
quân, bị thương 17.757 tên. Ở khu vực này, có chỗ ta và địch giằng co
nhau từng mét đất biên cương. Việt Nam đã tổn thất 4.000 (có nguồn ghi
5.000) sĩ quan, chiến sĩ và hơn 9.000 bị thương. Chỉ riêng một đêm
12/7/1984 mở màn chiến dịch tái chiếm các điểm cao, quân khu II thiệt
hại hơn 600 cán ,bộ chiến sĩ. Có nguồn ghi ngày đó, trên các điểm cao
ấy, các sư của ta “mất” ít nhất 1200 người.
Thứ
ba, cuộc chiến đẫm máu nói trên lại cũng là một cuộc chiến dai dẳng
nhất (kéo dài chục năm có lẻ) trong lịch sử cận đại Việt Nam. Như
tuyên bố của CLB Lê Hiếu Đằng, nếu định nghĩa chiến tranh xâm lược là
một quốc gia đưa quân đi giết người của đối phương để chiếm lãnh thổ,
thì cuộc chiến Trung Quốc xâm lược Việt Nam vẫn chưa kết thúc. Trung
Quốc từng xâm lăng, bắn giết người Việt Nam để chiếm Hoàng Sa của Việt
Nam ngày 19/1/1974, tiếp đó dùng tập đoàn Polpot xâm lược Tây Nam – Việt
Nam, đặc biệt cuộc tấn công 6 tỉnh biên giới phía Bắc từ 17/2/1979 đến
1989, vụ thảm sát binh sĩ, sĩ quan Việt Nam để chiếm Gạc Ma và một số
đảo đá thuộc Trường Sa ngày 14/3/1988, cho đến nay, Trung Quốc vẫn đang
chiếm giữ và xây các căn cứ quân sự trên đó.
Thứ
tư, trong thời gian chiến tranh Trung – Việt 10 năm có lẻ ấy, Trung
Quốc đã vi phạm luật tù binh thô bạo nhất và đối xử dã man nhất với
thường dân. Quân Trung Quốc đã thảm sát hàng ngàn tù
binh, đặc biệt là 64 cán bộ chiến sĩ công binh Việt Nam ra xây đảo Gạc
Ma ngày 14/3/1988, cùng với 2 tàu vận tải vĩnh viễn nằm sâu dưới lòng
Biển Đông. Trung Quốc đã chiếm đảo Gạc Ma và nhiều đảo đá khác thuộc
quần đảo Trường Sa của Việt Nam cho đến ngày nay. Trên biên giới, lính
Trung Quốc đã thảm sát dã man hàng ngàn thường dân, đặc biệt ở Tổng
Chúp, đã giết 43 phụ nữ, trẻ em rồi quăng xuống giếng ở Tổng Chúp, xã
Hưng Đạo, thành phố Cao Bằng, tháng 2/1979.
Thứ
năm, một cái nhất nữa không thể không nhắc đến: Chưa có một cuộc chiến
tranh nào trong lịch sử Việt Nam được cả chính quyền lẫn các sử quan
“lãng quên nhanh nhất” và “bỏ chạy một cách kỹ lưỡng nhất” (từ của GS. Trần Ngọc Vương). Bộ lịch sử 15 tập, dày hơn 10.000 trang, với khoảng 290.000 dòng, trong đó dành cả chục ngàn dòng về cuộc chiến ý thức hệ từ 1954 đến 1975 – cuộc chiến mà Trung Quốc đã “tận tình giúp” để ta “đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng” – trong khi đó chỉ chép vẻn vẹn có mười một dòng về cuộc chiến chống Trung Quốc xâm lược. Sau
hơn 4 thập kỷ, người ta cố tình tung hoả mù lên tính chính danh của
cuộc chiến. Không giám gọi kẻ xâm lược là địch, các chiến sỹ ta hy sinh
thì khó khăn lắm mới được vinh danh là liệt sỹ. Chứ không phải chết ngày
hôm trước thì ngay hôm sau đã được truy tặng “Huân chương Chiến công
hạng nhất”. Quả là một kỷ lục về sự “nhập nhằng ý thức hệ!”
Từ
những thiện nghĩ trên đây, có thể thấy cuộc chiến bảo vệ tự do độc lập,
toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam cho đến hôm nay vẫn chưa kết thúc. Kẻ
thù của ta không ai khác chính là kẻ chiếm Hoàng Sa của Việt Nam
19/1/1974, kẻ chủ mưu gây ra cuộc chiến đẫm máu hơn 43 năm trước ở biên
giới Tây Nam và 41 năm trước (từ 17/2/1979 – 1989) ở 6 tỉnh biên giới
phía Bắc. Ngày nay, kẻ thù ấy vẫn ngang nhiên bám vào đường “lưỡi bò” để
đòi chiếm 80% Biển Đông, cho dù Toà Trọng tài của Liên hiệp quốc đã
hoàn toàn bác bỏ.
Đúng
như cảnh báo của CLB Lê Hiếu Đằng, với chiến lược “vành đai con đường”
Trung Quốc đã/đang bành trướng lãnh thổ, xâm phạm biển đảo và thềm lục
địa Việt Nam, không để Việt Nam hợp tác với các nước khác khai thác dầu
khí ở khu mỏ Cá Rồng Đỏ, Bãi Tư Chính.. Kẻ thù đó ngày nay với “sức mạnh
mềm” kinh tế, văn hóa, chính trị… đã/đang lôi kéo được nhiều người mang
dòng máu Việt Nam nhưng vì cơ hội chính trị, tham lam quyền lực và vật
chất, có nhiều người mang danh trí thức cũng bị mờ mắt, bị lú lẫn, đã vô
tình hay hữu ý làm tay sai cho kẻ xâm lược đất nước mình./.
Có thể tham khảo thêm:
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 17-2-20
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire