Những tư tưởng triết học, hay tôn giáo, đã có những ảnh hưởng quyết định lên các nền nghệ thuật.
Các
nhà triết học thời cận đại, từ Hegel đến Heidegger cũng đều công nhận
rằng: những ý tưởng về mỹ học chỉ có thể đến sau các tác phẩm nghệ
thuật. Tuy nhiên, trên thực tế, những tư tưởng triết học, hay tôn giáo,
đã có những ảnh hưởng quyết định lên các nền nghệ thuật, từ những tư
tưởng triết học của Platon về cái đẹp tuyệt đối, về những ý tưởng tiên
nghiệm của Thượng đế, và những lý thuyết cổ điển của Aristote về nghệ
thuật, coi nghệ thuật như là một sự sao chép thiên nhiên, đến những tư
tưởng tôn giáo của Saint Augustin về quan hệ gắn bó giữa con người và
Chúa sinh ra vạn vật; rồi từ những tư tưởng của Descartes về vai trò của
chủ thể, đến luận thuyết của Kant về tính chất chủ quan của cái đẹp,
v.v.
Tư tưởng về nghệ thuật của Platon và Aristote
Thực
ra, nhìn với quan niệm của người ngày nay, thì những tư tưởng của
Platon và Aristote về nghệ thuật, là những tư tưởng chống nghệ thuật,
chứ không phải là những tư tưởng tôn vinh nghệ thuật, nhưng ở thời của
Platon, triết học có một uy quyền rất lớn trong xã hội, và tiếng nói của
các triết gia có thế lực như Platon, Aristote, là quyết định, nhất là
đây lại là những nhà giáo dục, có đầy đủ thẩm quyền và phương tiện để
truyền bá những điều mình phán quyết. Ở thời Platon, không có gì qua mặt
được triết học. Điều này, xét cho cùng, cũng chỉ là đúng thôi (nếu ta
nhận thức được tầm quan trọng của triết học trong đời sống và trong các
lãnh vực văn hóa, nghệ thuật), nhưng thái độ của Platon đã rất cực đoan:
dựa vào định kiến cho rằng nghệ thuật, từ hội họa đến thi ca, đều chỉ
là sự bắt chước, hay sao chép thiên nhiên, và không có gì là thực cả,
cho nên cũng không có giá trị thực, ông đã có một thái độ khinh miệt
đối với cả nghệ thuật, lẫn thi ca. Điều kỳ lạ, là trong nhiều thế kỷ,
phương Tây đã tôn vinh những tư tưởng ấy, để rồi phải hứng chịu những
hậu quả tiêu cực của chúng, mà mãi sau này mới nhận ra được.
Một
tư tưởng khác của Platon cũng đã có ảnh hưởng trực tiếp đến quan niệm
cổ điển về đối tượng của nghệ thuật. Platon cho rằng: cái đẹp (khách
thể) là nguồn gốc của sự ham thích nó ở nơi con người (chủ thể). Chính
cái đẹp của đối tượng , tức của khách thể, đã cuốn hút người nhìn, và
gây nên sự ham thích ở nơi người nhìn, tức nơi chủ thể. Như vậy, có
nghĩa là: cái đẹp của đối tượng là có thật, độc lập với ta, và ở ngoài
ta. Điều mà, 22 thế kỷ sau, Kant đã phủ định với tác phẩm Phê phán năng
lực phán đoán (1790). Đối với Kant, cái đẹp chỉ có giá trị chủ quan và
không nằm trong đối tượng.
Còn
Aristote, thì mặc dầu không đồng ý với những ý kiến trên của Platon,
nhưng vì tôn trọng ông thầy của mình, và vì bản thân không phải là một
nghệ sĩ, nên vẫn chủ trương bắt chước thiên nhiên, coi đó là mẫu mực, là
sự thật khách quan (Aristote, Poétique), ví dụ như thân thể con người
là gương mẫu của cái đẹp của tỷ lệ và của sự hài hòa (các tượng thần
Apollon, thần Vệ nữ, v.v. là những tác phẩm cổ điển Hy Lạp, mà khuôn mẫu
là cơ thể hài hòa của con người).
Trải
qua các thời kỳ và phong cách nghệ thuật ở phương Tây, từ nghệ thuật cổ
đại Hy-La, đến những bước đầu của nghệ thuật Kitô giáo; rồi từ thời
Trung cổ (với các phong cách Rômăng, Gôtíc), đến các thời kỳ Tiền Phục
Hưng, Phục Hưng, Nguyên khai Flamand, Cổ điển, Barốc, Lãng mạn, Hiện
thực tự nhiên, Ấn tượng, nghệ thuật chính thống luôn luôn tôn vinh sự
sao chép "giống như thật", trong tinh thần của Aristote, với mục đích
thể hiện y nguyên hiện thực, mặc dầu với một cái nhìn thẩm mỹ nhất định,
song hoàn toàn không "diễn dịch" hoặc phê phán hiện thực.
Đó
là nguyên lý cơ bản của nền nghệ thuật coi trọng khách thể, có từ
Aristote, và đã tồn tại bền bỉ cho đến ngày nay, ít ra là ở một số nghệ
sĩ tượng hình. Người ta còn nhớ, cho tới những thập niên đầu của thế kỷ
XX, nền nghệ thuật hàn lâm, mà tiền thân là nền nghệ thuật cổ điển của
Pháp, vẫn ngự trị một cách chính thống ở khắp Âu châu, đặc biệt là ở
Pháp.
Nghệ thuật Kitô giáo
Những
ý tưởng của Platon và Aristote về quan hệ giữa khách thể và chủ thể
(một đằng là cái đẹp, hay đối tượng vẽ, một đằng là người nghệ sĩ, hay
người thưởng thức nghệ thuật), cũng như về sự bắt chước, hay sao chép
thiên nhiên, về đại thể, cũng đã được nghệ thuật Kitô giáo lấy lại và
tiếp tục phát triển trong suốt 20 thế kỷ, mặc dầu trên một số điểm, nhất
là trong lãnh vực siêu hình học, quan niệm của Kitô giáo có khác với
quan niệm của các triết gia Hy Lạp.
Chỉ
riêng về cái đẹp, quan niệm Kitô giáo cho rằng: mọi vật trên đời này
đều đẹp, vì do đức chúa Trời Ba Ngôi sáng tạo ra; chúng phản ánh cái đẹp
toàn mỹ của Chúa. (Con người được Chúa sáng tạo ra dựa theo hình ảnh
của Chúa, nghĩa là mặc dầu khác với Chúa, nhưng con người cũng có đủ
những đức tính và khả năng để tham gia vào công cuộc sáng tạo của Chúa,
đặc biệt là sáng tạo ra cái đẹp). Như vậy có nghĩa là, trong đạo Kitô,
đức chúa Trời đã được "nhân hóa" và do đó cái đẹp được thể hiện một cách
cụ thể trên tất cả các nhân vật, từ đức chúa Giê-Su, đến đức Bà Maria,
đến Chư thánh, v.v. (Xem các nền hội họa thời Trung cổ, Tiền Phục Hưng
và Phục Hưng). Đây là một trong những lý do khiến cho ảnh hưởng của chủ
nghĩa cổ điển Hy Lạp đã bị lu mờ trong suốt thời trung cổ ở Âu châu, để
nhường chỗ cho nghệ thuật Kitô giáo phát triển rực rỡ, gần như liên tục,
trong suốt gần 20 thế kỷ với những kiệt tác thể hiện các truyện tích,
và các nhân vật trong Kinh Thánh.
Những tư tưởng của St Augustin, Descartes, và Kant
Người
đầu tiên đã đưa ra được những luận cứ để chống lại cách nhìn của
Aristote, coi nghệ thuật chỉ là sự sao chép thiên nhiên, chính là Kant,
triết gia người Đức. Theo Kant, tác phẩm nghệ thuật không phải là bản
sao của thiên nhiên, mà ngược lại: "Thiên nhiên chỉ đẹp khi nó giống như
tác phẩm nghệ thuật, và tác phẩm nghệ thuật chỉ đẹp khi nó giống như
thiên nhiên" (Kant, Phê phán năng lực phán đoán, 1790). Điều đặc biệt
quan trọng đã được Kant vạch ra, và đã có một ảnh hưởng vô cùng to lớn
lên nghệ thuật, đó là: cái đẹp không nằm trong đối tượng, dù cho đó là
một cảnh thiên nhiên, hay một tác phẩm nghệ thuật, mà tuỳ thuộc vào sự
phán đoán của người nhìn ngắm nó, tức chủ thể.
Sau
Kant, Hegel đã có những ý tưởng cực đoan hơn về mối quan hệ giữa thiên
nhiên và nghệ thuật, và ông đã có một thái độ khinh rẻ đối với tất cả
những gì là của thiên nhiên. Đối với ông cái đẹp của nghệ thuật mới đáng
để cho ta chú ý đến, vì nó là sản phẩm của trí tuệ con người. Còn cái
đẹp của thiên nhiên là cái đẹp của những vật vô tri, và do đó không có
giá trị. Phải chăng cũng vì vậy, mà Hegel đã đồng ý với Platon về nguồn
gốc của cái đẹp lý tưởng, là những ý tưởng tiên nghiệm của Thượng đế mà
con người còn nhớ được.
Nói
đến vai trò của chủ thể, không thể nào không đi trở ngược lên đến St
Augustin, người đã đem đến cho đạo Kitô một kích thước mới: kích thước
con người. Nhưng quan trọng hơn cả, là những tư tưởng triết học của
Descartes, với tác phẩm Diễn từ về phương pháp luận (1637). Có thể nói
rằng với tác phẩm này, phương Tây đã khám phá ra tầm quan trọng của chủ
thể, của cái tôi, trong nhận thức về thế giới xung quanh, và đặc biệt là
trong quan niệm về nghệ thuật và người nghệ sĩ.
Không
biết Rubens (1577-1640), nhà họa sĩ trứ danh người Hà Lan, đã có dịp
đọc tác phẩm của Descartes chưa, nhưng ông đã là người họa sĩ đầu tiên
vẽ với một phong cách bay bướm và một cá tính mạnh mẽ, khác hẳn với
phong cách hội họa thời Phục Hưng. Có thể nói rằng, về một mặt nào đó,
ít ra về hình thức, Rubens là một họa sĩ đã đi trước tất cả những họa sĩ
cùng thời, báo hiệu sự ra đời - hơn một thế kỷ sau - của phong cách
Barốc và phong cách lãng mạn.
Chủ nghĩa lãng mạn
Vào
những năm cuối thế kỷ XVIII, chủ nghĩa lãng mạn ra đời, đem đến nhiều ý
tưởng mới mẻ chống lại chủ nghĩa cổ điển. J.J. Rousseau (1712-1778) đã
là một trong những người đầu tiên đưa ra định nghĩa: "Nghệ thuật không
phải là sự miêu tả hay sao chép thế giới ta nhìn thấy, mà là cả một sự
trào dâng của cảm xúc và của sự đam mê".
Khởi
đầu từ trong văn học, chủ nghĩa lãng mạn đã thâm nhập vào hội họa ngay
từ đầu thế kỷ XIX ở một số nước Âu châu, đặc biệt là ở Đức, Anh, và
Pháp. Nó không những đã giải phóng người nghệ sĩ tạo hình khỏi những
ràng buộc của những quy tắc cổ điển, mà còn mở ra cho họ cả một chân
trời mới, một thế giới mới: thế giới của nội tâm với những khát vọng về
tự do và nhân quyền, của óc tưởng tượng, và khôi phục lại cho họ vai trò
then chốt của chủ thể.
Những
họa sĩ lãng mạn, tiêu biểu cho trường phái này, như: Friedrich (Đức);
Constable, Turner (Anh); Delacroix, Géricault (Pháp), đều có những tác
phẩm nổi tiếng. Ở mối họa sĩ, người ta đều nhận thấy được một cá tính
mạnh mẽ, một phong cách riêng biệt.
Nhìn
chung, trào lưu lãng mạn, và tiền thân của nó là phong cách Barốc - mà
người đi mở đường tiêu biểu nhất, trước hẳn phong trào Barốc đến hơn một
thế kỷ, là Rubens (1577-1640) - đã có một ảnh hưởng sâu sắc, giàu tính
chất sáng tạo, lên hầu hết các nền nghệ thuật tạo hình, từ Âu châu sang
tới Bắc Mỹ, bắt đầu từ cuối thế kỷ XIX trở đi. Ảnh hưởng đó vẫn còn bền
bỉ cho tới ngày nay, trong tất cả các ngành nghệ thuật - đặc biệt là
trong xu hướng biểu hiện - dù là trong hội họa, điêu khắc, hay trong
kiến trúc vì những tư tưởng lãng mạn trong nghệ thuật tạo hình không mâu
thuẫn với những quan niệm mới mẻ mà hội họa hiện đại đã đem đến, bắt
đầu từ những năm cuối thế kỷ XIX bước sang thế kỷ XX.
Quan niệm hiện đại về nghệ thuật
Những
năm đầu thế kỷ XX, hội họa hiện đại đã ra đời với một loạt ý tưởng và
quan niệm mới mẻ về mặt thẩm mỹ: màu sắc, nét vẽ (Van Gogh, Gauguin,
Cézanne); cách đưa đối tượng lên phía trước (Cézanne), cách tái tạo lại
đối tượng trong một cấu trúc (trường phái lập thể: Picasso, Braque...).
Cách thể hiện nhịp điệu và sự chuyển động (Boccioni, Mondrian, Marcel
Duchamp...). Song, ngoài ra còn có những ý tưởng có tính chất triết học,
hoàn toàn đi ngược lại với những quan niệm cổ điển, và đã có một ảnh
hưởng quyết định lên nghệ thuật, như: phủ nhận sự sao chép đối tượng
(phong cách biểu hiện, dã thú, lập thể), thậm chí phủ nhận tất cả những
hình tượng gợi nhắc đến thế giới tự nhiên (hội họa trừu tượng).
Thọat
tiên, là những tìm tòi của Cézannes- một trong những họa sĩ trừu tượng
đầu tiên, từ những nét cọ giàu nhịp điệu, từ cấu trúc khoẻ mạnh của các
hình thể và màu sắc, từ cách đưa đối tượng lên phía trước, đến sự phủ
nhận gần như hoàn toàn đối tượng vẽ (bức họa Vườn Lauves, 1906).
Van
Gogh cũng đã đem đến những ý tưởng mới mẻ về nét vẽ, nhịp điệu, và màu
sắc. Điều đáng chú ý, là ông đã một mình một ngựa, đi theo con đường
sáng tạo riêng của mình và đã khẳng định được một cá tính rõ rệt.
Gauguin cũng đưa ra những ý tưởng độc đáo về tính chất bí ẩn của màu
sắc, và nhất là tính độc lập của màu sắc trên tác phẩm so với màu sắc
thật của đối tượng.
Các
họa sĩ biểu hiện như Munch và Kirchner cũng đã sử dụng một ngôn ngữ
mới, mạnh mẽ, với những nét vẽ giàu nhịp điệu và với những màu sắc dữ
dội.
Năm
1907, tác phẩm Les Demoiselles d'Avignon của Picasso ra đời, mở đường
cho phong cách lập thể, với tham vọng thể hiện đối tượng không phải như
mắt ta nhìn thấy từ một điểm nhìn, mà từ nhiều góc cạnh.
Song,
hội họa trừu tượng mới là dòng hội họa phủ nhận triệt để nhất đối tượng
sao chép, và nhất là nó phủ nhận tất cả những hình tượng tồn tại trong
thế giới tự nhiên (Kandinsky, Mondrian, Malevitch... 1910). Có thể nói
rằng, đây là một luật chơi mới, một thách thức mới. Tác phẩm trừu tượng,
theo đúng nghĩa của nó, phải chứng minh được rằng: cái đẹp nghệ thuật
do trí tưởng tượng của con người sáng tạo ra hoàn toàn độc lập với thế
giới tự nhiên. Đương nhiên, không phải ai vẽ tranh trừu tượng cũng đều
phải nghĩ như thế, nhưng tiêu chuẩn là như thế, và luật chơi là như thế.
Nói
chung, tất cả các họa sĩ và các trường phái kể trên đều đã có những
tuyên ngôn về xu hướng nghệ thuật của mình, trước hay sau khi các tác
phẩm ra đời.
Điều
mới mẻ nhất, có thể nhận thấy được trong các đổi thay về quan niệm thẩm
mỹ, ít nhất từ 50 năm nay, là: trong hội họa trừu tượng, cùng với một
dòng tranh thiên về nhịp điệu (Pollock, Hartung, Zao Wou Ki...), có một
dòng tranh thiên về ký hiệu ra đời gần như cùng một lúc (Soulages,
Sugai, Tuan...). Có thể nói rằng, đây tuy không phải là một "cặp khái
niệm" đối nghịch, nhưng về mặt thẩm mỹ, hai khái niệm này khác hẳn nhau,
như ngày và đêm.Tuy nhiên, cái
đẹp của ký hiệu và cái đẹp của nhịp điệu không phải là hai khái niệm đối
nghịch duy nhất trong nghệ thuật, mà còn nhiều cặp khái niệm khác: cái
đẹp động và tĩnh; cái đẹp cổ điển và cái đẹp Barốc, hay lãng mạn; cái
đẹp tượng hình và cái đẹp trừu tượng...
Thế
kỷ XXI không biết có đem đến được cái gì mới hơn không cho nghệ thuật,
nhưng rõ ràng con người sống trong thời đại điện tử và truyền thông ngày
nay, càng ngày càng ý thức được sự đa dạng của nghệ thuật, đang tràn
ngập vào đời sống, với những kích thước mới, và những phương tiện mới.
Điều này, tự nó cũng đã là cả một sự đổi thay quan trọng rồi, không phải
chỉ về mặt nghệ thuật mà thôi, mà còn cả về mặt nhận thức về sự tự do
của con người, nói chung.
VĂN NGỌC (TẠP CHÍ TIA SÁNG)
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire