tt
tt
Kính mời quý anh chị nghe đọc một số truyện của Khái Hưng.
Theo lời yêu cầu của nhiều anh chị, tôi post thêm trang truyện đọc do chị Cathy sưu tầm.
Những giai đoạn lịch sử đã qua, đưa đất nước Việt Nam đến kết quqả như ngày hôm nay, cho thấy chuyện yêu nước của người xưa, đúng hay sai, thì hôm nay lịch sử đã chứng minh đầy đủ.
Vì vậy đọc lại những tác phẩm của những người đã ra đi, quan niệm theo lối suy nghỉ vào thời kỳ đó, có lẽ bây giờ nghiệm lại, chắc chắn chúng ta sẽ rút ra được nhiều bài học đáng giá.
Caroline Thanh Hương
tt
tt
Xem thêm
Vụ Án Nhân Văn Giai Phẩm, vietnamfilmclub.
Tưởng Niệm
70 Năm Nhà Văn Khái Hưng Bị Việt Minh Thủ Tiêu Tại Bến Đò Cựa Gà, Làng Ngọc
Cục, Nam Định Vào Đêm Giao Thừa Năm Mới Đinh Hợi (21-1-1947).
Khái Hưng
tên thật là Trần Khánh Giư, sinh năm 1896 tại Cổ Am, Vĩnh Bảo Hải Dương , thuộc
thành phần gia đình quan lại, con cụ Tuần phủ Phú Thọ, bố vợ là Tổng đốc Bắc
Ninh, anh ruột nhà văn Trần Tiêu. Khái Hưng theo học trường Lycée Albert
Sarraut, HàNội, đậu tú tài ban cổ điển, ông cũng uyên thâm Hán học.
Ông tham gia
hoạt động cách mạng giành độc lập 1940. Năm sau 1941, các đảng viên Đại Việt
Dân Chính như Khái Hưng, Hoàng Đạo bị Pháp bắt giam tại nhà lao Vụ Bản
thuộc tỉnh Hòa Bình, đó là một vùng nước độc. Năm 1943 ông được tha, bị quản
thúc tại Hà Nội. Nhật đầu hàng đồng minh tháng 8 năm 1945. Các nhà cách mạng
lưu vong bên Tầu kéo về nước, Khái Hưng và Nguyễn Tường Bách giữ nhiệm vụ tuyên
truyền cho Việt Nam Quốc Dân Đảng. Việt Minh cướp chính quyền ngày 19 tháng 8
năm1945, sau khi thành lập chính phủ liên hiệp, họ bất ngờ tấn công các trụ sở
Quốc Dân Đảng, tiêu diệt các thành phần Quốc Gia.
Pháp tấn
công Hà Nội, Khái Hưng tản cư về làng Lịch Diệp quê vợ, bị Việt Minh bắt
đưa đi thủ tiêu nửa đêm 21-1-1947, tức giao thừa Tết Nguyên đán Đinh Hợi.
Trong hai năm 1945, 1946 ông sáng tác một số truyện ngắn và kịch đăng trên tuần
báo Chính Nghĩa. Năm 1966 ông Nguyễn Thạch Kiên đã cho xuất bản các tác phẩm ấy
tại Sài Gòn và năm 1997 tại California, Hoa Kỳ nhân dịp kỷ niệm năm mươi năm
Khái Hưng bị Việt Minh thủ tiêu, Nguyễn Thạch Kiên đã cho in lại trong một
bộ sách hai tập lấy tên Kỷ Vật Đầu Tay Và Cuối Cùng, nhà xuất bản Phượng Hoàng.
Đây là những
truyện ngắn và những vở kịch cuối cùng của Khái Hưng, của Tự Lực Văn Đoàn . Bốn
cây viết chính của văn đoàn gồm Khái Hưng, Nhất linh, Thạch Lam, Hoàng đạo.
Nhưng lúc này chỉ còn một mình Khái Hưng, Thạch Lam chết bệnh năm 1943, Nhất
Linh, Hoàng Đạo lưu vong sang Tầu, Khái Hưng sáng tác một mình.
Những tác phẩm
cuối cùng của ông cũng là những áng văn tuyệt tác của một cây bút già dặn, những
tâm tư của một nhà cách mạng chân chính trước cảnh cốt nhục tương tàn của cuộc
chiến Quốc -Cộng đang diễn ra. Các truyện ngắn gồm: Bóng Giai Nhân, Lời
Nguyền, Hổ, Tây Xông Nhà, Quan Công Xứ, Nhung, Khói Hương, Người Anh Hùng, Tiếng
Người Xa và ba vở kịch: Câu Chuyện Văn Chương, Khúc Tiêu Ai Oán, Dưới Ánh
Trăng.
Trọng Đạt
LỜI NGUYỀN
Đồ sộ, chót
vót trên đỉnh đồi cao, đồn Vụ- bản hách dịch nhìn xuống con đường đá nối
Nho-quan với Hòa-bình. Trên một quả đồi đối diện và thấp hơn, khu trại giam
chính trị phạm náu mình trong hàng dậu dầy nứa nhọn và hai hàng cọc chăng giây
thép gai. Phía dưới là một cái thung lũng nhỏ với con sông Vành quanh co uốn éo
như con rắn dài vận khúc bạc lướt mình trong cỏ hoang, rừng rậm. Bên kia sông
là phố và chợ Trào, dăm chục nóc nhà vừa lợp ngói vừa lợp tranh quây vuông lấy
bốn cái quán gạch trống rỗng.
Xa xa về
phía Tây Nam, dẫy núi Hoành Sơn sừng sững như một bức thành kiên cố đứng ngăn.
Buổi sáng nó chìm biến vào trong sương dầy trắng đục, buổi chiều nó lờ mờ trong
sương lam bốc lên như khói. Buổi trưa nó lấp lánh ném ánh bạc của những cây
ngân diệp mọc bên sườn. Về phương Đông bắc, và chỉ xa chừng dăm cây số, một quả
đồi cao và dài đứng án ngữ như một bức bình phong. Quanh đó những núi đá trắng
và đen mọc lởm chởm, với những hình thù cổ quái. Còn phía Tây bắc là những đồi
rậm liên tiếp những rừng sâu, cỏ sắc bao vây lấy từng khu ruộng nhỏ hẹp và dài.
Vùng ấy hằng
ngày yên ngủ để chờ đợi những hồi kèn rời rạc báo giờ từ vòm đồn tỏa xuống, cả
những hôm phiên chợ tắp nập, nó cũng yên lặng buồn tẻ với những người Mường ít
cười ít nói: Họ lững thững gánh gạo, gánh măng, gánh lợn, gà, vịt, ngỗng ra chợ
bán, rồi lại lững thững trở về làng vời một ít muối và các thức đồ dùng của người
Kinh đem từ vùng xuôi lên. Họ như chán nản, chả buồn mặc cả nài giá bao giờ.
Cái trạng
thái u huyền giữa một cành thiên nhiên hùng vĩ, khiến Khanh, một tù nhân chính
trị, tưởng tượng ra một thần bí gì rùng rợn ngày đêm bay lượn trên không để đe
dọa vùng này. Một hôm vác ống bương ra suối lấy nước, y ngỏ ý nghĩ đùa bỡn ấy với
người lính kèn. Thì kinh ngạc xiết bao, người kia hãi hùng se sẽ đáp lại:
- Phải, một
lời nguyền.
Người lính
cũng chỉ thốt ra một câu vắn tắt. Rồi như khiếp sợ một cái gì có thể sắp xảy tới,
y im bặt.
Đêm hôm ấy
trong khi nằm lịm trên giường lát nứa, nghe bài kèn tám giờ, Khanh lại liên tưởng
đến người linh kèn và câu chuyện đương tò mò khao khát muốn biết: Một lời nguyền!
Bài kèn buồn rời rợi với những âm thanh trầm trầm như những lời ai oán của lòng
người sau bao phen uất ức! Hay đó là lời nguyền đêm đêm lên tiếng làm vang động
làn không khí âm u nơi đồi núi?
Tà tà ta ta
tí a ta ta...
Lời nguyền của
những kẻ bỏ xác nơi rừng thiêng nước độc chốn sơn lâm? Mới tuần lễ trước Khanh
đi đưa một người bạn giam đến nơi yên nghỉ cuối cùng: bên sườn đồi dưới bóng một
cây lao xao cành lá rườm rà luôn luôn thì thào lời oán trách trong gió thoảng
qua. Trong đám dân Kinh bên phố, cũng như trong hàng ngũ binh lính bên đồn và
anh em chính trị trong trại giam, thỉnh thoảng lại một người từ giã cõi nhân
gian, sau những cơn sốt nóng sốt rét mê sảng. Phải chăng họ đáp lại tiếng gọi
thiêng liêng, của một lời nguyền độc địa tự đời nào vang lại?
Hồi kèn đã dứt.
Từ đó, trong tiếng thanh sắt trên đồn, tiếng mõ tre ở các điểm canh, Khanh đều
cảm thấy có liên can tới cái lời nguyền ghê gớm nào đó của người xưa. Qua kẽ
rào nứa, một vài chấm lửa bên sông còn le lói, lập lòe. Đó là những dấu hiệu
mong manh của sự sống trong một vùng như chết lịm dưới màn sương.. Khanh ngủ
thiếp đi lúc nào không biết. Và y mê thấy con thành đanh đỏ mỏ từ trên trời cao
bay sả xuống mổ vào ngôi mộ người bạn đồng trại, chơ vơ bên sườn đồi dưới bóng
cây lao xao ủ rũ.
Nhưng câu
chuyện «Lời nguyền » một hôm Khanh đã được người lính kèn thuật lại cho nghe
trong cái lều canh lúa của người Mường.
Sáng hôm ấy,
ra tới suối, Khanh thấy hiện ra một cảnh tượng rất nên thơ: Bên kia dịp cầu
tre, trong một khu ruộng khô đất nhỏ, sáu cô Mường, áo cánh trắng xiêm dài xanh
đương chậm rải gieo ngô. Từng đôi, người đi trước cầm cây hóp uẻ oải chọc xuống
đất một lỗ, người theo sau uể oải bỏ rơi vào đó một hạt ngô. Họ đi thong thả,
làm việc rời rạc như biểu diễn trên sân khấu cho khán giả ngắm nghía cái điệu bộ
nhịp nhàng của họ. Ngồi trên lều cao, hai chân quấn « xà cạp » đá đưa đánh dịp,
Chín-bảy - tên gọi tắt con số 1297 của người lính kèn - đương phùng má thổi bài
« la mát ».. Xúm chung quanh y, trên các bực thang bốn cô Mường lắng tai kính cẩn
ngồi nghe.
Thấy Khanh đến
gần, Chín-bảy vội rời cái kèn, bước xuống đón tiếp, vẻ mặt rạng rỡ, dáng bộ
dương dương đắc chí như một con gà sống giữa đám gà mái tơ vậy. Trong khi hai
người nói chuyện, các cô Mường chỉ mỉm cười yên lặng đứng nhìn. Hỏi câu gì các
cô cũng làm thinh không đáp. Chín-bảy bảo Khanh:
- Các nàng
chỉ biết có hai việc: cười và hút thuốc lào. Rồi anh xem!
Quả nhiên
lúc y đi lấy một cái điếu cầy lớn đem ra bỏ thuốc đánh diêm hút, tức thì cả mười
cô đều bỏ việc cười rú lên, chạy ùa lại. Họ xếp thành một vòng tròn, lần lượt
truyền cho nhau cái điếu cầy miệng rộng che kín nửa mặt mà rít từng hơi dài. Hết
mồi thuốc ấy thay mồi thuốc khác, cái điếu đi vòng tới vài chục lần và bao diêm
đánh đã gần cạn. Và cô nào cô ấy ngây ngất mỉm cười đầu lảo đảo.
Khi các cô
nàng lại quay về với công việc gieo ngô của họ, Khanh theo Chín-bảy lên lều ngồi
nói chuyện, và vui vẻ hỏi đến việc gia thất của người bạn quân nhân..
- Tôi đã có
vợ ở vùng xuôi, y đáp, nhưng thế nào rồi tôi cũng phải lấy một người vợ nữa ở
trên này.
Và y thêm: «
Cũng như phần đông anh em «nhà binh » ở đây. Đó là một việc bất đắc dĩ».
- Việc bất dắc
dĩ? Khanh hỏi, nghĩa là không được phép đưa vợ con ở vùng xuôi lên đây?
- Không phải
không được phép, nhưng vì đã có lời nguyền.
Khanh bỗng
thấy rùng rợn. Người lính kèn lại nhắc tới « lời nguyền » ghê gớm. Chưa kịp hỏi
thêm, thì Chín- bảy đã đưa mắt âu yếm nhìn theo các cô nàng áo trắng xiêm xanh
hoạt động dưới trời thu mà kể cho bạn nghe câu chuyện tương truyền trong hàng đội
ngũ.
Ngày xưa, thời
còn chưa chịu phục tòng người Pháp, dân Hòa bình chỉ vâng theo mệnh lệnh của
các quan lang; người Kinh cũng ít khi lên vùng này buôn bán. Đi bắt buộc dân Mường
phải theo pháp luật của mình và đóng các thứ thuế như dân Trung châu, một mặt
người Pháp đưa những ông quan lang có thanh thế nhất trong các họ lớn, như họ
Đinh, họ Quách ra làm chánh quan lang hay tuần phủ đứng cai quản tỉnh Hòa bình,
một mặt họ lập nên những đòn binh kiên cố ở khắp các yếu điểm trong địa hạt với
những toán lính khố xanh Trung Châu không biết tiếng Mường, không thuộc phong tục
Mường. Mục đích của họ là để đàn áp dân Mường và để tránh sự thân thiện giữa
nhà binh và dân bản xứ.
Đồn Vụ- bản
là một trong những đồn binh kiến thiết theo chương trình thống trị. Nó án ngữ
con đường Nho Quan- Ninh Bình. Và đóng giữa giang san họ Quách, nó lại có thể
kiểm soát những hành động của những ông quan lang có oai quyền ấy.
Với những
nhiệm vụ to tát như thế, viên quản mà người Pháp tín nhiệm cho về coi đồn, ta
có thể tưởng tượng hách dịch đến bực nào.
Có một ông,
ông quản Tăng, không những hách dịch, mà còn bệ vệ và ăn ở hành động theo lối
Âu Tây y như một quan binh Pháp vậy. Y nằm giường Hồng kông, ăn cơm tây. Lúc
nào sang phố y cũng đóng trào phục mới với hàng huy chương rực rỡ trên ngực.
Tay y cầm roi da, quay tít, miệng y huýt sáo một điệu âm nhạc nhà binh. Một con
chó tây kếch sù đi bên cạnh y; gặp nhà nào quen thuộc của chủ nó là nó chạy sồng
sộc vào khiến lũ trẻ hết cả hồn và bảo nhau:
- Quan quản!
»
Quan quản!
Tiếng ấy oai vệ như tiếng quan Sứ ở tỉnh vậy. Quan quản là chúa tể vùng này.
Quan châu, một quan lang, đối với y, chỉ như một công chức bản xử đối với quý
quan. Bao nhiêu công việc trọng đại đều ở trong tay quan quản: như thu thuế thợ,
thuế đò, thuế thân, thuế điền. Quan châu chỉ là một người giúp việc.
Nhưng tiếng
«quan quản» hình như cũng chưa vừa lòng y. Một hôm, người ta không hiểu vì đâu,
tiếng ấy bỗng đổi ra « quan đồn » rồi cứ theo cái đà ấy, chẳng bao lâu nó lại
biến chuyển thành « Cụ lớn ».
Cụ lớn hét
ra lửa! Bao nhiêu là môn hạ! Suốt ngày thì thọt trong đồn những kẻ nấp bóng Cụ
lớn. Thôi thì chẳng thiếu gì lễ lạc, tết nhất, mùa nào thứ ấy. Dùng không hết,
« Cụ lớn » phân phát cho binh lính.
Về nhậm chức
mới được hai tháng, quan quản đã lấy một cô nàng hầu người Kinh con một thương
gia có tiếng bên phố chợ. Rồi cách đó nửa năm quan lại kén luôn một lúc hai cô
nàng hầu người Mường nữa.
Cái việc lấy
nhiều vợ ấy cũng không tốn kém gì cho quan vì bọn họ đều là con nhà khá giả. Có
một điều khiến họ lo lắng sợ hãi, mỗi khi tưởng tới: " Là chẳng chóng thì
chầy thế nào bà lớn quản cũng lên đây thăm chồng. Lúc bấy giờ nếu cái tin vợ nọ
con kia đến tai bà, thì liệu bà có để cho yên không. Mà cứ theo lời tuyên truyền
và lời nói úp mở của quan quản thì bà là con nhà thế gia đại tộc. Ông thân sinh
ra bà làm Tổng đốc và đã hồi hưu. Người ta khen: «Thực là môn đăng hộ đối!» Vì
quan quản nghe đâu cũng là con một vị đường quan. Y thường kể chuyện thời niên
thìếu của y cho mọi người nghe. Nhà y giàu sang và y rất được chiều chuộng. Mới
mười hai tuổi y đã cưỡi ngựa, bắn súng, và chỉ thích có một nghề binh. Vi thế lớn
lên y đã bỏ học để nhập ngũ «làm quan quản » chơi.. Bao giờ đến đoạn này y cũng
thêm: « Làm quan văn thì biết bao giờ lên đến ngũ phẩm, thế mà làm quan võ tôi
mới ngoài ba mươi tuổi đã chánh tam rồi!».
Có lần y tưởng
tượng ra cả một thiên tiểu thuyết để tả cái gia thế nhà y, bịa đặt ra những
nhân vật đẹp đẽ và các phương diện ăn chơi hào phóng hay đạo mạo nho phong. Người
được y tả tỉ mỉ chu đáo nhất là Cụ cố và Bà lớn. Cụ cố là một hưu quan chỉ
thích đánh tổ tôm và uống chè tàu. Cụ ở một cái nhà lầu kiến trúc kiểu Tây. Trước
mặt là cái vườn hoa trồng đủ các thứ hoa quý và lạ. Trên giàn thì treo đủ các
thứ phong lan đi kiếm từ các miền Thượng du đem về. Còn Bà lớn thì tính rất tốt
rất rộng lượng, để mặc quan lớn muốn yêu ai thì yêu. Một mình bà lớn trông coi
mấy trăm mẫu ruộng thượng đẳng điền, người ăn người làm tấp nập quanh năm, nên
không rảnh rang mà lên thăm quan được. Nào đã hết đâu, quan lại còn có một người
em trai đã đậu tú tài tây và đương theo học trường Luật và một người em gái
nhan sắc tuyệt trần hiện còn đương kén chồng. Tóm lại nhà quan lớn là một nhà
danh giá và sung sướng vào bực nhất ở Bắc Hà.
Một buổi
sáng người ta thấy đến phố chợ Trào một ông già râu tóc hoa râm và một người
đàn bà vào trạc ngoài ba mươi tuổi. Cả hai đều y phục quê mùa, ông lão mặc cái
áo cánh đũi nhuộm vỏ xó và một cái quần nâu sắn cao đến đầu gối. Người đàn bà mặc
áo tứ thân mầu nâu bã với miếng đổi vai bằng lụa thâm, một cái váy chồi nhuộm
bùn và một cái yếm trắng cổ xẻ với hai giải màu hoa hiên đã cũ.
Họ hỏi đường
sang đồn, xuống phà qua sông, khó khăn nặng nhọc leo cái dốc cao, gồ ghề.
Được một quãng ông già lại đặt cái tay nải nâu xuống ngồi hổn hển và thì thầm
nói chuyện với người kia. Đứng trên vòm canh, người lính gác nhìn theo họ và
nghĩ thầm: « Lại một ông già và một mẹ đi lên thăm con thăm chồng.»
Đương gò
lưng leo nốt đoạn cuối cùng của cái dốc dài tưởng không bao giờ đến đỉnh, thì
hai người bỗng giựt mình vì một tiếng hô lớn từ trên vòm chòi ném xuống. Họ ngửng
đẫu sợ hãi nhìn lên.
- Hai người
nhà quê hỏi ai?
Không phải
vì hai người kia ăn mặc quê mùa mà người lính gọi họ là « nhà quê.» Đối với
quân đội, vì thói quen bắt chước người Pháp, chỉ có ba hạng người Việt Nam: nhà
binh, nhà pha, và nhà quê. Những người không phải nhà binh và nhà pha đều là
nhà quê. Vì thế, một thiếu nử y phục tân thời, nếu nghe một chủ lính canh kêu
là «nhà quê » thì đừng nên lấy làm lạ và phật lòng.
- Thưa thầy,
chúng tôi vào thăm ông quản.
Người lính hỏi
lại để chữa câu nói hỗn của bọn nhà quê:
- Vào hầu
quan có việc gì?
- Bẩm chúng
tôi là người nhà.
Chú lính
canh cho người vào trình quan. Một lát sau người này ra cổng hách dịch quát:
- Người nhà
thế nào mới được chứ?
- Bẩm bẩm
tôi là.... tôi là.., Người đàn bà thấy ông lão ấp úng lúng túng liền đỡ lời:
- Thầy vào
trình hộ rằng có ông cụ và người đàn bà ở nhà quê ra thăm.
Người lính gắt:
- Ông cụ!
Nhưng ông cụ có họ hàng thế nào với quan?
- Thưa ông cụ...
sinh ra quan, còn tôi là vợ... quan,
Người lính
hơi có vẻ sợ hãi vội vàng quay vào đồn, thì vừa gặp ông quản đứng trong sân ngó
nhìn ra hỏi:
- Hai bố con
lão nhà quê đến xin gì thế chú?
- Bẩm, bẩm
quan...
Người lính
không dám nói dứt câu.
- Đuổi cổ
chúng nó ra!
Câu quát
tháo to quá khiến ông già và người đàn bà cũng nghe thấy. Và nhân lúc cổng đồn
mở, họ xông vào trong sân. Thấy thế viên quản liền thét:
- Bọn nhà
quê kia đi đâu? Có biết nơi này là gì không mà dám xông xáo hử? Mất đầu như
chơi, biết chưa? Tống cổ chúng nó ra!
- Tăng! Anh
Tăng!
Ông già và
người đàn bà chỉ kêu được một tiếng thì đã bị hai người lính ấy bừa ra khỏi cổng
đóng sập cánh cửa lại.
Ông lão già
và người đàn bà lại lủi thủi xuống dốc. Họ cùng uất ức đến cực điểm nên không
ai nói với ai một câu, cả hai cùng chôn sâu nỗi căm hận trong lòng.
Ở chân đồi,
ngay bên sông, có một ngôi đền thờ Mẫu. Người đàn bà mua vàng hương vào lễ, quỳ
khấn rất lâu, thì thầm kể lể hết nỗi niềm tâm sự với Mẫu. Khi ra đường, nàng thấy
bố chồng vẫn ngồi y nguyên một chỗ, mắt đỏ ngầu đăm đăm nhìn giòng sông chảy mạnh,
quay nhanh cái guồng nước sừng sững in lên nền trời trong.
- Thôi đi về,
thầy!
Ông già
thong thả đứng dậy. Nhưng ông đi rẽ xuống ruộng chứ không qua phà. Ông bảo con
dâu:
- Tao không
muốn gặp người lái phà, vì tao đã trót bảo cho nó biết rằng tao là bố thằng
Tăng.
Người đàn bà
cũng lẳng lặng đi theo ông. Hai cha con, men bờ ruộng sang một khu rừng lao
xao, qua một cái cầu tre bắc trên suối, rồi đến ngồi nghĩ ở một bãi cát sỏi bên
sông. Sau trận mưa to đêm hôm trước nước nguồn kéo về chảy ào ào như thác. Những
thân cây từ rừng đổ về nổi lềnh bềnh, và bị giòng nước phăng phăng cuốn đi.
- Dẫu sao
thì cũng ăn nắm cơm cho đỡ đói đã thầy ạ..
- Mày cứ ăn
trước đi. Tao không đói.
Ông già đứng
lên, ra sát bờ sông đứng vịn vào một thân cây lao xao. Bỗng ông nghiêm nét mặt
dữ tợn nhìn giòng sông, thốt lời nguyền độc:
«Từ nay đứa
nào còn lên đây thăm chồng thăm con thì chết như thế này».
Dứt lời ông
gieo mình xuống sông tự tử. Và thân ông cùng với các thân cây, bị nước nguồn vô
tình cuốn đi...
Từ đó lời
nguyền vẫn thiêng. Những người cha, người vợ lên đây thăm con, thăm chồng, khi
trở về đều ốm nặng rồi chết.
Và những
binh lính trên đồn, những dân Kinh bên phố đều sống dưới sự đe dọa và sự thực
hiện của lời nguyền.
BÓNG GIAI
NHÂN
Dĩ úy phù hiền
nhi nhục ư thử
LIỄU TÔN
NGUYÊN
Chiếc xe ô
tô thùng lớn nuốt đường giải bọn tù chính trị phạm lên trại giam Vụ Bản. Đó là
một cái hòm sơn màu đen, ba mặt kín mít, chỉ hở một cửa ở phía sau. Qua lỗ hổng
ấy bụi cát ùa vào trong xe, quét một lượt trắng lên tóc, lên mặt, lên kính, lên
quần áo, chân tay ba mươi tội nhân và bốn người lính khố xanh áp giải chen chúc
chồng chất lên nhau. Trên bực bước lên xe, đứng hai người lính nữa, mà Khanh một
tù nhân, ví với hai pho tượng đá canh cổng một nơi đền thiêng, trong một ngày
gió lớn.
Khanh có cảm
tưởng ấy vì phía sau xe, cát bụi tung lên xoáy cuồn cuộn chạy theo như trong một
cơn gió lốc. Đường từ ga Đồng Giao đi phủ Nho Quan ngoắt ngoéo lượn quanh các đồi,
nhưngkhông vì thế mà xe chậm đà. Từ lúc bắt đầu mở máy cho tới lúc dừng lại,
trong khoảng ba bốn giờ đồng hồ, tốc lực của nó không thay đổi, và ở những chỗ
ngoặt, người ngồi ngổn ngang trong xe lại xô đập vào nhau.
Khanh để ý
tò mò quan sát sự biến hình đổi dạng của an hem đồng chí mà y không nhận được
ra ai nữa, mà y thấy già thêm lên hàng chục tuổi, với mái tóc và bộ ria bạc
phơ. Và y ghé tai bảo người ngồi bên cạnh: « Chúng ta đều là NGũ Tử Tư, qua một
đêm tư lự. »
Về sau Khanh
cũng quen mắt đi, và y ngồi yên không nhìn xét nữa. Cái cảnh ra đi buổi sáng vụt
diễn lại trong ký ức: Sáng nay y vui vẻ sửa soạn hành lý để cùng an hem lên đường.
Luôn ba tháng nay sống chật chội tù hãm trong bốn bức tường sàn lim, trong một
nơi không khí nặng nề hôi hám lúc nhúc những người, y chỉ ao ước được mau chóng
thoát ly cái địa ngục ấy, dù phải giải đi đâu cũng cam, đi Côn đảo hay Tân thế
giới cũng không phàn nàn. Thì nay y đã được như ý nguyện. Y còn nhớ cái lúc bị
xích tay hai người vào một đứng xếp hàng ở cổng trại giam Liêm phóng. Y tưởng
tượng ra một khoảng trời trong sáng, một khu đồi lành sạch đương chờ đợi đón tiếp
y ở một nơi xa xôi nào đó. Y không tin những lời dọa dẫm về nước độc ma thiêng.
Được rời nơi tối tăm, tanh tưởi đầy những tiếng oan khốc của người chịu cực
hình này, thì đâu đâu cũng sẽ là thiên đường, đâu đâu cũng sẽ là đất khoáng đạt
của lòng người. Và y thấy trong lòng y reo lên những âm hưởng của tự do, tuy
tay y đang bị xích khóa. Y càng ngây ngất trong hy vọng của đời sống ngày mai,
khi nhớ có lời can thiệp của một viên thanh tra mật thám Tây lai xưa nay vẫn có
chút cảm tình với bọn y, khóa xích được tháo bỏ hết.
Rồi kế đến cảnh
đi bộ từ sở Liêm phóng tới nhà ga giữa hai hàng lính khố xanh và lính mật thám,
dưới ánh đèn điện mờ nhạt trong cái chụp đèn thời chiến tranh. Lời kêu khóc của
những gia nhân đi tiễn. Y thấy buồn cười hơn là thảm thiết. Và y nghĩ: « Khóc
cái nỗi gì? Không mừng cho người ta được thoát khỏi địa ngục thì chớ, lại còn
khóc lóc! »
Ra đến sân
ga, thì cảnh tiễn đưa thành một cảnh khôi hài với cái vẻ mặt tươi tắn của người
đi và dáng bộ tang tóc của người ở. Cảnh khôi hài ấy trở nên hoàn toàn khi thấy
mấy bà vợ và bà mẹ mon men lại gần chồng gần con, người cai lính khố xanh quát
tháo mắng ầm lên. Khanh chỉ mỉm cười vui thú, vì được nhận thêm bao kinh nghiệm
trong cái đời văn chương, lúc nào cũng tò mò quan sát tâm lý loài người.
Bây giờ nhớ
lại tấn bi hài kịch ấy, Khanh còn thấy tức cười... Bổng y nghiêm nét mặt lại buồn
rầu. Một bóng giai nhân vừa lóe ra trong thâm tâm y: một bạn gái bị giam ở sàn
lim bên cạnh sàn lim y trong một thời gian vừa đúng hăm bốn tiếng đồng hồ. «
Sàn lim 18 », đó là tên giai nhân, mà cả trại giam đều ghi nhớ, nhắc nhỏm sau
khi nàng bị giải đi dâu không ai biết. Sáng hôm ấy giữa giờ anh em ở các sàn
lim và nhà câu lưu được thả ra sân thì cổng trại giam bổng nặng nề mở để dẫn
vào một giây người vừa bị bắt về. Trong đó có một thiếu nữ ăn mặc quê mùa, cũ kỹ
và rách rưới. Ai nấy chạy lại gần xem tuy bị lính mật thám xua đuổi. Trong khi
mọi người đàn ông còn bị giữ ở ngoài sân thì người ta đưa thiếu nữ vào hiên dẫy
sàn lim và ở đấy người canh ngục chào nàng bằng một dịp cười và một câu nói mỉa
mai: « Thế nào, cô lại trở về đây ư? »
Lại trở về
đây? Mọi người ngơ ngác nhìn nhau. Hỏi « cụ Quỳnh », tên người «gác» thì người ấy
vẫn cười và đáp: « Lần này là lần thứ ba cô ta đến đây. Lần thứ nhất cô ta là một
nữ học sinh mặc tân thời, lần thứ hai cô ta giả trai. Lần này, thì đó, anh em
coi, có nhà quê đặc không? Lại răng nhuộm mầu cánh kiến cẩn thận nữa cơ đấy!
Thôi lần này thì phát vãng, phát vãng cô ạ.» Một người thì thầm hỏi:
« Vậy cô ta
phạm tội gì thế? »
« Lại còn tội
gì nữa » người «gác» tiếp với một gịọng nói khinh bạc, tội làm Cách mệnh chứ
còn tội gì nữa ». Thế là bắt đầu ngay từ phút ấy, thiếu nữ chiếm lấy hết cả
lòng sùng kính của toàn thể trại giam.
« Sàn lim mười
tám » là một người bé nhỏ, xinh xắn. Đôi mắt sáng với cặp môi tươi trong khuôn
mặt trái soan, nước da nhỏ mịn tuy rám nắng vì công việc đồng áng mà thiếu nữ tạm
theo trong khi đi trốn tránh. Một luồng gió lạ như vừa thổi tới nơi giam cầm u
tối. Anh em chạy đi chạy lại nhộn nhịp xới tấp qua cái lỗ cửa con con của gian
sàn lim só 18 để ngó mắt nhòm vào trong và để hỏi thăm tin tức, nhưng thiếu nữ
chỉ giữ một vẻ mặt tươi cười và một thái độ lặng thinh. Thấy thế người gác phải
can thiệp nhiều lần: « Anh em lảng xa ra, không Tây nó xuống thì bị cùm cả lũ
bây giờ, mà tôi cũng sẽ bi khiển trách mất ».
Khanh ra chỗ
ghế ngựa riêng của Quỳnh và tò mò hỏi chuyện thì biết rằng lần bị bắt trước,
thiếu nữ đã dùng mưu để ra khỏi nơi này: nhân một người thanh tra mật thám vào
trại giam, lúc y trở về bàn giấy, thiếu nữ đã lẳng lặng đi theo. Người canh
càng tưởng viên mật thám lấy nàng ra hỏi cung, nên không giữ lại. Thế là nàng
đã trốn thoát. Câu chuyện ấy lan truyền khắp mọi nơi trong giây phút càng làm
tăng giá trị «sàn lim số 18 » lên bội phần. Và chiều hôm ấy cảm tấm lòng săn
sóc của anh em Cách mệnh, nàng đã chịu nhận quà bánh đem đến tặng nàng và đã ôn
tồn đáp lại những câu hỏi của mọi người.
Trong số anh
em luôn luôn đến thăm nàng, Khanh là người chăm chỉ nhất, và tưởng được nàng
lưu ý đến nhất. Cái tuổi dưới ba mươi ấy bao giờ cũng sẵn lòng tin tưởng, và hy
vọng mênh mông.
Nhưng bổng
giai nhân chỉ thoáng qua nơi giam cầm như chút ánh nắng tươi hé ra giửa khoảng
trời mây đen đặc, Sáng sớm hôm sau người ta đã xích tay giải nàng không biết đi
đâu, giữa nỗi ngây ngất bâng khuâng của bọn thiếu niên cách mệnh.
Khanh thốt
ra một tiếng thở dài, và đau đớn và lãng mạn nghỉ thầm: « Ước gì ta được gặp mặt
nàng một lần nữa rồi có bị đày chung thân cũng cam lòng! »
Y bỗng tỉnh
choàng giấc mộng! Xe vừa dừng lại, và ai nấy sửa soạn để xuổng.
- Đến nơi rồi
ư, các anh?
- Ngủ đấy à?
Một người hỏi lại.
Khanh mỉm cười:
- Ngủ thì
không ngủ, nhưng mà chiêm bao, chiêm bao thức.
Ra khỏi cái
hòm kín, y thấy mình đứng trong một nơi phố nhỏ, bên cạnh một giòng sông con.
- Chợ Trào
đây phải không, người ta hỏi nhau?
Nhưng viên đồn
già, chủ trại giam, đương rảo bước trên con đường giốc, ở bên kia sông. Chạy
quanh lão là một con chó, lông dài và đen. Tay lão cầm cái hèo lớn chỉ trỏ sang
bên này và ra lệnh cho người lính đi theo sau. Chỉ cái hình thủ lão hiện ra đủ
làm mất hết vui trong bọn anh em và ai nấy lẳng lặng đứng chờ, như chờ một sự bất
trắc gì sắp xảy tới, nhất ai nấy khi ở trại Liêm phóng lại đã được nghe huyên
truyền cái tiếng hung tợn cua lão ta.
Thời giờ lại
êm đềm chảy trong khu trại giam Vụ bản. Một nhịp sống đều đều khác- đã đến kế
tiếp nhịp sống đều đều trước. Những giờ dài đằng đẳng đi bách bộ trong sân trại
giam Liêm phóng đã đổi ra những giờ mệt nhọc, làm việc trên đồi cỏ, trong rừng
rậm, bên giòng nước, dưới sương lạnh hay dưới nắng hè.
Nhưng chiều
chiều, sau bữa cơm gạo đỏ, Khanh lại ngồi im lìm trên thành bể nhìn dẫy núi
Hoành sơn mà tưởng nhớ mà mơ mộng tới người gập gỡ trong hăm bốn giờ, giữa một
hoàn cảnh đau thương. Và y có cảm tưởng rằng y sẽ mãn kiếp sống ở nơi núi đồi
trùng điệp bao bọc một làn không khí âm u này với hình ảnh bất diệt của giai
nhân không bao giờ trở lại.
Nhưng một buổi
chiều trong lúc y gửi lòng yêu đi phương xa lạ, thì cửa trại giam bổng mở ra,
và người ta thấy bước vào một thiếu nữ chừng mười bảy tuổi với một gánh hàng nặng
trỉu trên vai. Anh em hấp tấp chạy ùa cả ra sân để nhận hàng vì đó là cô hàng tạp
hóa bên phố mà lần đầu tiên lão chủ đồn chuẩn lời xin của anh «trật tự » cho
phép đem hàng đặt vào thẳng trong trại để anh em khỏi phải thân sang tận bên
kia sông mang về.
Khanh lại gần
đăm đăm ngắm nghía cô hàng, và thấy nàng mơn mởn trong tuổi xuân đương dậy thì.
Thiếu nữ chợt ngẩng lên và gặp cái nhìn ao ước của thanh niên, nàng cúi đầu bẽn
lẽn, giả vờ điểm lại hàng hóa trong quang thúng.
Từ đó trong
những buổi chiều tà. Khanh ngồi rao mộng, bóng giai nhân xưa lại hiện ra bên một
bóng giai nhân mới. Và mỗi tuần lễ một lần, cô hàng tạp hóa bên kia sông lại
đem tới cho y một nụ cười kín đáo lặng lẽ và một chút ánh tươi rọi nơi giam cầm
ủ rũ.
Rồi đây, những
lúc cách mệnh tha thiết gắt gao lên tiếng gọi, y sẽ cảm thấy lòng tự tin, lên
đường xông pha trong gian khổ với bóng giai nhân huyền ảo gặp gở giữa cảnh lao
tù.
HỔ !
Co ro trong
chiếc áo tơi dài, mũ nhọn trùm đầu. Bảy hai đứng canh trên chòi cao, nép mình
sau cái cột bương để cố tránh luồng gió bấc thổi đến từng cơn. Y vừa ở trong
chăn ra thay phiên gác một giờ. Mắt y ngủ còn giở giấc chỉ muốn nhíu lại. Đêm
hôm trước, y đã thức suốt sáng đánh bạc ở bên phố Trào. Cả ngày hôm nay, ông đội
Giới lại cắt y vào việc cưa củi ở trong đồn, nên y chỉ chợp được có nửa tiếng đồng
hồ vào khoảng giữa trưa, « Giá nó để mình coi tù đi làm cỏ như mọi hôm thì làm
gì minh không đánh được hai giấc ngon lành!» Y nghĩ đến cái ổ kín đáo, khuất
gió, ấm áp, ở giữa khóm xim dại mà y lại oán lão đội. «Hừ! thằng cha nó thù
mình vì cái tiếng bạc ngửa từ tối hôm nọ! » và Bảy-hai vui thú cười lên tiếng.
Y như còn trông thấy cái cảnh tượng mở bát chạy làng hôm ấy của đội Giới, mà y
đã làm mất thể diện trước mặt dân phố. «Hèn chi mà nó chẳng để tâm thù vặt! »
Đã hai lần Bảy-hai
đánh mõ tre đáp lại tiếng khánh sắt cầm canh bên đồn. Y chỉ muốn nằm xuống mộc
lát cho đỡ mỏi mệt, nhưng y lại sợ ngủ thìếp đi mắt. Y tự nhủ: «Đêm hôm nay mà
mình bỏ một tiếng mõ thì cứ là chết với nó. Thế nào nó chả thức ngồi chờ kết quả!
Không, nhất định không chịu để nó phạt!» Y can đảm lấy gân, cứng bắp thịt lại,
thò đầu ra hẳn ngoài bức phên nứa vây che bốn mặt chòi và chỉ cao tới ngực người
lính gác. Luồng gió lạnh làm cho y đỡ buồn ngủ. Nhưng chỉ được dăm phút, rồi mắt
y lại nhắm nghiền, và y như nghe thấy tiếng ngáy của mình. Cái thói ngủ đứng đã
quen thuộc với y lắm; nhiều khi đưa tù xuống đồi làm việc, y cũng vừa đi vừa chập
chờn được.
Chợt nhớ đến
cái mưu vẫn thì thố, y hướng vào trại cất tiếng gọi:
- « Tài!
Tài!» Mọi lần khi biết chắc không sao tránh được cái giấc ngủ có tội, y đã nhờ
Tài giúp việc này; là hể không nghe thấy tiếng mõ của y đáp lại tiếng khánh thứ
hai thì nhặt một viên gạch mà ném lên chòi để đánh thức y dậy. Như thế, y có thể
bình tĩnh mà ngủ được để cứ mười lăm phút lại thức giấc đánh mõ. Nhưng lần này
y gọi mãi mà vẫn không thấy có tiếng Tài trả lời.
- « Rét thế
này, anh chàng nằm ngủ chăn trùm kín đầu thì còn biết giời đất gì nữa!» Gọi một
tên khác, lại một tên khác, vẫn không ai thưa.
« Liều! Y
nghĩ thầm, có bị phạt nữa thì đã chết đâu. Hãy làm một giấc cho thỏa vong linh
đã!» Và y định ngả lưng xuống cái ổ rơm mà y đã ngầm giải từ lâu. Nhưng lòng tự
ái của y phản kháng lại liền: « Không! không thể thế được. Bị phạt vẫn biết chẵng
sao, nhưng bị lão đội Giới phạt để trả thù thì nhục lắm. Đã có được nửa giờ rồi
làm gì không có nốt được một giờ rưỡi nữa!» Y quả quyết trong ý chí, và lại đưa
cả nửa người ra phía ngoài để tắm thể chất và tinh thần trong sương đêm giá buốt.
Bổng y rùng
rợn quay lại, một tia sáng lạnh vừa chiếu xiên qua vai. Đó là trăng hạ tuần mời
mọc, lơ lửng trên nóc đồi bình phong, và nhợt nhạt, ủ rũ, mệt mỏi như tâm hồn mệt
mỏi của y. Dưới làn ánh sáng lờ mờ, con sông Vành lấp lánh hiện ra từng khúc,
và những lùm cây trên sườn đồi in rõ hình đen. Y lưu ý ngắm cảnh vật để cố quên
cái giấc ngủ vẫn luôn luôn ám ảnh.
Một lần chợp
đi trong vài phút, y giật mình choàng thức dậy. Tâm linh y như vừa báo cho trực
giác y biết sắp xảy ra một sự gì kinh dị huyền bí. Và y chú ý nhìn xuống chân đồi.
«Ta mê ngủ à?» Y nghĩ thầm đưa tay lên dụi mắt, và nhìn kỹ lại. Không, y không
mê ngủ, quả thực một lùm cây đương từ phía ruộng thắp theo giốc đồi thong thả
tiến đến phía y. Y nghĩ tiếp liên: « Không, không phải cây. Một con vật... con
bò...Cũng không phải bò... Hay là ma?» Cái ý ma làm y mềm cả chân tay, và ngừng
cả tư tưởng. Vùng này đã nổi tiếng là xứ ma thiêng nước độc và những chuyện ma
hiện hồn trêu lính canh đêm không phải là ít.
Cái vật đen
vẫn thong thả, êm lặng tiến.Thỉnh thoảng một tiếng răng rắc cành khô gẫy lại
báo cho Bảy-hai biết rằng đó không phải là một cái bóng mà đó là một vật có
hình có chất.
Đến lưng chừng
đồi, nó dừng lại một phút rồi rẽ sang phía Nam, khuất sau hàng giậu nứa. Tự
nhiên Bảy-hai thấy vững dạ và như thoát khỏi một tai nạn, tuy vẫn chưa biết rõ
đó là con vật gì hay là ma quỷ. Bỗng một lát sau, tiếng lao xao se sẽ trên con
đường cát sỏi vòng quanh trại giam khiến y cứ nhìn xuống. Y toan kêu thét lên.
Nhưng tiếng kêu mắc lại ở cổ họng và miệng y há hốc, mắt y mở to, chân tay y
không nhúc nhích: Chỉ cách chòi y chừng vài chục thước, một con hổ to lớn, lực
lưỡng đương ung dung nhẹ nhàng đặt từng bước và tiến về phía y. Mặt nó cúi xuống
nhìn đất và luôn luôn nó hướng vào trại hít mạnh đánh hơi. Có lúc nó tò mò ghé
gần mắt vào hàng giây thép gai chắng ở hai bên lối đi và dừng lại vài giây như
để mưu tính một kế hoạch gì.
Bảy-hii im
thin thít và không cử động. Hồn vía y như đã tán loạn hay trốn biệt nơi nào và
y chỉ còn như cái xác với những trực giác quan thụ động. Nhưng dần dần y hoàn hồn
và cảm thấy lo lắng sợ hãi. Y nghe rõ tiếng thở mạnh của y, mà y cố kìm lại,
nhìn hắn. Và vì thế y thấy đêm khuya, càng mênh mông, tiếng gió khô khan càng
rít mạnh, và âm nhạc hàng sáo nứa càng thê thảm, rùng rợn.
Con mãnh thú
vẫn chậm rải bước lại gần, dáng bộ suy nghĩ, nghe ngóng, tìm tòi. Khi tới chân
thang chòi, nó dừng lại một lát rồi uể oải nằm xuống, mũi không rời phía trại
giam, Bảy-hai đã bắt đầu luận lý có trật tự. Y hết sức giữ gìn, không cựa cạy,
yên trí rằng chỉ một tiếng cạch, cũng đủ vang lên trong đêm vắng và làm cho con
hổ giật
mình vùng dậy,
chồm lên đạp đổ mấy cái cột bương chân chòi cao ngất nghểu. Vì quá lưu ý, y tưởng
tượng cái chòi lảo đảo, lắc lư, mỗi khi có luồng gió mạnh.
Nhưng một
lát sau, y thấy mắt quen đi, tim trấn tĩnh lại và trí sáng suốt hơn. Và y nhớ đến
cây súng cầm trong tay, nghỉ đến bắn vào đầu con vật một phát. Y dương súng ngắm,
ngón tay đặt vào cò, run run, do dự không dám bấm tuy đã chợt nhận ra rằng chưa
kéo « qui-lát » để đẩy đạn lên nòng. Rồi y lại rón rén chống súng xuống, mắt
gián vào cái khối đen ở ngay dưới chân và cách y không đầy mười thước. Câu chuyện
huyền bí về hổ mà một người lính Thổ đã kể cho y nghe như vụt hiện ra và lần lần
tự bày ra trước mắt y. Y tưởng trông thấy người đi săn tự buộc thân vào cành
cây cao, chĩa súng bắn xuống con vật thần, rồi nước ở đâu té vọt lên như mưa
làm cho kẻ xúc phạm mờ cả mắt không nhìn thấy gì nữa trong khi ấy thì con hổ
nói thành tiếng người mà mắng nhiếc ầm ỹ: « Mày định giết ông mày, mày định giết
cha mày à?» Câu chuyện đã làm cho Bảy-hai và anh em trong hàng đội cười lăn cười
lóc. Nhưng lần này ôn lại, y không dám cười nữa dù chỉ mỉm cười thầm. Ngắm
nghía cái hàm oai nghiêm, hai chân trước duỗi ra bệ vệ, cái đuôi hách dịch đập
bên sườn, y cảm thấy tôn kính, khiếp sợ tràn ngập trong lòng và không còn ngờ vực
một sự hoang đường gì về cái sức mạnh phi thường ấy.
Bây giờ y đã
hoàn hồn hẳn, và mũi y đã ngửi thấy mùi hôi nồng như mùi phân bò ú. Hắn lợn giọng
và chỉ chực nhổ bọt nhưng vẫn cố giữ lại được. Y tự nhủ: « Nó mà nghe tháy tiếng
nhổ tất sẽ ngửng đầu nhìn lên. Và nếu nó biết trên này có người thì nó rất có
thể rung chuyển cái chòi ọp ẹp này để mình rơi xuống mà ăn thịt. Các ngài mà bụng
đói thì phải biết các ngài liều » Ý nghĩ ấy lại càng làm cho Bảy-hai lo lắng, mắt
bình tĩnh. Nhưng chỉ trong vài phút. Rồi những câu chuyện hiền lành về hổ dần dần
nhớ lại khiến y trở nên vững tâm và can đảm nữa. Theo lời nhiều người Mường y
quen biết thì con hổ chỉ là một con chó lớn nhút nhát và không dám gần người:
Nó cũng giống như loài chó, hể chạy thì đuổi, hể sấn lại thì nó lùi. Điều nhận
xét ấy đã được chứng thực: cách đây mới chừng một tháng, một con hổ - có lẽ
chính con này cũng chưa biết chừng- đến rình ở sân nhà ông giáo Quý bên phố. Nửa
đêm bà giáo thức giấc, dậy ra hiên trông thấy nó và sợ hãi chết ngất đi. Nnưng
con hổ cũng sợ hãi chạy trốn.
«Phải, cái
giống này chỉ chống lại người khi nào người định giết nó» Bảy- hai nghĩ thế và
lấy làm mừng rằng ban nẫy đã không lên đạn bắn nó. Bắn mà trượt hoặc làm nó bị
thương thì cứ mà chết với nó thôi. Trong lúc hồi hộp mình có thể run tay bắn chệch
đích. Có phải bắn bia đâu mà bình tĩnh ngắm kỹ được!» Ý nghĩ bắn bia làm y mỉm
cười quên bẵng con hổ để nhờ đến anh Mười - bốn kỳ vừa rồi, bắn tám phát không
những không trúng đích mà không trúng cả cái liếp mang đích...
Y giật mình
như chợt tĩnh một giấc chiêm bao: Tiếng khánh sắt bên đồn và tiếng mõ tre các
chòi canh vừa đánh thức y dậy, kéo y về với thực tế, với nhiệm vụ, với bổn phận.
Thì ra mới qua chưa đầy mười lăm phút thế mà y tưởng đã sống trong hàng giờ dài
đằng đẵng. Y vội cằm dùi dơ lên nhưng lại rón rén đặt xuống không dám đánh. Tiếng
khánh và tiếng mõ nhắc lại một lần nữa. Y vẫn im lìm không đáp lại.
«Được, mai
ta sẽ trình vì sao thiếu tiếng mõ ở chòi này. Mà có bị phạt nữa thì đã sao! »
Một lác sau,
ở truớc cổng đồn, một tia ánh sáng thoáng rạch một vệt dài lên tấm sương đêm. Bảy
-hai mỉm cười nghĩ thầm:« Đích đèn pin của lão đội rồi! Được cứ đến đây mà bắt...
hổ! » Thực vậy, đội Giới vẫn thức để rình. Khi thấy thiếu tiếng mõ ở chòi gác
Đông Bắc trại giam, y đoán ngay rằng Bảy-hai đã ngủ. Y liền sang đi « rông » để
bắt quả tang kẻ thù phạm tội.
Ánh sáng kín
đáo lập lòe, khi chúc xuống đất, khi vọt lên trời, thong thả tiến lại gần trại
giam. Bảy-hai cúi xuống nhìn. Con hổ vẫn nằm yên một chổ, không nhúc nhích. Y bắt
đầu lo sợ cho tính mạng người kia. Mối thù, y vụt quên để chỉ nghĩ tới tai nạn
xảy đến cho kẻ đồng loại do một loài khác, một loài tàn ác gây nên. Lòng trắc ẩn,
tình nhân đạo đến với y một cách tự nhiên, một cách ngẫu nhiên. Y không luận lý
nữa, không cân nhắc nữa, chỉ tìm cách cứu sống một con người, thoát khỏi nanh
vuốt một con vật. Ánh sáng đã xuống hết giốc và sắp rẽ vào con đường vòng quanh
trại, để đi thẳng tới chòi canh của y. Ở chân thang, con hổ vẫn nằm im, đuôi se
sẽ đập sườn như báo cho biết rằng nó không ngủ vì có lẽ đã sửa soạn để vồ cái mồi
ngon lành đương tiến lại gần. Bị hàng giậu nứa cao che khuất. Bảy-hai không
nhìn thấy lửa sáng đèn bấm nữa, nhưng y đã thoáng nghe rõ tiếng lạo xạo xa xa của
bước chân trên sỏi và cát. Chỉ vài phút nữa… Y hoảng hốt vội thét:
- Đứng lại!
có hổ đấy!
Rồi vừa rướn
mình nhìn qua ngọn hàng rào nứa, y vừa tiếp luôn:
- Có Hổ! Hổ!Hổ!
Lúc cúi nhìn
xuống thì con hổ đã biến đâu mất. Đằng xa tiếng chân chạy mau và nặng. Ngay lúc
ấy, cả trại giam xôn xao huyên náo..
- Cái gl thế!
- Hổ! lời
đáp của Bảy-hai từ trên chồi ném xuống,
- Hổ à! Hổ
các anh ạ!
- Hổ đâu? -
Nó đâu!
Anh em nhốn
nháo chạy cả ra sân, lại gần chổ canh góc Đông Bắc.
- Có hổ thực
à Bảy- hai? Tài hỏi, vì đã nhận được tiếng người lính quen. -
- Lại chà thực!
- Nó đâu?
- Nó đi rồi!
Nó nằm gần nửa tiếng đồng hồ ở ngay chân thang
- Nó rình bắt
lợn của căng rồi, vì chổ ấy sát ngay bên chuồng lợn.
- Thế sao
không bắn? Súng không có đạn à?
- Có nhưng
không dám bắn vì sợ tiếng nổ làm náo động cả trại bị tù thì có mà bỏ mẹ!
- Bị gì thì
bị chứ mấy khi gặp mồi ngon thế, mà đi bỏ lỡ. Rõ đáng tiếc!
- Tiếc à I
Cu cậu sợ co rúm cả chân tay lại rồi còn bắn với biếc gì,
Câu khôi hài
của Hải làm ai nấy phá lên cười và Bảy- hai đáp lại tức tối:
- Xừ nào sỏ
siên moa thế hử?
- Không phải
tôi sỏ siên anh đâu, anh Bảy- hai ạ. Nhưng sự thực là thế. Tôi đi bắn đã nhiều,
giết có tới vài chục hươu nai mà tôi cũng xin thú thực rằng giá có gặp hổ vị tất
tôi đã dám bắn. Nói vụng cac ngài chứ các ngài oai linh lắm! Đến rào vườn Bách
thú nhìn các ngài đi đi. lại lại trong chuồng, cũng đã thấy rờn rợn rồi còn nói
chi bắn ngài nữa.
Ai nấy lại cất
tiếng cười, và lần này cả Bảy- hai cũng góp vui.
- Thực thế đấy,
các anh ạ, Hải kể tiếp. Tôi có người bạn ngồi rình hổ ở trong một gian nhà, qua
cái cửa sổ có chắn song sắt kiên cố. Lúc hổ đến anh ta dương súng ngắm bắn,
nhưng thấy nó đi đi lại lại oai nghiêm dưới ánh trăng mờ, anh ta sợ hãi mướt mồ
hôi, rồi ngất đi, đái cả ra quần.Tỉnh dậy thì con hổ đã đi mất. Các anh thấy
chưa, ở trong một nơi vững chắc như thế, và dù có bắn hụt cũng không nguy đến
tính mạng thế mà còn không đủ can đảm mổ cò đấy, huống hồ là đứng trên cái chòi
mỏng mảnh, ọp ẹp kia.
Cười lại nối,
làm ầm ỹ cả đêm khuya thanh vắng và giá lạnh.
- Ông đội có
vào trong căng không, các anh?
- Không.
Sao? Anh em ngơ ngác không hiểu vì sao Bảy-hai lại hỏi một câu lạ lùng như thế.
Nhưng Bảy
Hai chỉ đáp lại sự ngơ ngác của anh em bằng một nụ cười bất tuyệt.
TÂY XÔNG NHÀ
Tết năm 1930
ở Ninh Giang, tôi đã được Tây xông nhà.
Người Tây đó
tên là Heineshilk- ấy là tôi theo vần đọc mà viết ra, chứ tôi cũng chưa trông
thấy tên hắn trên giấy bao giờ. Theo lời đồn, hắn là một người Áo can án tử
hình bỏ trốn sang nước Pháp xin đăng lính « Lê dương » đi Maroc dự chiến. Mãn hạn
hắn nhập Pháp tịch và được bổ đi có một đòn lính khố xanh.
Nếu muốn tìm
một kiểu mẫu tiểu nhân, thì hắn thực là một người hoàn toàn. Đối với dân gian,
hắn hống hách, đàn áp, bóc lột, chuyên chế như một ông vua chuyên chế. Trái lại,
đối với ông Sứ hay ông Giám binh thì hắn quỵ lụy, nịnh nọt, đút lót, trung
thành như một tên mọi trung thành với chủ. Nhờ đó mà hắn thăng chức rất nhanh
chóng và được đổi về đòn quan trọng này, kiêm chức quyền đại lý Ninh giang.
Quan đại! Hắn
sung sướng khi nghe người ta chào mình bằng hai tiếng Việt Nam ấy. Có việc gì
vào tòa mà kêu hắn là Monsieur le Délégué thì thế nào cũng xong tuy nếu việc phải
mất tiền thì vẫn mất tiền như thường.
Vô phúc cho
ai không biết, đi kêu đúng chức hắn “Monsieur le chef de poste’’ hay tôn hắn
lên « Monsieur L’lnspecteur » nữa!Một là hắn im lặng không đáp, rồi sau này tìm
cơ hội báo thù. Hai là hắn hét đinh lên làm mình mất thể diện trước mặt mấy
viên thư ký của hắn.
Về chữ Đức hắn
học đến bực nào tôi không rõ. Nhưng về chữ Pháp thì tôi đã may mắn được đọc văn
của hắn.
Vào dịp
khánh thành nhà thương mới, ông Y sĩ ở Ninh giang chẳng hiểu vì lười hay vì cớ
gì, có nhờ tôi thảo hộ bài diễn văn. Bài diễn văn ấy phải đem trình «quan đại »
để ngài kiêm duyệt. Vì thế mà tôi đã được đọc một đoạn hắn thêm vào. Đó là những
lời tán tụng quan chánh sứ, quan phó sứ, quan lục lộ v.v...mà tôi đã vô tình bỏ
rơi. Tôi đây tôi lại vô tình mỉm cười khi xem thấy văn pháp lính tây của quan đại.
Nói chi những chữ viết sai, đến những mẹo mực thông thường sơ cắp nhất quan
cũng «măng phú »,
Cái mỉm cười
ấy và lời khen kín đáo của tôi được hân hạnh lọt tai quan. Và phải biết! Cái tức
giận, cái căm thù của quân dốt, nhất quân dốt ấy lại là môt quan «cai trị », một
quan đại lý hách dịch, oai quyền như một vua con. Cái căm thù ấy càng cố nén
lâu bao nhiêu thì khi bừng ra càng mãnh liệt bấy nhiêu.
Ai đã đọc tập
truyện ngắn của Daudet hẳn thấy cái móng bò của con La dữ dội đến bực nào, sau
bảy năm sửa soạn để chờ ngày thi hành..
Viên đại lý
của tôi không kiên gan bằng con La. Hắn chỉ chờ đến hôm mồng một Tết nguyên đán
để đem ra thi hành cái móng bò của hắn. Nhưng dù thế cái móng bò của hắn vẫn chẳng
kém cái móng bò của con La về phần mãnh liệt cũng như về phần hiểm hóc.
Tối hôm mồng
một Tết ấy, giữa lúc chúng tôi đương xum họp vui cười xung quanh bàn bất gia
đình thì một người lính cảnh sát lên gác nói cho chúng tôi biết có « quan. đại»
đến.
Quan đại đến?
Tôi kinh ngạc tự hỏi: «Đến chúc Tết mình chăng? » Tôi thừa biết hắn ta chẳng ưa
gì tôi, tôi lại nhớ vẻ mặt hằn học của hắn khi hắn liếc nhìn tôi. Nhưng gặp
nhau ngoài đường đôi bên vẫn tươi cười chào nhau như hai người bạn sơ «Bonjour
monsieur le délégué! » « Bonjouur monsieur G!» Vậy thì hắn có thể nhân dịp Tết
Nguyên Đán đến chúc mừng mình lắm, cũng như vào dịp Tết Tây dân phố đến chúc mừng
hắn vậy.
« Mà hắn đến
chơi mình vào giờ này (9 giờ tối) có lẽ để đôi bên hàng phố khỏi thấy sự hạ
mình của hắn đi chúc Tết một người Việt Nam? »
Tôi chưa kịp
nghĩ dài thêm đã bừng tỉnh ngộ. Vì người lính chờ mãi không thấy tôi trả lời liền
tiếp:
- Thưa ông,
quan nói nếu ông không bằng lòng để quan khám ngay tối hôm nay thì sáng mai
quan đến sớm cũng được.
Chết chưa!
Thì ra quan đến khám nhà! Mà lại khám nhà vào giữa hôm mồng một Tết! Các bạn của
tôi đã thấy cái móng bò của « quan đại tôi » hiểm độc thế nào chưa? Chừng ngài
biết - hoặc có kẻ xui ngài điều ấy - ngày đầu năm người Việt Nam mình sợ rông,
không muốn một sự không may gì xảy ra. Mà sự khám nhà thì cố nhiên là một sự
không may rồi! Các bạn hẳn cho rằng tôi tức uất lên phải không? Không, tôi chỉ
tức cười thôi, và quả nhiên tôi phá lên cười vui vẻ mà trả lời người lính cảnh
sát:
- Ai lại đi
làm phiền quan phải trở lại một lần nữa như thế.. Ông xuống mời quan lên cho, để
tôi ở trên nầy sửa soạn đón tiếp ngài.
Trong khi
người lính bước xuống thang gác, các em gái tôi cuống quít, toan thu xếp bài lại.
Tôi vội ngăn cản:
- Không! Cứ
để y nguyên! Thu dọn đi, nó sẽ cho rằng mình sợ cái oai nó. Thế nào người lính
cảnh sát chẳng báo cho nó biết chúng mình đương rút bất.
Một lát sau,
lão đại lý, trong bộ trào phục đầy kim tuyến, cao lớn, sừng sững hiện ra trước
ánh đèn măng xông. Theo sau hắn là viên tri phủ Ninh giang với cái bài ngà chức
tước vừa tô son lại lủng lẳng trước ngực. Theo sau viên tri phủ là viên thông
ngôn tòa đại lý, cặp mắt hấp háy chớp trong đôi mục kính cận thị. Theo sau viên
thông ngôn,Ià hai viên cảnh sát với cái bao súng lục oai nghiêm đeo bên sườn.
Lão đại lý
tươi cười đáp lại cái chào của tôi và hỏi:
- Tôi đến
khám nhà ông vào giờ này là trái pháp luật, vì thế tôi đã cho hỏi xem ông có bằng
lòng không đã rồi mới lên. Nhưng ông nên hiểu cho rằng tôi làm thế là vì có
lòng tốt đối với ông. Vào giờ này dân phố đều đã ngủ cả không ai biết nhà ông bị
khám. Chứ giữa ban ngày thì người ta xúm lại bàn tán và như thế ông sẽ mất thề
diện nhiều lắm.
Tôi mỉm cười
cảm ơn cái nhã ý của quan đại... và quan phủ, tôi nói thêm và quay lại nhìn cái
ông quan có vẻ mặt lạnh lùng, bình thản như không từng quen biết tôi dù chủ nhật
nào ông ta cũng mời tôi vào phủ đánh tổ tôm với «cụ cố».
- Chà các
người đánh bạc! Ông đại bắt đầu.
- Phải, đó
là một bàn bạc gia đình để mua vui trong dịp Tết. Đây xin giới thiệu ông T. em
giai tôi, ông M. cũng em giai tôi, ông B. em rể tôi.Còn đây bà T. bà M. bà B.
và vợ tôi.
Tôi gắng hết
sức để giữ bình tĩnh nhưng tôi vẫn tự thấy tôi làm sao ấy. Các bạn cũng hiểu
cho rằng khi người ta cố nén lòng căm tức thì người ta khó mà tự chủ được cử chỉ
ngôn ngữ của mình.
- Thôi cũng
được, ông đại tiếp, nhưng bắt đầu từ ngày kia mà đánh bạc thì sẽ bị bắt giam.
Rứt lời, hắn
quay sang hất hàm hỏi ông phủ:
- Có phải thế
không quan phủ?
- Bẩm chính
thế, thưa quan đại.
- Bây giờ
thì chúng ta đi làm bổn phận của chúng ta.
Việc bổn phận
của họ là rút hết ngăn kéo ra, mở hết các tủ ra, lục tung hết các sách vở, quần
áo vứt tung ra đầy sàn gác. Khi vớ được mấy tập ảnh của tôi, mặt lão đại lý
sáng rực lên sau đôi kính cặp mũi:
- À! tôi biết,
ông là một nghệ sĩ về nhiếp ảnh. Hẳn ông có đủ các ảnh kỷ niệm gia đình.
Vừa nói, hắn
vừa mở, vừa chăm chú tìm tòi. Rồi hắn thì thầm hỏi ông phủ:
- Ông có biết
mặt nó không?
- Thưa
không.
Lão đại lý lắ
đầu chán nản. Bổng hắn quay phắt về phía tôi sừng sộ:
- Ông biết
tôi tìm ảnh ai không?
- Không, tôi
biết sao được.
- Thôi ông đừng
vờ. Ảnh tên C... đâu, ông phải trở ngay cho tôi biết nếu không tôi sẽ có cách.
Tôi thừa hiểu
bọn thực dân đương đi lùng kiếmảnh của C... một nhà cách mạng quan trọng, người
vùng này. Nhưng tôi cũng hỏi:
- C…nào thế,
thưa quan đại?
- C…nào? Ông
muốn biết C. nào à? C... trưởng ban ám sát của cái đảng mà ông rất quen thuộc.
Không những tôi biết ông có ảnh của C... mà tôi còn mới được tin hắn trốn về
đây ăn tết với ông nữa kia.
- Vậy xin
ông cứ lục lọi khám xét thực kỹ có hay không thì ông sẽ rõ.
- Ông nói lý
với tôi, phải không? Ông nên biết những ý tưởng bài pháp, chống quan lại của
ông chỉ sẻ đưa tai hại đến cho ông. Rồi ông sẽ thấy.
Tôi đã thấy.
Tôi đã thấy rằng trả tời hắn chỉ là một việc mất thì giờ vô ích, mà lại thêm
khó chịu cho mình và cả cho hắn. Từ đấy tôi chỉ lạnh lùng im lặng đứng chứng kiến
việc lục lọi khám xét hoặc mở khóa rương nọ, ngăn kia. Trong khi ấy thì M. miệng
ngậm cái « pipe » thuốc lá to tướng, thản nhiên đi đi lại lại trong căn phòng
như con hổ trong cũi sắt trên vườn bách thảo.
Mãi đến 12
giờ khuya việc khám nhà mới xong. Bọn «nhà nước » ra đi, để lại cho chúng tôi mấy
gian phòng tung tóe, bừa bộn như vừa bị giặc cướp đến phá phách.
Mấy anh em
chị em lặng lẽ nhìn nhau. Bỗng tôi phá lên cười bảo vợ tôi:
- Thôi năm
nay thì tha hồ mà rông! Và ai nấy đều vui vẻ cười theo. Em gái tôi trách tôi:
- Ai bảo anh
cứ trêu tức nó, khiêu khích nó vào.
Có chăng từ
hôm ấy mới bắt đầu một chương trình khiêu khích của tôi. Tự nhiên tôi trở nên một
nhà viết báo để thỉnh thoảng gởi bài đăng chơi trên báo Annam Nouveau hay Trung
Bắc Tân Văn. Trong những bài vớ vẩn ấy tôi không hề đá động tới lão đại, nhưng
mỗi lần thân ra nhà Bưu chính gửi thư, tôi lại vui sướng và hóm hỉnh nhìn đùa
lão chủ sư để nghĩ thầm: «Thế nào chốc nữa thầy trò chúng mày chẳng mở thư của
tao ra xem trước! »
Và cũng từ
hôm ấy dân phố Ninh Giang nghiễm nhiên thấy tôi trở nên tay kình địch ghê gớm của
« quan đại». Cuối năm ấy tôi bỏ nghề luôn để theo nghề văn. Các bạn đã thấy sự
khám nhà đầu năm rông đến bực nào và cái móng bò của một con La thuộc địa có
công hiệu phá hoại đến bực nào chưa?
QUAN CÔNG SỨ
Ngày vui nhất
ở trại giam Vụ bản là ngày phát thư, mỗi tuần lễ một lần. Cái vui âm ỹ, huyên
náo, công cộng chứ không phải cái vui kín đáo âm thầm, riêng biệt của những kẻ
xa nhà nhận được tin tức những người thân thích.
Người lính
trạm, lưng đeo cái túi vàng bao giờ cũng được anh em chào mừng bằng một tiếng
hoan hô, trong khi y leo con đường giốc lên đồn, qua hai quả đồi cỏ tranh có
anh em làm việc. Mấy người mắc bệnh tê, lưu lại trong trại ngồi phơi nắng trên
mặt bể, vội đứng dậy rướn nhìn qua ngọn rào nứa nhọn, mỉm cười, Bắt đầu từ giờ ấy,
hơn trăm trái tim hồi hộp mong chờ …
Tiếp đến giờ
nghỉ, anh em về trại giam, quên cả rửa mặt, rửa tay, ai nấy đăm đăm nhìn sang
phía cổng đồn.
- À! Kia rồi!
Đó là lão đồn
già và ông quản sang điểm lại số tù nhân, và cố nhiên mang cả thư sang phát.
Ông già cao lớn lực lưỡng tóc bạc và tơ dựng lên trước gió, mỉm cười ranh mãnh
nhìn khắp mọi người, trong khi ông qnản thân hình lủn mủn, giơ ngón tay trỏ lẩm
nhẩm đếm.
- Com-bờ-lê,
me-sừ sếp-đờ-pôt.
Tức thì «
Me-sừ sếp-đờ-pôt » mở cái cặp bìa ra gọi tên hay gọi sẽ từng người có thư, để
đưa cho một hoặc hai cái phong bì đã mở. Mỗi khi gặp có lời chú thích phê trên
phong bì, y đều không quên bình lên cho anh em cùng nghe để mà cùng cười: «Kiểm
duyệt một trang, vì gia nhân đã đụng chạm tới tình hình Hà nội». « Số... sẽ phải
bảo người nhà không được viết dài quá ». « Vợ số... làm gì mà gửi cho chồng những
ba cái thư một lúc. Đi gửi trả lại một cái..v..v »
Những lời
phê ấy toàn là thủ bút của ông Công sứ Hoa - bình tự kiểm duyệt lấy tất cả thư
tín vãng lai giữa, bọn tù chính trị Vụ-bản và những thân thích bạn bè của họ. Ở
ngoài phong bì, lời văn còn bình thường, chứ ở ngay trong thư thì mới thực là
những công trình văn chương kiệt tác về phương diện triết lý nghiêm trang cũng
như về phương diện khôi hài trào phúng. Người ta cho biết rằng bao giờ « quan»
cũng kiểm duyệt thư từ vì đêm trong khi quan nằm mơ mộng bên cạnh cái khay đèn
thuốc phiện. Thực vậy, phải có tinh thần sáng suốt của một đồ đệ ả Phù-dung mới
nghĩ ra được những lời cẩm tú.
Chính vì thế
mà cái vai nhận thư nhà bao giờ cũng ầm ỹ, huyên náo; Anh em đem những lời
«quan» phê ra phô nhau để mà cùng cười.
- Nghe đâu hắn
là một người Tây lai.
- Không, hắn
lai có một phần ba Việt Nam, vì, bố hắn là « Pháp chính tống » chỉ mẹ hắn lai
thôi.
- Thế thì một
phần tư chứ một phần ba Việt Nam thế nào đvrợc.
- Một nửa, một
phần ba, hay một phân tư thì cũng là lai, chứ còn là gì nữa..
- Tôi muốn gặp
thằng cha ấy quá, để xem mặt mũi nó thế nào mà nó láu cá láu tôm, nghịch ngợm đến
thế.
Anh em đến Vụ
bản được hơn một tháng rồi mà y vẫn chưa về, tuy đã ba lần lão đồn già báo cáo
cái tin quan công - sứ sắp tới thăm trại giam, khiến lá đơn thảo ra để yêu sách
điều nọ điều kia nằm ẹp mãi trong cái cặp da của anh trật tự. Sự mong mỏi đã
làm sốt ruột nhiều người, và họ đã thốt những lời nguyền rủa, oán trách. Nhưng
trong khi ấy thì thư tín vẫn đều đều tới đúng kỳ hạn và vẫn kèm thêm những lời
phê phán, soi mói, có duyên.
- Thằng cha
ý chừng là một văn sĩ trào phúng các anh ạ.
Tài cười ngặt
nghẹo, đưa ra phô một cuốn tiểu thuyết chữ Pháp mà y vừa nhận được với một câu
Pháp văn an ủi để trên đầu sách của người bạn Hà thành gửi tặng. Câu văn cầu kỳ
và kém cõi ấy được tăng giá trị và khiến người ta lưu ý do một chữ «lu » vắn tắt,
dưới ký tên người phê, với giòng chức tước « công sứ nước Pháp tại Hòa-bình »
Và Tài, giải thích, Tài, mà lão đồn già mệnh danh là « nhà triết học số một »,
và yên trí rằng trong đầu óc chứa đầy những tư tưởng nguy hiểm cho nền thống trị
thực dân:
- Nó chửi chữ
đấy, các anh ạ. Nó để thế là nó muốn bảo thầm ông bạn tôi rằng nó đã đọc kỹ cái
dốt và cái ngông của người tặng sách. Thằng cha này bất trị!
Tiếng cười
thét lên ồn ào. Ở cái nơi thiếu tự do ấy, người ta rất thích có những ngôn ngữ
cử chỉ tự do. Và người ta xúm nhau lại đem cái anh chàng tặng sách ra làm thịt:
- Thì sao
không dùng ngay chữ Việt mà lại đi viết chữ Pháp để nó chế diễu vào mặt cho.
- Rõ sính chữ
mà lại sính chữ không ra hồn!
- Đọc xong
tiểu thuyết, gửi trả về cho nó xem!
Ai nấy lồng
lên để nói một câu ác nghiệt cho hạ đôi chút cái khổ bị giam cầm. Họ như lúc
nào cũng chỉ chờ dịp để được trút cái giận, cái tức lên một cái gì.
Từ đó người
ta lại càng nóng lòng muốn gặp mặt nhà kiểm duyệt phê bình thư tín,
Rồi khi
không ai nghĩ đến y nữa thì bỗng một hôm y về, về bất thình lình không báo trước,
mà cũng không một ai ở trại giam biết y về lúc nào, vì không thấy cờ ô tô lên dốc
đồn.
Buổi chiều,
trước giờ kèn nghĩ việc, anh em đã được về trại để đón tiếp quan Công sứ. Có
người ngơ ngác hỏi:
- Ông ta về
lúc nào?
Một người
lính đáp:
- Cụ lớn về
lúc mười một giờ nhưng ô tô phóng thẳng tới dinh quan Châu,
- Sao lại
không đến đón trước nhỉ?
- Đến Châu để
còn hút chứ!
- Nghe đâu
ông ta cũng không ưa gì lão đồn già.
Lại được một
dịp cho dân trại giam bàn tán. Nhưng họ cũng sửa soạn cuộc đón tiếp cho được
long trọng: Quét qua cái nhà, xếp lại đống củi, vất gọn cái màn. Rồi sau khi
thay mặc những bộ quần áo sạch sẽ, tươm tất, họ ra đứng xếp hàng ở sân.
Một nửa giờ
mong đợi. Một tiếng hô ở cổng. Tiếng rít hãm máy xe. Rồi cổng trại mở. Im lặng,
mặt đỏ gay miệng mỉm cười, quan công sứ tiến vào, theo sau là lão đồn già, ông
Tri châu, ông bác sĩ và ông thương tá Hòa bình. Đó là một người trung bình đối
với dân bản xứ nhưng bé nhỏ đối với các quý quan. Đôi mắt lờ lờ xanh, cặp môi mỏng
dính và cái mũi rất lõ thuộc giòng cha, nhưng mớ tóc dẹp hung hung đen thì
không thề không Việt Nam được.
Sau mấy lời
giới thiệu của lão đồn già, anh trật tự tay cầm lá đơn tiến lên, đi lại gần ông
chủ tỉnh. Bổng toàn thể anh em trong trại như bị một gáo nước lạnh dội vào gáy.
Cái cử chỉ và lời nói thứ nhất của người Pháp lai đã cắt phứt ngay mối cảm tình
gây ra bởi những Iời phê có duyên trong các lá thư. Y xòe bàn tay xua anh trật
tự ra và vẻ mặt nghiêm khắc y nói:
- Anh nên biết
rằng anh đương đứng trước mặt quan công sứ.
Câu nói trịnh
trọng, Khanh thấy ngụ một ý nghĩa khôi hài, và y bấm người đứng bên cạnh mỉm cười
thầm: « Hay hắn lại diễu cợt đùa bỡn bọn mình như hắn vẫn làm trong công việc
kiểm duyệt phê bình thư? »
Nhưng không,
hắn không bỡn cợt, vì hắn đã cất cao lời diễn thuyết:
- Hỡi các
phu, các anh có biết không, các anh nhỏ mọn quá! Tôi là người thông minh hơn
các anh, nhiều học vấn hơn các anh, lại con nhà quý phái hơn các anh nửa, tôi bảo
cho các anh biết rằng các anh chỉ là những đứa trè nhỏ mọn.. » Bài diễn văn,
trong nửa tiếng đồng hò, kéo dài một giọng gay gắt mỉa mai như thế để kết luận
rằng:
« Toàn trại
sẽ bị phạt nửa tháng không được gửi thư về nhà, vì trong khi quan công sứ đi dưới
đường thấp có mấy kẻ đã dám ngồi vắt vẻo trên ngọn thang leo vô lễ nhìn xuống.
»
Đọc xong bài
diễn văn, ném xong cái lệnh phạt, viên cai trị quên cả bản yêu sách của trại
giam, hầm hầm bỏ sang đồn, đem theo đoàn quan chức rầm rộ kéo đi.
Thoạt đầu,
trại giam như thốt nhiên bị một làn không khí độc là xuống bao phủ. Ai nấy thẫn
thờ ngồi im. Có nguời như lên cơn điên xé nát bức thư vừa viết ra: « Nó không
cho phép gửi thì để làm gì. Chó thật!ngày mai là ngày thư!» Chính cái cử chỉ
cáu kỉnh ấy đã làm anh em hết buồn và đồng thanh phá lên cười vui thú. Họ cười
to quá, khiến chú canh cổng phải vào can thìệp: « Se sẽ chứ các ông, cụ lớn mà
nghe thấy thì chết cả nút bây giờ ». Anh em đáp lại bằng dịp cười nửa. Và một
người giọng như say rượu nhè nhè:
- Cụ lớn à?
Cụ lớn anh lớn lắm đấy! Chúng tôi bé nhỏ bì sao kịp!
Lịnh lên giọng
tây nhại đoạn diễn văn: «Các anh nhỏ mọn quá! Tôi thông minh hơn, nhiều học vấn
hơn, lại con nhà quý phái hơn ».
Lại một dịp
cười nữa. Trại giam trở nên tấp nập, ồn ào như một ngày hội. Và trong lúc người
ta vui thú, người ta quên khuấy cái thất vọng chưa đạt được một yêu sách nào.
Nhưng cuộc vui nào cũng có giới hạn và rồi người ta cũng nghĩ đến cái điều thắc
mắc. Ý cái anh chàng đa nghi và nhát gan bao giờ cũng tìm ra một nguyên nhân tưởng
tượng cho bất cứ một việc gì.
- Tôi đã bảo
các anh rằng phải đem bản yêu sách trình ông đồn đã, các anh không nghe, quả
nhiên nó xui xiểm lão sứ trị mình.
- Trị thế
quái nào được mình!
- Rồi gửi thẳng
bản yêu sách ấy cho sứ.
- Nếu không
ăn thua thì hôm nào người nhà lên nhớ đem về Hà-nội gửi cho thằng sứ. Cho toàn
quyền nữa ấy l
Một người thốt
ra một câu trách móc:
- Chỉ tại mấy
anh đi leo lên ngọn thang ngồi nhìn xuống nó.
- Ai đấy? Ai
mà vô lý thế nhỉ?
Lịnh gắt:
- Ai thì việc
cũng qua rồi. Nó đã muốn tìm cớ để ra oai với chúng mình thì chẳng có cớ ấy nó
cũng có một cớ khác, Nguyên nhân việc này không phải ở cái thang mà ở chỗ khác,
các anh có biết không: nó ngờ bọn mình tuyên truyền rủ rê đội, cai và binh lính
ở đây.
Câu chuyện lại
xoay chiều tới viên đội trẻ và những bữa rượu thơ trong rừng củi để rồi lại
quay về cái thang leo.
- Anh Năm
chuyến này thì đi Sơn-la! Nó hỏi ai làm cái thang ấy, tưởng nó khen nhận ngay lấy
công thôi. Để nó mỉa mai cho.
Một người
không hiểu tiếng Pháp hỏi:
- Nó mỉa thế
nào đấy?
- Nó bảo anh
này thích những cái cao rồi sẽ làm đến thượng thư đấy.
Anh em lại
cười:
- Sao không
trả lời nó rằng chỉ ao ước một chức be bé thôi. Chức Công sứ Hòa-bình chẳng hạn.
Đêm hôm ấy,
sau khi bị nhốt trong ba gian phòng chật hẹp, anh em dong nến tụ họp từng nhóm
nói chuyện rất khuya về ông Công sứ Hòa bình, mặc kèn tắt lửa và mặc những Iời
đe dọa của người cai trại đi « rông ».
Theo Tài,
người được toàn thể lính đồn quý mến và luôn luôn cho biết những tin quan trọng
thì sở dĩ hôm nay lão Sứ bắn tính là vì hắn ta đương khó chịu với ông có đạo
về một chuyện
kiện cáo thuốc sái gì đó. Anh em có ngay cảm tình với nhà tu hành ấy vì thấy là
địch thủ đáng sợ của ông Sứ, Ai biết một bí mật gì về hai cừu nhân đều đem ra kể
cho mọi người nghe. Rồi chẳng thèm giữ gìn như mọi tối khác, họ phá lên cười từng
cơn.
- Một đoản
thiên của Maugham, các anh ạ, Tài tuyên bố.
Và Khanh tiếp:
- Nhan đề là
ông Công sứ và ông Cố đạo.
- Không,
nhan đề là « Tôn giáo và Cai Trị. »
Lịnh chữa:
- Không, là ảnh
hưởng khói thuốc phiện!
- Cũng chưa ổn,
phải là một nhà cai trị khôi hài... Y lại gần thì thầm:
- Thằng cai
gác là mật thám của Sứ đấy, các anh nên be bé cái mồm chứ.
Ai nấy giận
dữ cự lại cái anh chẳng nhát như cáy ấy:
- Im ngay!
Anh sợ nó thì đi ngủ!
- Nhưng các
anh làm liên lụy đến cả trại…
Tiên, người
chỉ hùng hổ những khi biết mình mạnh cánh, đe dọa một câu làm Y lảng ngay:
- Câm cái mồm!
Không tao đánh bây giờ l
Câu chuyện
tiếp tục đến quá nửa đêm trong làn không khí nặng nề đầy khói, vì để phản đối lại
bọn cai trị bất công, anh trật tự tháo khoán một đêm nay và cho phép anh em hút
thuốc lá thả cửa.
--&--
Sự xảy ra đặc
biệt ấy làm hoạt động trại giam được mười hôm. Rồi người ta cũng quên nó đi, nhất
cái lệnh phạt gửi thư lại được thu ngắn từ nửa tháng tới một tuần. Nhưng hình ảnh
ông Công sứ thì không thể phai nhạt được trong ký ức mọi người, mỗi khi họ ngâm
nga những lời phê trong thư vẫn đều đều và hóm hĩnh như trước,
Cách đó it
lâu, trong khi không ai mong đợi, viên Công sứ lại về thăm trại, lần này cùng
đi với vợ, một người đàn bà lai, bé nhỏ xinh sắn, vẻ mặt rất thông minh, và một
thằng con bảy tám tuổi, đầu tóc chải mượt và quần áo bảnh bao. Cũng như lần trước,
Y đi thẳng tới Châu để ăn cơm sáng ở đấy. Rồi mặt đỏ gay sắc rượu, Y cùng vợ
con, và tùy tòng rầm rộ kéo sang trại giam. Một sự lạ!
Y thay đổi hẳn
tính nết, rất nhũn nhặn chứ không kiêu căng nữa, lẩn thẩn thân mật nói chuyện với
người nọ người kia và thốt ra những câu khôi hài vui vẻ làm ai nấy không nhịn
cười được.
Tài ghé tai
người đứng bên thì thầm: « Có lẽ nó điên! Hay vi ngài vừa chén say, hút no, nên
ngài khoái. »
Điều đoán phỏng
ấy bị cải chính ngay bằng sự trao thư từ và các gói quà kèm thêm một lời ân cần
của viên công sứ:
- Nhân tiện
tôi mang về cho các anh các thư này; tuy hôm nay chưa phải là ngày phát thư.
Thì ra hắn
có lòng tốt từ trước khi say.
Nhưng đã hết
đâu: Bất cứ một yêu sách gì vừa nêu ra là được chuẩn y ngay, khiến lão đồn già
phải can thiệp phản đối nhiều lần.
Sau khi đoàn
công chức ra đi, anh em reo mừng. Một anh lắc lư cái đầu, đọc câu sắm Trạng
Trình « Bất chiến tự nhiên thành, các anh ạ!»
Đêm hôm ấy
là đêm đầu tiên dân trại được ngủ mở cửa theo lời yêu sách và người ta dắt tay
nhau đi chơi quanh sân rất khuya dưới ánh trăng thượng tuần để tán dương cái
tính ngộ nghĩnh khó hiểu của một viên cai trị thuộc địa.
- Đó là kết
quả của ảnh hưởng nước độc và thuốc phiện!
Câu phê bình
ấy của Lịnh vẫn không giảng giải được sự thay đổi bất thình lình kia.
Cho tới một
ngày gần đây, một tin dữ dội bay về với trại giam: Viên công sứ bị giáng, và đổi
đi nhậm chức phó công sứ ở một tỉnh Trung châu. Tin ấy cho biết thêm
rằng trong một
lúc nóng tiết và mất hẳn trấn tĩnh y đã thẳng tay tát một ông chủ đồn điền người
Pháp giầu có và mạnh thế lực ở trước mặt ông Thanh tra chính trị lên Hòa
bình điều
tra về việc tranh ruộng giữa người Pháp ấy và dân Mường. Thì ra có lẽ y mắc bệnh
thần kinh, cái bệnh truyền nhiểm rất thông thường trong giới cai trị thực dân.
Ông Thanh
tra tức giận bỏ ra đi, và ngày hôm sau ông công sứ bị gọi về Hà nội. Từ đó dân
trại giam Vụ- bản mất hẳn cái thứ đọc những câu phê hóm hỉnh và khôi hài
của ngưòú
Pháp lai, vụt trở nên, sau vụ giáng chức một người « dễ thương » của anh em
chính trị phạm.
NHUNG
Ừ ngày được
vô can trong vụ cướp nhà ông thượng Nguyễn nhờ có những lời làm chứng công bằng
của Nhung, con gái khổ chủ, thì Sinh bỗng đổi hẳn tính nết. Trước hắn hay nói
hay cười, hay đi chơi khắp các xóm để bới chuyện nhà này nhà khác nhất là chuyện
nhà ông thượng Nguyễn mà hắn ghét cay ghét độc. Nay thì không mấy khi người ta
gặp mặt hắn nữa. Hình như hắn xấu hổ vì đã bị dính líu vào cái việc nhơ nhớp
kia, nên tuy vô tội, hắn vẫn thấy cần phải sống ẩn thân trong ít lâu. Bây giờ,
người làng Bắc còn thì thào bàn tán nhiều quá, đi đây đi đó nhờ thoáng nghe thấy
chỉ thêm bực mình! Ấy là người ta đoán thể thôi chứ chính Sinh cũng không từng
ngỏ tâm sự với một ai. Hắn hầu như mộr người câm và cả ngày chui rúc trong gian
buồng cửa đóng kín mít. Đến bữa, mẹ và các em có gọi đi ăn cơm thì một là hắn lẳng
lặng bước ra, ngồi xuống phản và lùa luôn mấy bát rồi đứng dậy lại trở vào buồng.
Buổi đầu Sinh mới được tha về, mẹ hắn thấy vậy chỉ lắc đầu thương hại con hay
thốt lời tục tằn nguyền rủa bọn cướp đã khai tnan để làm khổ con bà. Nhưng sau
thấy Sinh cứ kéo dài mãi cái trạng thái buồn phiền chán nản, bà sinh ra cáu kỉnh.
Một hôm
trong bữa cơm chiều bà gọi chuyện bảo con:
- Mày lại bảo
học đi thôi, cứ ăn không ngồi rồi mãi như thế thì đến chết đói mất.
Sinh dằn mạnh
cái bát xuống mâm, yên lặng dứng dậy. Bà kia liền thét:
- Mày làm
như vì tao mà mày bị bắt, bị tù, bị tội không bằng! Nếu mày không đi lại chơi bời
với quân du thủ du thực thì chúng nó biết mày là ai mà đi tố cáo mày với quan
nha để đến nổi mày khổ sở, nhục nhằn. May mà chị Nhung chị ấy tốt bụng, chị ấy
không thèm thù hằn mày, chứ nếu chị ấy cứ nhận diện bừa đi thì mầy ngồi tù đã
đành, đến cái thanh danh nhà mày cũng chả còn ra gì. Thấy mày ngày xưa đã làm
gì nên tội, tao ngày nay đã làm gì nên tội mà để mày bêu xấu bêu hổ, bêu nhục,
bêu nhuốc?
Hà thấy anh
vùng vằng đi vào buồng đóng xập cửa lại liền gắt sẽ với mẹ:
- Anh ấy đã
bị oan uổng khổ sở, bu lại còn không để cho anh ấy yên thân.
Người đàn bà
vẫn chưa thôi:
- Ừ thì việc
đã nhở ra như thế, nó cũng phải chịu nhẫn nhục mà quên đi, chứ có đâu cứ như ăn
vạ tao thì mày bảo tao biết làm thế nào.
Bà ngừng lại
nghĩ vơ nghĩ vẩn một lát rồi bưng mặt ngồi khóc thút thít.
Bà lấy làm tủi
nhục cho cái đời sống túng bẩn vất vả của bà. Là con một ông cử, bà lấy chồng
con nhà nho, cũng như chị bà. Nhưng hai người anh em đồng hao ấy đã bỏ xa nhau
trên con đường tiến thủ: một người đỗ đạt ra làm quan, một người suốt đời là một
ông Đồ nghèo kiết. Chị bà cũng có giúp đỡ bà nhiều phen và lại nhận nuôi cả
Sinh cho cùng đi học với con mình. Rồi chồng bà chết, rồi chị bà chéế. Bà thấy
đời bà bơ vơ không nơi nương tựa, với một cái gia sản hèn mọn khộng đủ nuôi sống
một gia đình bốn mẹ con, nhất từ khi Sinh không chịu nổi sự bạc đãi của nhà ông
Thượng, bỏ về ở với bà.
Bấy giờ Sinh
đã hai mươi tuổi nhưng vì ham thích chơi bời lêu lổng nên chỉ mới đậu được cái
bằng Tốt nghiệp. Không một nghề trong tay, lại đam mê rượu chè cờ bạc, chẳng
bao lâu hắn trở nên cái mầm nguy vong cho gia đình. Bà Đồ và Hà đội vải đi bán
chợ xa chợ gần vẫn không sao đánh thăng bằng được cái quỹ chi thu thường nhật,
Vì thế số nợ một ngày một chồng chất thêm mãi lên.
Bà Đồ chỉ biết
than thân trách phận, và đổ tại số mình không ra gì. Nhưng Sinh thì hắn quy hết
oán thù vào cả cái gia đình ông Thượng. Hắn không thể quên được cái thời kỳ
sung sướng, vô tư vô lự của hắn khi chị mẹ hắn còn tại thế. Những người anh họ
hắn có thứ gì hắn đều có thứ ấy. Hắn thấy đời dống dễ dàng và đẹp đẽ bên những
người thân thích đáng yêu, bên những người chị họ xinh tươi và âu yếm.
Ngày nay
tình thế đã đổi thay, và sự đổi thay chỉ do hai mẹ con Nhung đã gây nên. Nhung
mà xưa kia hắn cho là một lẽ sống của đời hắn, là nguồn ánh sáng chiếu rọi vào
tâm hồn hắn, nay hắn chỉ thấy là một kè thù đã phá hoại hạnh phúc của hắn. Từ
hai người đàn bà, lòng oán ghét của hắn lan rộng ra tới toàn thể cái gia đình
ông Thượng rồi tới tất cả cái xã hội cao quý của bọn quan lại và phú hào, một
xã hội trưởng giả mà hắn tìm ra đủ các tội lỗi, đủ các điều đê tiện xấu xa.
Hắn bắt đầu
có một quan niệm về xã hội, về loài người. Loài người chỉ chia ra làm hai giai
cấp: giai cấp được hưởng đủ các quyền lợi và giai cấp không được hưởng một chút
quyền lợi gì. «Sao lại có mãi sự bất công ấy được? ». Sinh hằn học tự hỏi thế.
Rồi câu hỏi dần dần mất cái tính cách hằn học, mà chỉ còn là một vấn đề nhân
sinh. Sinh thấy một ngày một rõ rệt rằng vấn đề ấy cần phải được giải quyết
ngay do những người ở cái giai cấp bị thua thiệt, và giải quyết bằng đủ mọi
cách với đủ mọi phương pháp. Hắn vốn nhu nhược và lười biếng, thế mà chỉ vì sốt
sắng muốn cải tạo xã hội, hắn bổng trở nên cương quyết và mẫn cán trong công việc
theo đuổi để phá hoại phe địch. Hắn không ở đảng phái nào, và cũng chẳngg đọc
qua một lý thuyết xã hội nào.
Nhưng hắn cần
gì phải có lý thuyết vững vàng mới đánh đổ được đối phương: Hắn sẽ đi tuyên
truyền nói xấu bọn phú hào. Họ không thiếu gì hành vi nhơ nhớp. Mà có bịa đặt
thêm ra cũng chẳng sao! Bắt đầu, hắn hãy thu hẹp phạm vi công kích của hắn vào
trong một làng, làng hắn, và đứng đầu cái bảng đen là nhà ông Thượng, cái gia
đình đã nuôi hắn, cho hắn biết mùi phú quý để rồi ném hắn xuống đất đen cho hắn
thấy thấm thía cái chênh lệch bất công giữa hai giai cấp.
Trong khi việc
tuyên truyền có phương pháp đương tiến hành để hạ cái gia đình cao quý kia xuống,
để gây lòng phẫn uất của người làng đối với bọn đã xây hạnh phúc trên mồ hôi
xương máu của quần chúng, thì xảy ra vụ cướp nhà ông thượng Nguyễn. Vì thế người
ta đoán chắc Sinh có dính líu vào việc ấy. Người ta đồ rằng cái dinh cơ rộng
rãi, và kiên cố kia nếu không có một người thông thuộc đường đi, lối lại như
Sinh làm dẫn đạo thì cướp khó lòng vào lọt được. Tới khi Sinh bị bắt, hết thẩy
người làng cùng vui cười. Họ vui cười không phải vì ghét gì hắn, hay thương hại
gì ông Thượng, nhưng vì họ thấy họ đoán đúng: thủ phạm vụ cướp không thể là ai
được, mà chỉ là kẻ thù ghê gớm của cái gia đình quý phái ấy.
Vận mệnh của
sinh hoàn toàn ở trong tay người đến huyện nhận diện các tên hung đồ. Người ấy
là Nhung, vì hôm mất cướp, ông Thượng bà Thượng đi Hà nội vắng, và người nhà đều
chạy trốn thoát cả, duy có Nhung là bị bắt. Và nàng đã nhận diện hết mọi tên;
trừ một mình sinh ra.
Thế là dư luận
dân làng Bắc lại xoay chiều. Người ta bảo nhau: « Dầu sao thì nó cũng là cháu
chẳng lẽ cháu lại dắt cướp vào nhà bác? ». «Chẳng gì nó cũng là con nhà gia
giáo, đâu nó có thể trụy lạc quá đến thế!» Nhưng vẫn có người còn ngờ vực và
nói: « Cô Nhung, cô ấy thưomg hại một người em họ nên cô ấy không nhận diện đấy,
chứ chính cướp nó đã cung khai ra thì có mà chệch đi đằng giời! ».
Vụ cướp rồi
cũng bị người ta quên đi. Khi nó không còn làm đầu để cho câu chuyện mua vui
trong các xóm nữa thì bỗng xảy ra một việc khiến người ta lại quay trở lại bàn
tán đến nó. Đó là cái chết của Sinh: Sinh tự thắt cổ ở trong buồng kín, dưới
chân hắn có bức thư sau này gửi cho Nhung:
B..... ngày
…. 1940.
Em Nhung,
Chị cho phép
tôi, một lần cuối cùng, kêu chị bằng em. Kể tôi hơn chị những ba tuổi thì tôi
có xưng hô như thế cũng không đến nổi quá đáng. Còn bảo tôi là em họ chị thì điều
đó có đâu, mẹ tôi là em ruột bà thượng cả, chứ có là dì chị đâu. Tóm lại chị vớì
tôi không có dính họ hàng gì cả và ví như tôi lấy chị làm vợ cũng không có tội
kia mà.
Chị thấy lời
lẽ tôi bình tĩnh lắm phải không? Từ hôm tôi được tha về bao giờ trí tôi cũng rối
ren, loạn xạ, mà vì sao hẵn chị cũng hiểu. Nhưng nay thì lòng tôi tự nhiên dẹp
hẳn xuống: Tôi đã quả quyết chết, mà khi người ta đã quả quyết chết thì người
ta tiếc gì ở đời nữa mà còn phải băn khoăn. Vậy khi Nhung đọc bức thư này thì
Sinh đã là cái xác không hồn.
Chắc chị muốn
an ủi tôi, chị muốn khuyên tôi không nên tự hủy hoại thân thể phải không? Nhưng
chị thì thử bình tĩnh lại mà xem, chỉ sợ thấy tôi đã bị xô đẩy tới con đường
cùng rồi.
Vậy lời thứ
nhứt và lời cuối cùng của người sắp vĩnh biệt đời này là một lời tạ tội. Em xin
lỗi chị, anh xin lỗi em, vì đã xúc phạm tới em trong cái đêm lịch sử ấy.
Sau nữa, và
đó là điều độc nhất đáng kể, em sẽ lợi dụng cái chết của em để thú tội với chị,
như kẻ mộ đạo Thiên Chúa thú tội với nhà giáo sĩ để mong trút được gánh nặng
trong lòng trước khi thênh thang lên đường giải thoát.
Chị đừng tưởng
là cái tội đã dắt cướp vào nhà chị, hay cái tội đã dám có dã tâm định làm điếm
nhục một người thiếu nử. Hai tội ấy có đáng kể chi bên cái tội tầy trời mà em
đã phạm. Nhưng xin hãy nghe em đây:
Ngay từ thuở
nhỏ em được hai bác nuôi nâng dạy dỗ, coi chẳng khác gì con đẻ. Lớn lên trong cảnh
giàu sang đầy đủ em có bao giờ nghĩ đến thương hại những người lăn lóc trong
đám bình dân nghèo nàn thiếu thốn đâu. Cả mẹ em làm ăn tần tảo để kiếm tiền
nuôi gia dinh, em cũng không hề để ý đến một cách thiết tha. Mẹ em thì chịu nhịn
đủ thứ, chỉ nuôi trong lòng cái hy vọng mai sau em học thành tài làm nên vẻ
vang cho nhà cho họ.
Đời tôi, lọ
là tôi phải thuật lại với chị. Như anh em trong một nhà, còn một điều gì về tôi
mà chị không biết! Nhưng có một điều mà chị không ngờ, mà chị không thể ngờ được,
là tôi yêu chị, là anh yêu em.
Em Nhung,
bao tội lỗi gây nên bởi mỗi ái tình ngăn cấm. Trong bao lâu anh yêu trộm thương
thầm... Rồi có ngày anh trông rõ rằng em chỉ đáp lại anh bằng sự lãnh đạm và mẹ
em chỉ đối đải anh bằng sự khinh nhờn, thì anh không chịu nổi vì anh bỏ đi cho
khuất mắt cái gia đình mà anh thù ghét thấy đáng thù ghét. Anh tìm ra, cố moi
ra đủ các lý do để mà thù ghét, những lý do chính đáng nữa. Rồi lòng thù ghét
cá nhân đối với cá nhân, lòng tư thù biến đi để nhường chỗ cho lòng thù chung của
một xã hội bị bốc lột, lòng công phẩn của đại chúng. Anh thấy bác Thượng là một
người đáng bị, và anh lấy làm thẹn rằng anh là cháu bác.
Lòng uất ức
của anh một ngày một lớn dần, cho tới khi anh thấy cần phải trả thù bằng việc
làm. Hình ảnh em cũng đã bị xóa hẳn trong ký ức anh rồi. Một dục vọng mãnh liệt
hơn đã đến chiếm hẳn chỗ tình yêu: Đó là sự trả thù, trả thù cho anh bị hất hủi,
và anh rất thành thực ít ra cũng thành thực trong thời ấy, anh rất thành thực
mà thêm rằng: trả thù cho cái giai cấp bị hất hủi trong đó có anh.
Thế rồi như
em đã biết đó, anh dắt cướp vào nhà em. Chủ ý anh là định giết hai bác, và làm
ô nhục em mà anh đã thù ghét đến cực điểm rồi. Vì thế anh cũng chẳng thèm giữ
gìn giấu diếm nữa, anh đã đến trước mặt em, ngạo nghễ tỏ cho em biết rằng anh
có đủ sức mạnh để chiếm đoạt được em, rằng em đủ tự phự cao quý đến đâu cũng có
thể bị bôi nhọ đi như trở bàn tay được.
Nhưng có một
điều anh không ngờ là ái tình mà anh tưởng đã chết hẳn, sự thực nó vẫn còn sống
dù đó chỉ sống âm ỉ trong tiềm giác anh. Hình ảnh em trong một giây đã đánh thức
nó dậy và đã khiến anh trở nên «hèn nhát» (xin tha thử cho chữ ấy) và không dám
đụng chạm tới em. Anh đã dám hối hận điều ấy ở trong nhà giam trước khi gặp mặt
em đến nhận diện.
Em Nhung,
sao em không để anh yên thân với tội lỗi của anh, sao em không để anh yên thân
với những hình phạt đương chờ đợi anh, sao em lại đến cứu vớt anh ra khỏi ngục
thất và tù đầy? Trời ơi I nay đối với mọi người, anh đã vô tội. Nhưng anh cần
gì điều ấy. Riêng đối với em, anh vẫn đời đời kiếp kiếp là một thằng khốn nạn,
mà vì điều ấy, anh đã quả quyết tự khép anh vào tử hình.
Thôi chào em
ở lại.
SINH
Bức thư ấy đến
tay Nhung, và nàng đọc từ đầu đến cuối với một tâm hồn bình thản. Nhưng từ đó
nàng trở nên ngẩn ngơ trong ít lâu..
TIẾNG NGƯỜI
XA
Đã đến giờ
chưa mẹ?
Phương từ
ngoài hiên chạy vào phòng ngủ, đột ngột hỏi mẹ. Nga rời gường và cái bông phấn
cầm tay, quay ra cười với con:
- Chưa con ạ.
Nhưng, con đi ngủ thôi, khuya rồi, tám giờ rưỡi rồi..
Phương nũng
nịu:
- Không, hôm
nay con chưa buồn ngủ, mẹ cho con nghe cơ.
Nga chau
mày:
- Thế thì
Phương không ngoan rồi. Hôm nay mới là thứ ba. Ngày kia mới đến phiên con được
nghe kia mà.
Dứt lời nàng
đứng lên, ẵm đặt con lên giường. Rồi ra ngồi sửa sang lại mái tóc, chấm lại
bông phấn cuối cùng. Ngửng lên nhìn đồng hồ báo thức đặt trên bàn giấy, nàng tưởng
thấy hai cái kim vẫn đứng im một chỗ, và nếu không có tiếng tích tắc thì có lẽ
nàng yên trí rằng đồng hồ không chạy. Nàng thở dài nói: « Còn những hăm nhăm
phút nữa! »
Nhưng nàng
cũng bỏ cái áo bọc máy truyền thanh ra, ngồi cầm khăn táy máy lau cái mặt kính
hình lục lăng, trên «đó những chữ, những số, những chấm màu đen, màu đỏ, mầu
xanh đối với nàng không có một ý nghĩa gì, ngoài con số 25 ra. Mà con số 25
cũng chỉ được nàng lưu ý tới, vào giờ này, giờ phát thanh của đài Cựu kim sơn.
Lơ đãng nàng vặn núm tiếp xúc. Cái mặt Radio sáng bật lên. Và cái kim đen trỏ
bên con số 25 như thu lấy hết cả tâm hồn nàng. Và nàng mơ mộng đăm đăm nhìn nó,
đắm đuối đợi chờ cái phút được gặp người xưa hiện về... Hiện về... Bất giác
nàng đưa mắt nhìn vào gương, và thấy mình vẫn còn trẻ và thấy mình trẻ lại nhiều
từ khi mua được cái máy radio này.
Kể thì nàng
cũng chưa già, năm nay mới hai mươi sáu tuổi. Nhưng bao năm mong đợi, bao năm
nhớ nhung khổ sở đã làm cho nàng tiều tụy hồng nhan.
Đã năm năm
nay, Thanh, chồng nàng bỏ ra đi. Nàng còn nhớ, còn như thấy hiện ra cái buổi
chiều hôm ấy. Một buổi chiều cuối năm 1939, một buổi chiều mưa phùn gió lạnh.
Thanh đi Hải phòng về trước ngày hẹn, lại thêm có vẻ mặt lo âu, có dáng bộ vội
vàng khiến Nga áy náy không yên. Ăn cơm xong, Thanh lên gác thay quần áo và sửa
soạn xếp lại va li. Nga ngây người đứng nhìn chồng chưa dám hỏi. Mãi lúc Thanh
dặn hễ có ai đến tìm thì nói chàng còn ở Hải phòng, Nga mới ngập ngừng:
- Vậy anh lại
đi?
Thanh gật.
- Anh lại đi
Hải phòng?
Không thấy
chồng đáp nàng hỏi tiếp luôn:
- Nhưng dẫu
sao cũng mai mới đi chứ?
Thanh mỉm cười
bảo vợ:
- Anh phải
đi ngay, Nga ạ, việc cần lắm.
Đứng suy
nghĩ một phút chàng hỏi vợ:
- Phương ngủ
rồi, phải không em?
Dứt lời
chàng ra nôi vén màn cúi nhìn con, một đứa con tám tháng. Và chàng quay lại bảo
vợ:
- Sung sướng
quá cái tuổi vô tư lự. Thấy con nó ngủ bình tĩnh mà thèm! Em trông trán nó dãn
ra, môi nó như mỉm cười với mộng.
- Anh làm
thơ đấy à? Nga âu yếm bảo chồng, Nhưng khéo để muỗi đốt con
Thanh vội giắt
màn lại, rồi lẵng lặng xách va li.
- Anh đi
ngay bây giờ?
- Phải đi
ngay bây giờ em ạ..
Hai người
thoáng nhìn nhau rồi cùng vội quay đi như hiểu thấu ý nghĩ thầm kín của nhau.
- Em chả cần
bật đèn nữa. Thôi anh đi đây.
Vừa nói,
Thanh nắm chặt lấy tay vợ như thầm trao cho nàng tất cả mọi điều bí mật không
dám thú. Rồi chàng se sẽ vặn khóa, nhẹ nhàng mở cửa lớn ra ngoài biến vào bóng
tối.
Ngồi nhớ tới
buổi biệt ly, Nga còn có lại cái cảm giác rừng rợn hôm ấy. Chồng nàng đi rồi,
nàng hoảng hốt chán nản lên gác nằm vật ra giường nức nở khóc. Nàng đã nhìn thấy
rõ: chồng nàng đi trốn. Vì đã có lần Thanh ngỏ cho nàng biết rằng chính phủ thực
dân vừa đặt ra chế độ trại giam để khâu lưu ở đó tất cả những cựu chính trị phạm
bị tình nghi làm rối cuộc trị an. Vậy Thanh, một cựu chính trị phạm rất có thể
bị liệt vào hạng người nguy hiểm ấy.
Quả nhiên
ngay trưa hôm sau, nhân viên ty mật thám đến nhà nàng để khám bắt Thanh. Và từ
đó nàng bặt luôn tin chồng.
- Sắp nói rồi
đấy à mẹ? Phương trỗi dậy hỏi, vì nó vừa nghe thấy bắt đầu tiếng rào rạo của
máy radio.
- Chưa con ạ,
nhưng con phải ngủ đi, con có ngoan có dễ bảo thì máy nó mới nói.
- Thì ba mới
nói chứ!
- Ừ thì ba mới
nói. Vậy nếu con không vâng lời me thì rồi ba không nói nữa đâu, không bao giờ
ba nói nữa đâu.
- Vậy con ngủ
thì mẹ bảo ba nói nhé?
- Ừ con phải
ngủ ngay cơ.
Phương lại
ngoan ngoãn nằm xuống. Và Nga, tuy đương buồn cũng phải mỉm cười sung sướng.
Phương là tất cả sự an ủi của nàng trong năm năm nay, cái hình ảnh linh hoạt của
người chồng thương mến.
- Mẹ tắt đèn
để khỏi chói mắt con nhé?
Không thấy
Phương trả lời nàng biết con đã ngủ yên rồi, nhưng nàng cũng vẫn tắt ngọn đèn
dưới cái chao vải tự tay nàng làm ra từ thời chồng còn ở nhà, và nay màu hồng
đã bạc phếch và loang lổ. Trong gian phòng tối, cái mặt lục lăng của máy radio
sáng rực rỡ thêm lên. Nghĩ đến cái máy radio Nga không khỏi tự phục lòng quả
quyết đã dám bỏ ra gần hai nghìn bạc, đã không ngần ngại bán hết tư trang để
mua cho bằng được, mặc những lời mắng nhiếc của cha mẹ chồng. Nàng có nó đã ba
tháng nay rồi và không một phút nào nàng tiếc cái món tiền to gần bằng nửa tài
sản của nàng. Còn muốn gì hơn nữa, cái máy vuông xinh xinh chẳng chứa tất cả hạnh
phúc của nàng hay sao? Chẳng là tất cả lẽ sống của đời nàng sao?
Nàng có nhớ
tối hôm ấy, cái buổi đã làm cho nàng hầu như phát điên vì sửng sốt vì một sự lạ
lùng mà cho tới ngày nay nàng vẫn không dám tin hẳn cũng không dám ngờ vực. «
Ngờ vực thì chết mất!» luôn luôn nàng nghĩ thầm. Hôm ấy nàng đến chơi một người
bạn học cũ cũng không thân lắm. Chẳng qua nàng chỉ đáp lại một buổi đến thăm của
người ấy. Người bạn giữ nàng ở lại nghe radio, nói có rất nhiều tin tức quan trọng
liên quan tới Việt Nam*
Vừa nghe câu
đầu, nàng giật mình hoảng hốt. Nàng không thể nhầm được, tiếng người phát thanh
chính là tiếng chồng nàng. Nàng cố cho đó là điều vô lý để bỏ qua đi, nhưng
không thể được. Ở trên đời này không khi nào lại có hai người nói giọng giống
nhau như thế, giống từng giọng, giống từng tiếng. Và trong lúc mơ mộng nàng tưởng
tượng Thanh hiện lên ngồi nói chuyện với nàng, ngồi đọc báo cho nàng nghe như
thuở xưa, trước giờ đi ngủ nàng thường nũng nịu bắt chồng đảm đương công việc ấy.
Nàng ngồi lịm người đi, chú hết tình thần vào cái giọng đều đều trầm trầm. Và
nàng như uống từng lời của người mà nàng nhất định cho là người yêu, mà nàng
như cảm thấy có hơi thở làm rung động làn tóc sõa bên tai nàng. Tại sao người ấy
lại không là Thanh được? Thanh rất có thì làm công trên một chiếc tàu hàng hải
vượt Thái bình Dương rồi nhờ có sự vận động của một người Mỹ nào đó được đổ bộ
lên Cựu kim sơn và sau đó xin được vào làm ở đài phát thanh. Câu chuyện lập
thành như thế rất là hợp lý và có gì là viển vông?
« Đích thực
rồi! ». Nàng bổng đột ngột kêu to lên. Nàng vừa nhận được mấy tiếng đọc theo mộr
giọng mà ngoài Thanh ra, nàng cho không một ai có.
- Cái gì thế
chị? Người bạn ngơ ngác hỏi nàng.
- Không,
nàng bẽn lẽn đáp. Và nàng chống chế nói khôi hài để chữa thẹn: « Tôi phê bình lại
lời phê bình của người phát thanh đấy”. Đoạn nàng cất tiếng cười ngượng nghịu.
Hôm sau và mấy
hôm liền nàng đến nhà bạn; người bạn trước kia rất sơ nay đã trở nên người tâm
giao của nàng. Chỉ còn thiếu chút nữa là nàng đem hết bí mật câu chuyện ra thuật
tường tận với bạn.
Nhưng tối
nào cũng đến chơi dù lấy cớ là nói nghe tin tức thế giới đi nữa, dầu sao cũng
là một điều suồng sã trong tình bằng hữu. Nhất bạn lại còn có gia đình mà mình
lại là một thiếu phụ xa chồng. Chẳng dừng được, nàng phải thưa đến chơi. Những
đêm ấy nàng thấy băn khoăn, sốt ruột trằn trọc không sao ngủ được. Động chợp mắt,
nàng lại tưởng nghe thấy tiếng chồng trong máy phát thanh, và nàng vụt tĩnh giấc.
Trái lại những buổi ở nhà bạn về, thần kinh nàng dãn ra, máu nàng chảy đều hơn,
tim nàng đập chậm lại. Và nàng vừa đặt mình là khoan khoái ngủ yên, không mộng,
không mị. không mê không sảng gì cả.
Một hôm
trong câu chuyện xã giao, khi ngồi đợi giờ phát thanh, người bạn phàn nàn rằng
bất cứ vật gì giá cũng cứ một ngày một cao vọt mãi lên. Và để nêu ra một thí dụ
nàng nói một cái máy radio trước kia giá có ba bốn trăm, bây giờ đắt tới nghìn
rưởi, hai nghìn. Những lời không đâu ấy bỗng làm nẩy ra trong lòng Nga, một ý
muốn một dục vọng ngày càng thêm mãnh liệt: Có một cái máy radio, để rồi tối tối
được nghe tiếng chồng mà không phải đi đâu!
Ba hôm sau,
nàng nhờ được người mua hộ một cái máy sáu đèn bằng món tiền ngót hai nghìn,
giá các đồ tư trang của nàng mà nàng đã đem đi bán.
Và từ đó tới
nay, thấm thoát đã ba tháng. Đã ba tháng …chiều chiều nàng trang điểm phấn sáp,
mặc vào người bộ áo cưới năm xưa rồi ngồi chờ nghe những lời yêu dấu.
Một hôm,
Phương ấm đầu và quấy không chịu rời mẹ ra. Đến giờ, Nga đành phải ẵm con ngồi
nghe. Phượng có vẻ kinh ngạc, trố mắt tò mò nhìn cái khoang sáng và thỏ thẻ hỏi
mẹ:
- Ai nói thế
mẹ?
Nga sung sướng
cúi hôn con, và âu yếm, bí mật thì thầm:
- Ba con nói
đấy,
- Thế sao ba
không ra đây với con, lại nấp ở trong ấy nói ra hử mẹ?
Nga chưa kịp
nghĩ được câu ổn thỏa trả lời con, thì Phương đã hỏi tiếp luôn:
- Hay ba bị
nhốt ở trong ấy?
Cách đó ít
ngày Phương khoe với bà:
- Bà ơi,
cháu biết ba cháu ở đâu rồi cơ?
- Thế ba
cháu ở đâu?
- Ở trong
cái máy nói của mẹ ấy. Cháu đã được nghe ba nói rồi cơ.
Bà lão và cả
nhà cùng cất tiếng cười, cho đó là một câu chuyện bịa đặt để dỗ trẻ:
- Phương bảo
mẹ có bán lại cái máy ấy đi thì ba mới chịu chui ra mà về với Phương.
- Nhưng cái
máy bé quá, ba ở trong ấy thế nào được?
Bà mẹ chồng
quay sang bảo Nga:
- Cứ kể giọng
cái người trong máy mà tôi nghe tối hôm nọ cũng na ná giống giọng anh Thanh đấy.
Chỉ khác một điều chậm rải hơn, mà trầm hơn.
Nga buột miệng
đáp:
- Thưa mẹ,
phát thanh thì phải nói chậm rải chứ! Còn giọng trầm là vì máy.
Dứt lời nàng
hối hận liền, vì sợ lộ mất bí mật mà nàng không muốn để một ai khám phá ra. Và
nàng tự trách: « Rõ mình cũng lẩn thẩn đem chuyện ấy ra nói với con!»Bà mẹ chồng
nhìn con dâu, mỉm cười;
- Hay chị
tin đó là tiếng anh nên chị đã bán tư trang đi để mua máy ra đi ô đấy?
Câu nói đùa
làm cả nhà phá lên cười. Ông bố chồng nói:
- Nếu quả thực
người phát thanh ấy là anh Thanh thì cũng lạ lắm nhỉ! Mà đã biết đâu không phải
anh Thanh. Để hôm nay thầy nghe xem.
Tối hôm ấy
quả nhiên cha mẹ chồng nàng vào phòng nàng để nhận tiếng con. Trong khi ông cụ
lắng tai nghe, Nga đăm đăm nhìn ông để chờ một lời phán đoán. Nàng lo lắng khi
nghe cha chồng thốt ra một tiếng: « Ừ!» Và nàng không dám hỏi thêm sợ bị thất vọng.
Thì ông cụ lại nói tiếp:
- Ừ cũng giống
đấy… Nhưng không phải tiếng Thanh đâu.
Mầm ngờ vực
đã nhú trong lòng nàng vụt bồng bột nẩy nở. Nàng hoảng hốt lo lắng, cảm thấy mặt
mình hơi tái đi. Và nàng lặng thinh đứng nhìn hoang mang không dám suy nghĩ
liên miên. Sau khi tắt máy và cha mẹ chồng nàng mỉm cười vơ vẩn ra khỏi phòng,
nàng tắt đèn lên giường đi ngủ liền. Nhưng cả đêm nàng không chợp mắt. Sáng dậy
nàng nãy ra một ý nghĩ mà mấy giờ sau nàng lại thấy không thực hành được, là gửi
thư cho người phát thanh đài Cựu kim sơn. Nàng tự nhủ: «Không những khó lòng
thư tới đích, mà nhỡ người ấy không phải là chồng mình thực thì xấu hổ chết.
Không, không cần viết thư gì hết, và sao một sự nhận xét cẩu thả của ông bố chồng
lại trong giây phút đánh đổ tin tưởng của mình được. Người cha thuộc giọng con
sao bằng được người vợ thuộc giọng chồng! Không thể nhầm được. Giọng ấy chỉ có
thể là giọng Thanh. Nhất mẩu câu « bởi vì rằng » của Thanh thì không trộn đâu
cho lẫn được.
Rồi mỗi ngày
khi giờ phát thanh tiếng Việt của đài Cựu kim Sơn nàng lại thấy lòng tin thêm vững
chắc.
Sung sướng,
rạng rỡ, chiều chiều, nàng sống bên người chồng xa.
NGƯỜI ANH
HÙNG
ƠI ba nhân vật
ấy tụ họp để sống với nhau cũng đã là một cảnh quái đản, một cảnh ma ám rồi. Một
khu đất rộng tới bốn, năm mẫu, bao vây trong một lũy tre dầy kín, và một lần tường
cao trên cắm mảnh chai vỡ. Hai cái cổng vòm kiên cố, nối liền nhau bằng một con
đường nhỏ hẹp, hai bên có tường và ăn thông với ngõ xóm, một cái ngõ sâu hẹp giữa
hai hàng dậu tre cao vút.
Trong khu đất
bao la ấy, cây cối um tùm như rừng, mội cái rừng hoang đối với con mắt người
thường. Nhưng kỳ thực cái rừng ấy đã được chăm nom, bài trí theo ý muốn của chủ
nó.. Ta có thể nói không thiếu một loài cây gì, từ cây to như cây sến, cây lim,
cây trò, cho chí những cây nhỏ như cây lan, cây lưỡi hổ, cây tóc tiên, từ những
cây tầm thường như cây khế, cây sung, cây ổi cho chí những cây rất hiếm như cây
hà lan, cây bạch mộc, cây bách tán, cây giồng đất, cây giồng chậu, cây leo, cây
gửi, cây chơi hoa, cây chơi lá, một nhà thảo mộc học cũng khó lòng tìm ra được
một loại nào không có trong cái vườn bách thảo ấy.
Nhà ở làm xế
vì phía Bắc khu vườn và mặt quay về đằng Đông, nghĩa là xây lưng ra cổng. Đó là
một kiểu nhà cổ quái chẳng ra Tây, chẳng ra Tàu cũng chẳng ra Việt Nam. Hai từng
trên một nền cao, về gốc phía Tây nhô lên một cái chòi « lô cốt».Cửa sổ cuốn,
cái cao cái thấp không theo hàng. Toàn thể, cái nhà ấy giống như một tòa lâu
đài cổ bỏ hoang, nhất nó lại rêu phong tứ phía và bị lá cây luôn luôn che khuất
ánh mặt trời.
Đó là nơi ba
người lạ lùng chung sống không rõ từ bao giờ, ba người mà ngay buổi đầu gặp gỡ,
tôi cho là ba người điên, nhất ngắm tòa lâu đài hình thù cổ quái, tôi càng yên
trí rằng nó phải là công trình của bọn người loạn óc. Mà hiện giờ sau mười mấy
năm chơi bời với nhau, tôi vẫn chưa rõ hẳn rằng cái ông kiến trúc sư kỳ dị ấy
là một người điên hay là một người phi thường.
Thời tôi mới
quen biết ông ta thì Tiên vào chạc ngoài ba mươi. Một cái trán cao rộng, hai
con mắt sắc ném tia sáng, cặp môi đỏ và tươi dưới bộ ria cụp, và trên bộ râu
thưa, dài, màu hung hung. Tóc cắt ngắn nhưng đầu chỉ cao ở phía gáy, còn tóc
mai để nguyên vẹn, khiến đứng đằng trước mặt mà ngắm y, ai cũng tưởng y búi
tóc. Quần áo thì rất là lôi thôi lốc thốc, một cái quần cháo lòng, một cái áo
cánh nâu, một cái áo lương bã, một đôi guốc gỗ mũ da lợn.
Và Tiên cũng
không có thời giờ mà nghĩ tới sự trang sức. Bà Tiên lại là một người nhà quê,
chỉ nghĩ tới việc đồng áng làm ăn và như không ngắm nghía chồng bao giờ. Mà có
lẽ hai người cũng ít khi gặp nhau, Tiên có mấy khi rời cái phòng sách và phòng
thí nghiệm đâu. Trong phòng sách rộng chừng hai mươi thước vuông, chỉ bày có một
cái bàn, hai cái ghế gỗ, và một bộ ghế ngựa quang dầu. Còn bao nhiêu chỗ thừa bị
các tủ và dá sách chiếm hết.. Đó là một kho toàn một thứ sách chữ Hán. Sách khảo
cứu các ngành khoa học Âu Mỹ, các tôn giáo, triết học Đông Tây. Những tự điển,
đủ các loại, cũng đã chứa chật một cái tủ lớn rồi. Còn gian phòng thí nghiệm của
Tiên thì ngoài y và nhà «kỹ sư», cái danh từ y đặt cho người thư ký của y,
ngoài hai người ấy ra thì không một ai được bước chân vào. Chính tôi cũng chỉ
thoáng nhìn thấy một lần, khi Tiên ở trong đó mở cửa đi ra phòng sách. Đại khái
nó cũng như những phòng thí nghiệm ở các trường trung học, với những lọ, những
phẫu, những ống thủy tinh bày la liệt trên những cái bàn sơn màu xanh xám.
Trong buổi mới
quen biết con người lạ lùng ấy tôi khỏi tức cười sao được! Một nhà nho khoa học!
Một nhà nho bác học! Tôi không sao tin được điều ấy! Nhưng ông «kỹ sư» thì phục
y lắm, và thân mật bảo cho tôi biết rằng về khoa học, trình độ y ít ra cũng
ngang trình độ một bực tiến sĩ. «Kỹ sư» cũng biết tôi không tin lời ca tụng ấy
nhưng y thấy đó là chuyện không đáng kể. Và y vốn ít lời lại không thích tranh
luận với ai về một vấn đề gì bao giờ.
«Kỹ sư » vào
khoảng hăm nhăm tuổi, đã đậu bằng thành chung và tốt nghiệp trường canh nông
Tuyên Quang.Tuy vào trường này người ta chỉ cần có bằng cơ thủy, nhưng vì thích
khoa canh nông thực hành, y cũng cứ đệ đơn xin học. Vừa ở trường ra y gặp ông cả
Tiên và nhận lời đến trông coi cái vườn bách thảo cho ông ta, dù phải hoàn lại
cho Chính phủ bảo hộ Pháp số tiền túc phí trong mấy năm tòng học.
Lương, tên
người thiếu niên ấy, rất hiền lành và khiêm tốn. Không bao giờ y nói chuyện đến
công việc của y, một công việc vĩ đại mà không ai ngờ tới. Đó là việc khảo cứu
tên và tính chất các cây cối trong vườn ở những pho sách Tàu mà y cho ngoài ông
Tiên ra không một người Việt Nam nào có thể có được: những pho sách ấy cũng như
phần nhiều các sách khác, ông Tiên đã gửi mua tận Thượng hải Bắc bình.
Thực là giời
sinh hai người ấy để mà kết bạn với nhau, để mà sống gần nhau. Họ giống nhau về
đủ mọi phương diện. Cùng ít nói, cùng làm việc nhiều mà cũng làm những việc vô
hại nhưng rất vô ích cho đời. Tôi đã được theo đuổi một cuộc tra cứu của hai
người trong các sách toán pháp đông tây giòng giã ba bốn tháng giời để tìm ra
«cái luật vạn nhất» của sự may rủi về cờ bạc, về cái số chẵn lẻ của sóc đĩa chẳng
hạn. Họ hỳ hục trong bao lâu như thế mục đích không phải là để lợi dụng cuộc khảo
cứu mà làm giàu về đổ bác. Họ rất ghét cờ bạc và bận bịu như họ thì còn thời gì
ở đâu mà đánh bạc?
Việc thiết
thực, họ không cần để bận lòng. Đã có bà Tiên nghĩ đến cho họ. Một mình bà
trông coi gia sản của tiền nhân để lại, chừng vài ba trăm mẫu ruộng rải rác
trong khắp một vùng. Quý hồ, họ có tiền mua sách và các dụng cụ, nguyên liệu khảo
cứu khoa học là được rồi. Người đàn bà ấy rất có tính phục tòng, thế mà một lần
đã phải kêu van hai người tiêu pha vừa vừa chứ, không thì đến sạc nghiệp mất. Hồi
ấy hai người khảo cứu phân chất các thứ hoàng đồng thời Hạ, thời Chu, thời Hán
và công việc ấy đã làm hại cho quỹ của bà Tiên một món chừng bốn năm vạn, tiền
mua lò, máy móc đúc đồng và các dụng cụ, các chất hóa học. Kết quả cuộc thí
nghiệm khoa học ấy là một cái đỉnh đời Chu, một đôi ống hương đời Hạ, một con
ngựa đời Hán giống hình và giống chất. Hai người sung sướng ngấm ngtía cái công
trình của mình trong ít lâu, rời bỏ lò, bỏ máy để quay sang một việc khảo cứu
khác, cũng vĩ đại và vô ích như việc trước.
Thế giới,
hai người ấy sống sẽ là một thế giới im lìm, một thế giới chết, nếu không có một
nhân vật thứ ba.. Đó là một người bếp khố đỏ mãn khóa về xin vào làm vệ sĩ cho
nhà Tiên. Chính vì thế mà người ta gọi bác là bác Vệ, tuy tên bác là Quýnh.
Tiên và Lương yên lặng bao nhiêu thì bác Vệ ồn ào bấy nhiêu, nhất khi bác đã
chuếnh choáng vài ba chén rượu. Nhưng sự ồn ào của bác cũng không làm ngăn trở
gì cho công việc khoa học của hai người kia, vì bác sống riêng biệt hẳn trong
cái chòi và ba gian « trại» phía trước, cách cái lâu đài khảo cứu có tới hơn
trăm thước. Bác ở đấy với hai người lực điền và thường hay giao thiệp với bà chủ
hơn là với ông chủ và ông « kỹ sư».
Đó là một
người chạc ngoại tứ tuần, cao lớn, lực lưỡng ngực nở bắp tay to, tiếng nói sang
sảng. Ngoài công việc ban đêm giữ nhà, bác còn đi tuần trông coi cả mấy cánh đồng
lúa khi sắp tới vụ gặt. Vì cái trách nhiệm nặng nề ấy mà bác rất siêng năng tập
tành võ nghệ, và dạy hai tay điền tốt của bác học đủ các lối công, thủ bằng
súng, một cây súng bắn chim, bằng gậy, bằng dáo và bằng đao.
Nhưng thực
ra, bác dạy thì ít mà bác khoe khoang và nói chuyện về bác thì nhiều. Cứ lời
bác thì nhờ về môn bắn tài, bác đã mấy lần lên cai rồi lại bị lột lon xuống làm
lính vì cái tính bướng bỉnh cãi lại quan trên của bác. Kể cái tài bắn của bác
quả thực đáng sợ nếu cứ tin ở lời bác: Đặt đồng xu lên đầu cây mút cư tông, mổ
cò, đồng xu nhầy lên ở nguyên chỗ mà không rơi xuống đất. Lại một hôm ở một đồn
binh, viên quan ba đương ngủ trưa, thì một con quạ đến đậu trên cây soan bên đầu
nhà kêu um lên và đánh thức y dậy. Y cáu kĩnh gọi: «Quynh»! giết chết nó đi cho
tao! » Quynh cầm súng ra và hỏi:» Ông muốn tôi bắn chết nó hay chỉ bắn què
thôi?» «Bắn què». Viên quan ba đáp. «Què chân trái, hay chân phải» «Chân phải»
- « Được». Tức thì phát súng nổ và con quạ từ từ trên cây lộn cổ xuống què chân
phải và dẫy đành đạch.
Câu chuyện ấy
Lương cũng được nghe. Và y tin lắm, vì y không bao giờ ngờ vực một lời nói của
một người nào dù Iời nói ấy vô lý đến đâu. Thế là y thấy thích khảo cứu về khoa
bắn, rồi từ khoa bắn đến các thế trận, mưu lược trong các sách binh thư của cổ
nhân Trung Quốc. Cái việc khảo cứu quân sự ấy đã làm cho y mất đến hai ba
tháng, cặm cụi và đã gây một trò cười trong cái «trại lính» bên cổng chòi. Hôm
nào cũng vậy, chưa cạn chén rượu thứ nhất, bác Vệ đã đem ông « kỹ sư vườn » ra
làm đầu đề câu chuyện vui! Bác kéo dài giọng, mỉa mai nói với hai người điền tốt:
- Ô chào!Tưởng
việc binh cũng như việc tìm tên cho những cây lạ hoa kỳ chăng?
Tưởng đâm chết
tên cướp cũng dễ như chiết cành, chắp cây chăng? Ngữ ấy thì cầm cây dáo không nổi,
còn bắn với biếc gì!
Câu khôi hài
ấy thốt ra trước mặt bà Tiên làm bà ta thích chí cười rú lên. Rồi vì cũng chẳng
ưa gì ông kỹ sư, bà ta đem thuật lại với ông ta. Bà tưởng trêu tức y, nhưng
trái lại, y thấy câu bình phẩm ấy rất hợp lý. Bắt đầu ngay từ hôm sau y khảo cứu
về khoa thể thao; và sáng sáng dậy sớm ra vườn vận động thân thể. Quả nhiên người
y nở nang ra trông thấy,
Trong cái thế
giới ly kỳ của những nhân vật ly kỳ ấy, một lần đã xảy ra một việc bất thường,
làm ngừng trệ công việc đều đều của họ trong ít lâu, chỉ trong ít lâu thôi: Một
hôm một bọn cướp nhờ có một trong hai tên điền tốt làm nội ứng đã vào lọt trong
cái vườn Bách thảo và cái lâu đài khoa học ấy, Thấy động bác Vệ vội lấy súng chống
cự, nhưng các thứ khí giới lợi hại của bác đều đã bị tên đầy tớ bất lương giấu
đi một nơi. Bác không vì thế mà chịu đầu hàng, hăng hái kháng chiến với bọn cướp
bằng gạch, bằng gậy, bằng bất kỳ thứ khí giới gì vớ được. Và bác chống cự mãi
cho đến khi bị thương và bị bắt. Sự can đảm của bác đi giúp được bà Tiên và hai
con, một giai, một gái sống riêng biệt trong bảy gian nhà ngang, trốn thoát được
ra ngoài do một cái cửa bí mật ở sau vườn. Còn ông «kỹsư» thì vừa nghe có động
y đã biến mất: Người ta cũng không rõ y chạy đằng nào hay ẩn núp ở đâu. Duy có
Tiên thì vẫn bình thảnh như thường và nhất định không chịu rời hai cái phòng
sách và thí nghiệm ra, y ở đó chờ cho bọn cướp đến để kinh cẩn nói với họ:
- Thưa, các
ngài, các ngài muốn lấy vật quý gì cứ việc, chỉ xin các ngài đừng động chạm,
phá phách hai cái phòng này mà thôi. Những thứ này các ngài không dùng làm gì
được đâu:Toàn sách với chai với ống với lọ cả.
Y có ngờ đâu
rằng chính câu nói của y đã gợi lòng tò mò và nghi hoặc của quân cướp; sau khi
đã trói y lại chúng lục lọi, vất tung toé hết các sách, đập vở bừa bãi một số
chai lọ, để tìm vàng bạc châu báu mà chúng chắc y dấu giếm trong hai gian
phòng. Mãi khi không thấy gì chúng mới chịu phá rương phá tủ ra vơ vét của cải
quần áo.
Một giờ sau,
bọn cướp kẻ vác, người gánh theo tên tướng dẫn đường ung dung kéo đi. Bổng có
tiếng kêu ồn ào con đườmg ngõ xóm. Đuốc vội dập tắt, rồi mạnh ai nấy chạy, bọn
cướp vứt đồ đạc lại nhốn nháo tẩu tán. Khi tuần làng kéo đến thì chúng đã đi
xa. Trong ngõ xóm còn lại một tên bị tử thương ở bụng và còn quằn quại trên
vũng máu. Nồi, mâm, xanh, chảo, quần áo thì rải rác suốt từ đầu cho tới cuối
xóm. Sau khổ chủ ra thu nhặt về, nhận thấy rằng bốn phần của bị cướp, quân cường
đạo bỏ lại tới hơn ba phần.
«Nhưng ai đã
đâm chết tên tướng cướp, khiến bọn quân mất đầu tan rã bỏ chạy như thế?» Người
ta kinh ngạc hỏi nhau. Giữa lúc ấy ông «kỹ sư» vác cây dáo dài từ trong vườn
bên đi ra và ôn tồn giảng giải:
- Trong khi
khảo cứu về chiến lược của Tôn Vũ, tôi đã chú ý đến câu «đánh bất thình lình».
Đánh bất thình lình thì một người có thể hạ nổi trăm người, nhất khi mình lại
chiếm được địa lợi. Khảo cứu về địa lợi tôi đã ra đấy xem xét kỹ lưỡng cái ngõ
hẹp này, và thấy nó rất có lợi cho trận đánh mai phục mà ngày nay người ta gọi
là du kích. Đấy, các ông coi, Tôn Vũ đi thẳng một cách dễ dàng.
Mọi người
phá lên cười. Và từ đấy ông « kỹ sư» lại có thêm được hai tên mới: Tôn Vũ và
Người Anh Hùng.
KHÓI HƯƠNG
I cỏ là một
công việc ao ước trong trại giam Vụ bản. Riêng có hai anh người Thổ phụ trách
công việc ấy nhưng thỉnh thoảng họ lại nhường cho bạn bè được nếm qua cái thú
nên thơ.
Sáng hôm
nay, lão đồn già đã phải mỉm cười nhìn Linh và Khanh, trong bộ quần áo «gôn»
màu cỏ, nhẹ nhàng vác trên vai đôi lẵng tre lồng một, trong đựng hai cái liềm
và một cuộn giây Iạt. Và lão nháy hỏi đùa một câu tiếng Việt:
- Đi cỏ?
Rồi lão tiếp
liền một câu tiếng Pháp, như để tỏ rằng đã bằng lòng ban cho hai người cái ơn
huệ ấy:
- Được! Chơi
cho thỏa thích đi nhé l
Lần này là lần
đầu Khanh đi cỏ, nhưng vì được anh em tả cho biết mọi chi tiết của công việc ấy
nên y đã đem theo một điều kiện cần thiết: tiền mà y cẩn thận giấu vào trong tất
để phòng sự lục khám bất thần của lão đồn già.
Sương còn
dày đặc khi Linh và Khanh ra đi với người lính Mường. Dãy núi Hoành sơn như nổi
trôi trên biển tuyết.
Bị cỏ đồi
dài và sắc nhuốm ướt tất và ống quần, hai chàng đến ngồi nghỉ ở một gốc đa bên
cái giếng nước suối, để hong gió cho khô. Trong khi ấy người lính Mường đến góp
chuyện với mấy hàng gánh gà vịt ra chợ Trào bán.
- Hắn có nhà
đấy, các thầy ạ.
Y quay ra bảo
hai chàng.
- Thế à? May
quá nhỉ!
Hắn là người
mà chú lính «Sáu ba», sắp Çưa hai chàng đến nhà và người đàn bà báo tin kia là
vợ hắn.
Vượt một
cánh đồng rộng, theo ven một khu rừng rậm, leo hai quả đồi cỏ nữa, ba người mới
tới làng Nghĩa. Linh thật thà hỏi:
- Phải đi xa
thế này mới cắt được cỏ cho trâu ăn?
Khanh cười:
- Việc chính
có là việc cắt cỏ đâu.
Và «Sáu ba»
nghiêm trang tiếp, y như không cười không đùa bao giờ:
- Các thầy
không phải cắt cỏ. Cả tôi cũng vậy, chỉ việc chén say rồi ngủ một giấc, chiều về
thế thôi.
Làng Nghĩa,
một làng chết. Lũy tre sơ sác, lèo tèo vài chục nóc nhà. Người ở lưa thưa,
không một móng trẻ con nào ra đường. Khanh buồn rầu hỏi «Sáu ba»:
- Ở đây làng
nào cũng tiêu điều như thế này à?
- Không đâu,
thầy ạ, đây là một xóm nghèo nhất vùng này.
Linh cười:
- Tôi có cảm
tưởng đến một nơi vừa có bọn cướp đi qua. Chúng vét sạch của cải và nhân dân bỏ
trốn hết.
Người lính
thật thà đáp.
- Không đâu,
thầy ạ, trên chúng tôi không có cướp bao giờ. Còn thầy thấy vắng như thế này là
vì hôm nay là ngày phiên chợ Trào, cả làng đi chợ, chiều mới về cơ mà.. Nhưng
đây rồi, đến nhà hắn rồi.
Nhà hắn là một
căn nhà sàn bằng gỗ, làm trên một miếng đất nhỏ hẹp; lũy tre lụi từng đám, khiến
người ta có thể qua đó mà vào chứ không cần phải đi lối cổng. Cái cổng chỉ là một
công trình mỹ thuật mà nhà nào hình như cũng chăm chú đến. Nó cao, d* bằng tre
hay bằng gổ, và phần trên là một cái miễu con xinh xắn.
Một con chó
vàng, lông dài, đuôi vòng lên lưng như cái dấu hỏi, uể oải lên tiếng sủa, có lẽ
không phải để sua đuổi mà để báo cho chủ biết có khách đến chơi. Quả nhiên chủ
nhân thò đầu qua cửa sổ và khi nhìn thấy ba người, y vội vả chạy ra cầu thang
đón tiếp:
- Mời hai
quan với bác lên chơi. Hôm nay hai quan mới đến đây?
Thì ra nơi
này là nơi tụ họp hằng ngày của anh em đi cỏ.
- Hai ông
lên trước đi, tôi cất các thức rồi tôi lên sau..
Các thức là
ba đôi lẵng tre bé xíu và hai cái liềm đem theo để có vẻ đi cắt cỏ.
Linh và
Khanh tấm tắc khen cái nhà sàn đẹp và sạch sẽ. Nó khác nhà sàn Thổ ở chổ gian bếp
và gian đàn bà cách biệt, có phên liếp ngăn ra. Và nó sáng sủa hơn, vì mặt cái
cửa sổ hình chữ nhật đặt ngang mở rộng ra phía Đông Nam để đón ánh mặt trời và
không khí.
Trên cửa sổ,
một cái chiếu hoa cạp xanh giải xuống sàn, gổ ghép xít. Trên chiếu là một cái
khay thuốc phiện, với ngọn đèn dầu le lói trong cái chụp pha lê sáng bóng.
Khanh thì thầm bảo Linh: «Cái anh chàng này chừng là tay ăn chơi»
Chủ nhân cười
hỏi:
- Hai quan
muốn làm cái này? Nhà cháu xin tiêm hầu hai quan xơi?
Linh mỉm cười:
- Cảm ơn
ông. Chúng tôi xin vô phép.
Khanh tưởng
nên khen một câu làm thân:
- Cái nhà của
ông đẹp lắm l Bức sàn ghép toàn bằng gỗ quí.
Sáu-ba vừa
lên nói vọng vào:
- Ấy từ ngày
ông ta ra làm lý trưởng đấy.
Linh nói:
- Ở dưới
chúng tôi cũng vậy, ai ra làm lý trưởng là cũng tốn kém hao hụt.
Chủ nhân cười;
- Bẩm hai
quan, chúng tôi ở nơi sơn cước, bì thì nào được với quê quan.
Nhưng phải
nghĩ đến việc chính đã. Việc chính là đưa tiền cho chủ nhà nhờ sửa soạn một bữa
ăn. Khanh tháo giầy tất lấy đưa cho Sáu ba một tờ giấy năm đồng. Y giao ngay
cho chủ nhà và nói:
- Này, ông
làm giúp hai thầy bữa chén nhá.
Cái khách
sáo phong lưu bỗng thức dậy trong người Mường. Y giơ tay ra gạt:
- Ấy! ai lại
thế! Nhà cháu đã có gà, chả phải mua gì đâu mà hai thầy đưa tiền.
Cả ba người
phải nói khéo mãi, y mới chịu cầm tờ giấy bạc gập nhỏ bỏ túi. Rồi chủ và khách
ngồi nói chuvện chung quanh bàn đèn. «Sáu-ba» yên lặng nằm tiêm thuốc, và xong
mỗi điếu y lại quay mồi Linh, Khanh và người Mường. Nhưng lần nào ba người này
cũng từ chối và mời lại. Như thế y kéo luôn một lúc đến năm sáu điếu. Giữa câu
chuyện gia thế của người Mưòng, Linh quay sang Sáu-ba hỏi chen một câu:
- Thì ra bác
bếp cũng hương khói phụng thờ thần Phù dung đấy à?
Y không hiểu.
Linh phải giảng nghĩa:
- Bác nghiện
thuốc phiện à?
Y cười nhạt
nhẽo:
- Không, hút
chơi đấy thôi, thầy ạ, ở đây cần phải hút. Anh em chúng tôi hễ ai
không hút là
thế nào rồi cũng đi tiểu ra máu mà chết.
Chủ nhà gật
gù
- Bác ấy nói
đúng...!..Mà lại hút nhiều cơ chứ! Với lại làm cái nghề của chúng tôi, không ăn
không được cơ!
Cái nghề ấy
là nghề nấu thuốc phiện lậu, một nghề không nguy hiểm như người ta tưởng tượng
vì, - lời người Mường - « đã có quan Châu và các quan Lang che chở!» Y cho biết
rằng quan Châu đã kịch liệt phản đối việc xông xáo vào làng bắt thuốc phiện của
bọn lính thương chánh, và yêu cầu quan Tây mỗi khi đi bắt đâu phải báo cho quan
Châu biết.
- Hai quan
đã thấy chưa? Tây nó phải chịu nghe theo. Thế rồi mỗi khi nó định đi bắt đâu
thì quan Châu lại báo cho quan Lang biết, rồi quan Lang báo ngay cho mình biết
để mình giấu hàng đi. Vì thế mà sở thương chánh lập ra ở Vụ Bản phải bãi đi vì
chả có việc gì nữa. Bắt đâu ra thuốc phiện mà ở mãi đấy, ăn tốn tiền lương của
Tây phải không thầy?
Bốn người
cùng cất tiếng cười thích chí. Rồi đến lượt Sáu ba thuật chuyện buôn bán thuốc
phiện của y thưở xưa, cái nghề mà y yêu mến nhất trên đời.
- Thế sao lại
ra lính?
- Ấy, vì thế
này. Tây nó bắt quan Lang tuyển lính. Nhưng trên tôi chả ai muốn đi lính cả.
Quan Lang liền lập mưu, làm một bữa tiệc mời những người danh vọng đến ăn. Thế
rồi nó ép chúng tôi phải ra.
Chủ nhân sau
một điếu thuốc phiện, nằm ngửa nhìn khói tỏa bồng bồng trước mặt, vẻ nghĩ ngợi.
Bỗng y ngồi nhỏm dậy hỏi:
- À ban nãy
hai quan nói cái gì khói hương phụng thờ thế nhỉ? Phụng thờ thần gì thế?
Khanh cười
đáp:
- Ở Trung
Châu, nghiện thuốc phiện người ta nói hoa mỹ là:khói hương phụng thờ ả Phù
dung. Phù dung là thuốc phiện……(1)
- Ừ! mà mình
phụng thờ có thật, hai quan ạ. Nói đến khói hương, tôi lại nhớ một lần đã khổ sở,
mất ăn mất ngủ vì nó.
Và y thuật lại
câu chuyện cho Linh và Khanh nghe:
Người Mường
trọng sự thờ phụng tổ tiên. Và tuy mấy năm nay giá dầu quá cao, người vợ chủ
nhà này cũng cố mua được thứ dầu tốt, trong trẻo, thơm tho về thấp đèn thờ.
Chai dầu ấy nàng cất vào trong một rương khóa kỹ, sợ chồng lấy dùng vào ngọn
đèn thuốc phiện.
Sự lo ngại của
nàng quả một hôm thành sự thật. Hôm ấy, nàng đi chợ vắng, người chồng ở nhà đến
cơn nghiện mà hết dầu. Hắn biết vợ có một chai dầu còn gần đầy mà nàng cất
trong rương. Nhưng rương khóa, biết làm thế nào? Hắn cáu kỉnh toan lấy rìu phá
rương ra để tìm chai dầu. Về sau vớì cái giây thép hắn cũng mở được khóa.
Thế là bắt đầu
từ hôm ấy, hắn dùng toàn dầu cúng tổ tiên vào việc cúng ả Phù dung. Rồi hôm
chai dầu gần cạn hắn đâm lo sợ nghĩ thầm: «Con mụ mà nó biết thì khổ với nó ».
Hắn liền nhờ người đàn bà hàng xóm mua hộ một chai dầu cá với một giá rất rẻ, để
thế vào chỗ dầu đã dùng vào đèn thuốc phiện: « dầu gì thì cũng đến đốt có ngọn
là được! Can chi lại đi dùng dầu ăn thuốc để mà thắp đèn, phí quá! Đàn bà rõ lẩn
thẩn quá!»
Nhưng hôm
dùng đến dầu để cúng, người vợ mở nút chai, bỗng chun mũi lại kêu:
- Sao mà dầu
hôi thế này?
- Hôi à? Người
chồng vờ hỏi. Sao lại hôi?
- Hôi quá.
Ngửi xem đây này!
Người chồng
ra ngửi thử cũng chun mũi lại như vợ.
- Hôi mà lại
còn tanh nữa.
- Tại sao thế
nhỉ?
- Ai mà biết.
Chắc mình mua phải thứ dầu xấu, nó lên men nên nó ra thế.
- Để rồi phải
mắng cho lão hàng dầu mới được. Nó lại cậy nó là người Kinh nó đánh lừa dân Mường
à. Để chai dầu đây, phiên chợ sau đem ra phố bắt nó đổi.
Người chồng
mỉm cười giàn xếp:
- Thôi, sinh
chuyện với người Kinh làm gì? Với lại dầu nào mà chả thắp được, quý hồ cháy thì
thôi. Có ăn đâu mà cần thơm tho.
Người vợ
chau mày, giận dỗi:
- Thế thì mất
nhiều tiền mua dầu tốt làm gì. Việc thờ cúng mà hôi tanh thế này, sao được.
Người chồng
cố tìm lý để tránh cho vợ một cuộc đôi co bất công với người Kinh.
- Dẫu sao cũng
lỗi tại mình. Ai bảo mình nhầm. Người ta có thể đổ cho mình đem về thay dầu
khác vào để bắt đền người ta cơ mà.
Nói dứt câu ấy
và nghĩ đến sự thực hắn cười vui vẻ đổ dầu ra đĩa:
- Ở chai thì
nó hôi, chứ rót ra đĩa cũng không đến nỗi mình ạ.
Đến đây, người
Mường ngừng lại kéo hơi thuốc phiện, rồi hắn nhớn nhác nói:
- Chính cái
việc ấy đã làm cho tôi khốn khổ đấy.
Khanh ngơ
ngác hỏi:
- Sao vậy?
Bà ấy làm ông khổ, phải không?
- Không, đâu
có thế. Nhưng mà cũng được vài lần thì các Ngài không về nữa.
- Ai kia? Ai
không về?
- Các Ngài.
Tổ tiên ấy mà!
- Tổ
tiên!Sao ông biết các Ngài không về?
- Sao lại
không biết!
Hắn nhắc đi
nhắc lại mãi một câu như còn đang ở dưới sức đe dọa của Tổ tiên:
- Thế mới chết
chứ! Các Ngài bỏ đi biệt, thế mới chết chứ. Các Ngài không về nữa thế mới chết
chứ!
Khanh và
Linh cố giữ để khỏi bật cười, vì hai chàng cũng không thể tưởng tượng được người
Mường kia làm thế nào mà biết rằng các Ngài không về. Muốn hỏi để biết nhưng lại
sợ làm phật lòng con người tín ngưỡng.
- Thế rồi
sau các Ngài có về không?
Khanh có giữ
vẻ trang nghiêm hỏi lại một câu.
- Ôi giời
ôi, tôi khổ sở mất một tháng, kêu cầu van lạy các Ngài mới lại chịu về. Vợ tôi
thì khóc lóc mãi.
- Thế bây giờ
các Ngài đi về rồi, thì hẳn ông kệch đến già không dám dùng mỡ hôi thắp đèn thờ
nữa chứ?
- Vâng. Cái
chỗ dầu hôi tôi đem vứt xuống suối cho chảy đi mất tích. Nhưng một đêm nguy quá
hai quan ạ, tôi lại bị con ma thuốc phiện xúi dục làm càn. Các quan có tin rằng
có ma thuốc phiện không? Đêm hôm ấy tôi hút mới được hai điếu thì hết dầu. Mua
dầu ư? Mua ở đâu. Chẳng lẽ đương đêm mò ra phố… Mà khuya khoắt ai người ta bán
cho! Tôi đương mơ màng nằm nghĩ cách làm thế nào để hút được cho đủ cơn nghiện,
thì bỗng tôi chập chờn ngủ thiếp đi. Ấy chính lúc bấy giờ con ma thuốc phiện nó
hiện về đấy, hai quan ạ.
- Nó hiện về?
Thế hình thù nó thế nào? Khanh hỏi.
Người nghiện
mắt mở to như còn đương bị ma nạt. Và hắn kể tiếp:
- Nó cao
lênh khênh, đầu nó to như cái dành mà hốc hác giơ xương ra. Mắt nó sâu như hai
cái hang, răng nó nhe ra. Nó giơ tay trỏ mãi vào cái rương để xui tôi đến mở mà
lấy dầu. Thấy tôi làm thình nó lay tôi dậy. Tôi mở mắt ra thì nó đã biến mất.
Ánh giăng chiếu xiên qua cửa sổ, gian nhà sáng rõ và tôi đăm đăm nhìn cái rương
kê làm bàn thờ tổ tiên. Đã hai ba lần tôi lần ra ngắm nghía cái khóa rồi nghĩ đến
các cụ tôi lại sợ hãi quay về chiếu nằm bên khay đèn tắt lửa. Nhưng động chợp mắt
thì con ma lại hiện lên. Lần này nó ghé hẳn vào tai tôi nó thì thầm: « Mày sợ
ông vải mày hơn sợ tao à? Mày mà để lửa thờ tao tắt lụi, thì tao bóp cổ, tao vật
chết tươi bây giờ ».
Chẳng đừng
được tôi phải đánh liều đi lấy cái chìa khóa giây thép mở rương lôi chai dầu
ra, chiết vào phẩu đèn, đánh diêm thắp lửa. Ngọn đèn lúc bấy giờ sao mà đẹp thế,
cứ sáng tươi mà trong vắt lên thôi. Tôi cằm chai dầu giơ lên xem. Còn những già
một nửa. Và tôi vui vẻ nghỉ thầm: « Thế mà mình cứ lo sợ vẩn vơ. Cứ dùng rồi
mai kia ra phố mua bù vào, đã sao » Hút luôn một lúc năm, sáu điếu tôi lại ngủ
thiếp đi. Thì nó lại đến.
- Con Ma?
- Vâng con
ma, nó lại đến. Lần này nó reo mừng nhảy múa. Rồi con nữa, rồi con nữa, một lát
sau đến gần một chục con ma hiện về nắm tay nhau mà nhảy chung quanh cái bàn
đèn mà hát những bài ca thuốc phiện và cười khanh khách. Mãi gà gáy sáng chúng
nó mới đi và tôi mới thức dậy.
Rồi tối sau
cũng thế hai quan ạ, ma nó lại về nó xúi tôi lấy dầu cúng để thắp đèn thuốc phiện.
Tôi sợ hãi quá phải đánh thức vợ tôi dậy kể cho nghe câu chuyện. Vợ tôi giận
tôi phát khóc lên. Và sáng hôm sau đi phố sớm mua chai dầu khác cất kỹ không
cho tôi biết chỗ. Nó không biết cái ám ảnh ghê gớm của con ma thuốc phiên nên
nó chỉ sợ ông vải thôi. Nó bảo lần sau mà còn đem dầu hôi rẻ tiền ra cúng các
Ngài thì các Ngài đi hẳn đấy không về nữa đâu.. Các Ngài đã báo cho nó biết thế.
Sợ quá! hai
quan ạ! Các quan tính ông vải thì còn thương con cháu. Các Ngài giận thì các
Ngài bảo thế thôi. Chứ con ma thuốc phiện thì nó thương gì mình phải không, hai
quan? Không vâng theo mệnh lệnh của nó thì nó bóp chết thật đấy, hai quan ạ. Ở
dây chán người làm trái ý nó, nó đưa đường cho lính đoan bắt giam, chết khô ở
trong nhà pha vì không có thuốc hút cơ đấy.
Rồi hắn ta
nhắc đi nhắc lại mãi một câu:
- Gớm thật
con ma thuốc phiện!
Trong khi hắn
kể câu chuyện thuốc phiện cho Linh và Khanh nghe thì Sáu-ba nằm ngủ kéo một giấc
ngon lành. Mãi lúc con gái hắn bưng mâm lên hắn mới lay dậy. Khanh mỉm cười hỏi:
- Thế nào
Sáu ba có thấy con ma thuốc phiện hiện về không?
Hình như Sáu
ba đã nhiều lần được nghe câu chuyện vừa kể nên y mỉm cười hỏi chủ nhân:
- Lại chuyện
con ma thuốc phiện và chai dầu hôi, phải không?
- Vâng, nó
ghê gớm lắm đấy, cái con ma thuốc phiện, trêu vào nó thì cứ là chết!
Buổi chiều
khi mặt trời đã khuất núi, ba người gánh ba gánh cỏ nhẹ thênh thang trở về trại
giam, Khanh hỏi Sáu ba:
- Này ông
Sáu ba, làm thế nào mà cái ông chủ nhà ấy biết rằng các Ngài không về?
Sáu ba ngơ
ngác hỏi lại:
- Các Ngài
nào thế?
- Tổ tiên ấy
mà! Ông vải ấy mà!
- À! lại
chuyện chai dầu hôi. Biết chứ! Xin âm dương thì biết các Ngài về hay không về
chứ!
- À ra thế.
Khanh và
Linh cùng cất tiếng cười vui thú.
- Thế mà
mình nghĩ mãi không ra.
Từ đó thỉnh
thoảng Linh và Khanh lại xin đi cắt cỏ để ăn cháo gà và nghe những câu chuyện
thật thà của người bạn Mường trong làng Nghĩa.
Chú thích:
( 1) Những
chỗ có ghi dấu chấm chấm là do bản thảo bị mối xông mất một dòng. Truyện này mấy
năm trước, tôi đã có cho in đầy đủ trong một tờ báo mà chưa tìm lại được. (Chú
thích của Nguyễn Thạch Kiên)
ĐỢI TẾT
TRONG TÙ
hững ngày cuối
cùng của nhà văn Khái Hưng
Cuối năm
1946 tại Hà Nội… Mùa đông đã tới trên đất Bắc mang theo gió bấc lạnh buốt thấu
xương. Lúc đó, tình hình căng thẳng giữa Việt Minh và Pháp đã chín mùi và chiến
trang Việt – Pháp bùng nổ vào buổi tối ngày 19- 12.
Chúng tôi đã
tản cư khỏi Hà Nội từ hai tuần trước và trở về quê ở gần làng Cố Lễ (huyện Nam
Trực, Nam Định), mặc dầu biết rằng vẫn bị trinh sát theo rõi từng bước. Ngay
khi bộ đội đột kích quân đội Pháp ở Thủ đô, thì tại Nam Định. lực lượng của thực
dân cũng bị bao vây và đồng thời Tổng bộ Việt Minh hạ lệnh « quét » hết các chiến
sĩ Quốc Gia. Bởi vậy ngay tối hôm sau (20-12), chúng tôi ba người đều bị công
an đang đêm xông vào nhà từng người bị bắt trói giam tại quận lỵ. Nhưng số phận
chúng tôi còn « hên »: chín ngày sau, đúng lúc chúng tôi bị trói thành « xâu »
và sửa soạn dẫn đi « trôi sông » thì một công điện của Trung Ương tới chỉ thị
cho Công an không được bắn chết bừa bãi, phải lập hồ sơ tội trạng để đưa chúng
tôi ra tòa án. Thế là ngay đêm ấy, chúng tôi bị áp giải lên trại giam của Công
an tỉnh đặt tại chiến khu Lạc Quần (huyện Xuân Trường – Nam Định ). Lúc đó đã
sang tháng chạp âm lịch. Thiên hạ bắt đầu sửa soạn Tết. Chợ Lạc Quần trở nên tấp
nập hơn những ngày thường và đã điểm mầu chợ Tết, với bánh, mứt, cam, bưởi, tỏa
mùi thơm tới trại giam chúng tôi cách chợ chừng 200 thước.
Ở đây toàn
thể đều là chính trị phạm. Từ các huyện dồn về, số anh em càng ngày càng tăng…
nhưng cũng chưa đến nỗi phải chen chúc nghẹt thở; sàn gỗ chiếu manh và cơm nắm
muối vừng vẫn còn đủ chia nhau. Bị kiểm soát và theo rõi liên tục chúng tôi chẳng
ai dám nói gì về chính trị và kính tế. Trái lại nhân cảnh chợ Tếtgnầ bên, chúng
tôi đưa ra những đề tài «Tết» đã có chuyện mà nói với nhau …và cũng rục rịch để
trong ít ngày nữa cùng nhau ăn một cái Tết thuần túy «tinh thần», vì dĩ nhiên
chúng tôi sẽ phải tiếp tục sống trên sàn gỗ chiếu manh và ăn cơm nắm muối vừng
trong ba ngày Nguyên Đán …
Ngày hôm sau
khi ba chúng tôi - Lụy, Thành, Văn - bị di chuyển về trại Lạc Quần, và trong
khi anh em chính trị phạm đang bàn tán về chuyện Tết …thì một buổi chiều mọi
người được tin lát nữa sẽ có hai ông bạn mới, hình như do Công an quận Trực
Ninh bắt rồi cũng đưa lên giam giữ lại đây như trường hợp chúng tôi. Hai người
hiện còn ở ngoài văn phòng chi trưởng Công an (tên Thịnh, con ông Hoàn Thành,
tiệm mũ có tiếng ở Nam Thành).
Tới 5 giờ
chiều (giờ cũ), chúng tôi tập họp ăn cơm. Vừa ngồi xệp xuống đất và bẻ đôi nắm
cơm thì một công an viên dẫn hai người vào cho nhập bọn với chúng tôi. Một người
chừng trên bốn chục tuổi có vẻ hào hoa phong nhã nhưng hơi gầy yếu. Âu phục chỉnh
tề: Complet và cà vạt, mũ « phớt », ngoài khoát pardessus de ville, tay xách một
cặp da cũ đựng quần áo và đồ dùng vặt.
Người thứ
hai trẻ hơn cũng mặc âu phục nhưng đơn giản: quần đen, sơ mi và áo len nâu dài
tay với một bọc vải gói ghém áo quần và vật dụng.
Trong gian
phòng ẩm thấp và thiếu ánh sáng tất cả chúng tôi cùng đứng lên hân hoan đón hai
bạn mới. Bỗng anh Văn trố mắt nhìn kỹ hai người rồi thốt lên:
- Tưởng ai
xa lạ … hóa ra anh em nhà cả!
Rồi anh ghé
tai Lụy nói thầm:
- Anh Khái
Hưng đấy! chắc anh đã đọc những tác phẩm của anh rồi. Còn anh giáo Dưỡng vẫn
thường đi lại hoạt động với chúng ta … ». Lụy gật đầu mỉm cười. Bộ ba chúng tôi
tới bắt tay anh rồi cùng ngồi ăn ngấu nghiến cho xong bữa. Chiều hôm ấy may mắn
có thêm chút rau muống sống do anh Văn hái trộm trong thửa ruộng sau nhà. Chúng
tôi gọi nhựng món ngoài lề như vậy là những món «siêu vô sản ».
Sau bữa ăn,
chúng tôi ra bờ sông (cũng thuộc phạm vi trại giam) rửa bát đủa chân tay rồi về
quây quần xung quanh một ngọn đèn dầu hỏa tù mù. Anh Văn với tư cách là người
đã quen biết anh Khái Hưng từ lâu (1) ngồi ở bên anh. Cuộc họp bắt đầu ngay bằng
câu chuyện của anh K.H. Về trường hợp anh bị bắt:
«Tôi tản cư ở
Hà Nội về Nam Định, ít lâu trước ngày Tác Chiến, qua tỉnh lỵ, mặt trận Liên Việt
cấp chứng minh thư cho tôi về quê tạm trú tức là quê vợ tôi tại làng Lịch Diệp,
quân Trực Ninh (2). Trước ngày Tác Chiến, họ không đá động gì đến tôi cả, tôi vẫn
được tự do đi lại. Buổi chiều gần tối tôi thường đi chơi ở ngoài làng, đi hóng
gió và ngắm cảnh đồng ruộng. Có khi đứng nói chuyện với dân quân du kích tới
khuya trong điếm gác... Thế rồi xảy ra Tác chiến ở Hà nội. Ngày hôm sau tôi bị
gọi ra Ủy Ban Xã, giấy tờ bị thu hết rồi họ bắt tôi đưa lên Công An huyện. Tôi
bị giam giữ ở đó cho tới trưa nay cùng với anh Dưõng và nhiều người khác rồi họ
đưa hai chúng tôi về đầy ở cùng với các anh. Dĩ nhiên họ coi tôi là một người
nguy hiểm...Lệnh từ trung ương xuống, cấp dưới chỉ biết thi hành.
«Tuy rất nhiều
người có cảm tình với tôi, nhưng họ không dám đi ngược lại chỉ thị cấp trên. Dù
sao tôi cũng chưa bị đánh đập tra khảo gì cả ».
Nói tới đó,
bỗng anh ngước mắt nhìn chằm chặp vào mặt Thành:
- Hình như
trước tôi đã gặp anh nhiều lần, không nhớ ở đâu?
- Thầy quên
rồi à!Mấy năm trước tôi học trường Thăng Long…thầy dạy Việt văn mà! (3)
Do đấy chúng
tôi mới biết K.H. là thầy cũ của Thành.
Nhưng anh
nói chặn ngay:
- Thôi chú cứ
gọi tôi bằng «anh ». Bây giờ chúng mình đều là anh em cả! Lúc đó. Nhóm chúng
tôi lại được thêm một người nhập bọn: anh Xuân Bách, bạn thân của anh Lụy, vừa ở
tóp khác nhảy sang góp chuyện. (4).
Mấy phút
sau, ba tiếng cồng báo hiệu đã tới giờ ngủ. Đội nhân viên «trực» tới dồn chúng
tôi sang ngôi nhà hai tầng dùng làm phòng ngủ phạm nhân. Cùng với nhiều anh em
khác. Nhóm chúng tôi ngủ trên gác - một sàn gỗ không giường màn không chăn gối,
ngoài đống chiếu tạm đủ cho mỗi người vừa trải vừa đắp. Nhưng may mắn là ở đây
rất ít muỗi. Hơn nữa, căn phòng họp và kín đủ giữ hơi thở của chúng tôi lại để
sưởi ấm lẫn nhau đỡ lạnh được phần nào.
Đêm ấy, vì
anh giáo Dưỡng không mang chăn theo, nên phải đắp chung với một bạn khác sẵn có
một tấm chăn len khá rộng. Còn anh K.H.dùng áo choàng thay chăn, khăn len bọc cổ
và gối đầu trên cặp da phủ khăn bông.
***
Hồi ấy Lạc
Quần là một chiến khu quan trọng của miền Nam Trung Châu Bắc Việt ( thuộc Liên
khu 3). Trại lính « khố xanh » cũ lúc đó đã biến thành Bộ Tư lệnh của đại tá Việt
Minh Hà Kế Tấn. Công an tỉnh Nam Định đặt trại giam gần sát đó để có thể nhờ bộ
đội can thiệp tức khắc nếu xảy ra những trường hợp bất ngờ ( các chính trị phạm
nổi loạn hoặc các nhóm quốc gia đánh úp để giải phóng đảng viên). Anh em chúng
tôi thuộc nhiều đoàn thể khác nhau: Việt Quốc, Việt Cách, Duy Tân, Dân Tộc,
Công giáo … không thiếu một đảng phái chống Cộng nào. Đến trung tuần tháng chạp
âm lịch, tổng số lên tới gần 50 người.
Đời sống tại
đây tương đối dễ chịu vì lúc đó Việt Minh còn bận tổ chức kháng chiến chống
Pháp, chưa nghĩ tới việc hành hạ chúng tôi. Ngoài điểm ăn ngủ kham khổ, chúng
tôi không hề bị gông cùm xiềng xích và cũng không phải làm việc gì cực nhọc, chỉ
có một lần chúng tôi được đi vác gạch cho bộ đội xây đồn, riêng vì anh K.H yếu
đuối nên bị chúng loại ra. Tuy nhiên không phải không có những cuộc tra tấn.
Đêm nào cũng
có vài ba người bị gọi lên phòng đồn trưởng để hỏi cung đúng vào lúc ba tiếng cồng
«ngủ» dóng lên. Đánh đập, kìm kẹp, quay điện, tra tấn đủ kiểu cho tới khuya mới
thả cho về.
Và mỗi buổi
sáng chúng tôi lại thay phiên đấm bóp và săn sóc những nạn nhân đêm trước.
Bởi vậy,
ngay buổi sáng ngày thứ nhì, anh K.H. đã nhìn thấy rõ « nếp sống và thủ tục »
trại giam. Và cũng từ buổi đó, chẳng bao giờ chúng tôi được nghe anh nói một mảy
may gì liên quan tới chánh trị hay là tình thế. Mặc dầu trông đợi phiên mình,
nhưng trong suốt thời gian(vào khoảng (15 – 20 ngày) chung sống với chúng tôi,
anh chẳng hề bị gọi lên « chịu trận » một lần nào cả. Trái lại, có một số công
an viên kể cả đồn trưởng Thịnh tỏ ra rất hâm mộ và kính nể anh. Có lẽ không gì
khổ tâm hơn cho một nhà văn khi phải sống trong cảnh hoàn toàn không giất bút
và không sách vở. Lúc ra đi, bọn Công an không cho anh mang theo một chút gì để
đọc và viết; Tới đây anh đành bó tay, và luôn ngỏ ý thèm đọc, bất cứ sách gì. Một
hôm, có một công an viên – anh Thân – vì cảm mến K.H. đã mang tặng anh một tập
giấy trắng với một cây bút chì trong lúc chúng tôi đang ngồi quay lại để anh
xem tướng cho từng người. Anh K.H.xem tướng rất giỏi - cả tướng tay lẫn tướng mặt.
Coi tay anh Lụy, anh bảo là người dễ tính và rộng rãi – anh Thành sẽ vất vả một
đời vì bộ tóc rễ tre – anh Văn khó lòng sống tới 50 tuổi …Đến nay tôi thấy những
lời anh tiên đoán về số mệnh đều rất đúng.
Từ lúc có giấy
bút, chiều nào Khái Hưng cũng ra bờ sông ngồi viết nhật ký, Công an viên Thân
thường lui tới để nhờ anh sửa văn. Và bọn anh em chúng tôi cũng bắt đầu gác bỏ
đề tài Tết để nhảy sang địa hạt văn nghệ.
Từ bữa đó,
anh K.H. đã nói khá nhiều với chúng tôi về các vấn đề văn chương, thi ca, tiểu
thuyết vì đây là sở trưởng của anh. Lâu ngày quá rồi anh, chúng tôi không còn
nhớ được nhiều. Riêng anh Lụy còn nhớ được một điểm khi hỏi anh về vai trò của
VỌI trong cuốn TRỐNG MÁI. Khái Hưng nói:
« Trong tác
phẩm này, phong cảnh Sầm Sơn là chính, còn vai trò của VỌI chỉ là phụ, tức là để
tả người Sầm Sơn và cảnh Sầm Sơn ».
Lúc nào Khái
Hưng cũng tỏ ra bình thản và vui tính. Ngoài những cuộc đàm luận văn chương anh
còn thích đánh cờ và rất ham nói chuyện và trong bất cứ chuyện gì anh cũng cài
xen vào những câu khôi hài rất dí dỏm và đầy lý thú.
Buổi tối,
sau bữa ăn, anh thường kể chuyện cho chúng tôi nghe. Tài kể chuyện của anh ít
người sánh kịp; dù chỉ là những mẫu việc rất thường anh cũng có thể biến thành
một câu chuyện đầy hứng thú, vì óc sáng tạo tuyệt diệu và giọng nói quyến rũ của
anh.
Tối nào anh
cũng kể cho nghe một chuyện, hoặc Liêu Trai hoặc những kỷ niệm làm báo, viết
văn và ở tù. Mẩu chuyện của anh mà cả hai chúng tôi nói mãi tới nay là chuyện
anh tập hút thuốc lào trên trại giam Vụ Bản (Hoà Bình): Tuy không biết hút
nhưng tôi đã gắng tập hút để có thể nhập bọn và gây tình thân thiết với các chú
lính Mường. Sau đó, đêm nào tôi cũng tụ họp với họ chung quanh một chiếc điếu cầy
«gộc» luân phiên liên hồi hút thuốc lào và kể chuyện. Tôi đã được nghe nhiều
chuyện đường rừng rất ly kỳ, tôi cũng kể nhiều chuyện lịch sử và thần tiên. Chỉ
một tuần sau tất cả đám lính Mường canh giữ trại đều trở nên « ghiền » nghe
chuyện, mỗi khi hơi rảnh rỗi là họ tìm tới và đòi kể chuyện như đòi nợ ».
Ngoài ra,
anh K.H. còn là một người rất giàu tình cảm. Mỗi lần nói chuyện hoặc kể chuyện,
không bao giờ anh quên nhắc tới một vài bạn cũ – và gặp ai anh cũng tùy trường
hợp hỏi thăm tin tức về những người anh đã từng quen biết. Trong thời gian bị
giam với chúng tôi, một hôm có cậu con nuôi tới thăm anh(5). Và đêm hôm đó anh
lại có dịp kể cho chúng tôi nghe những mẩu chuyện về tình bạn giữa anh và văn
sĩ Nhất Linh …nhưng không hề đá động gì tới cuộc đời chính trị và cách mạng của
hai người.
Rồi một buổi
chiều. Hôm đó đã quá rằm - có lẽ 16, 17, 18, tháng chạp âm lịch, một ngày cận Tết
- vào khoảng 4/5 giờ trong khi chúng tôi sắp ăn cơm tối, tên Thoại (công an
xung phong) tới báo cho Khái Hưng biết rằng có lệnh mời anh lên « Trung ương »
vì cấp Tình không có quyền thẩm vấn và tra xét xử anh- Hắn dục anh thu xếp đồ đạc
để cũng đi ngay với hắn - đi lúc chiều tối để tránh máy bay địch.
Mười phút
sau, anh đã sẳn sàng trong bộ Âu phục với áo choàng, mũ ‘phớt’ và chiếc cặp da
cũ trong tay như khi anh mới bước chân tới trại Lạc Quần- Bùi ngùi cảm động..anh
đi bắt tay từ biệt từng anh em phạm nhân... Anh Văn rơi lệ. Mọi người buồn xỉu...
- «Chào anh
em ở lại!»
Đó là lời cuối
cùng của Khái Hưng. Câu đó tới hôm nay vẫn còn in sâu trong tâm khảm hai chúng
tôi. Dù anh không nói thêm lời nào nữa, nhưng chúng tôi đều nhìn thấy trên vẻ mặt
anh một nỗi ưu tư vô hạn... Có lẽ vì cảm thấy rằng chuyến đi này sẽ kết liễu đời
anh...
Từ hôm đó,
nhóm chúng tôi – Văn, Lụy, Thành, Xuân - chẳng ai buồn để ý đến cái Tết sắp tới,
mà chỉ suốt ngày nhắc tới kẻ ra đi không có ngày về …
MAI CHI
(XUÂN 1964)
Chú thích:
1) Anh Lưu
ngọc Văn là tác giả hai tập sách hát trẻ em do nhà Đời Nay xuất bản trong loại
« Sách Hồng » vào khoảng 1940 – 41
2) Bà Khái
Hưng là con của cụ Thượng Đính ở làng Lịch Diệp
3) Một trường
Trung Học (tư thục) nằm ở góc chợ Hàng Da, Hà Nội. trường này nổi tiếng tại Bắc
Việt hồi tiền chiến; đa số giáo sư là các nhà cách mạng
4) Chính tên
là Vũ mạnh Xuân; hiện là Đại úy thuộc ngành vận tải ở Nha Trang.
5) Anh Nguyễn
Tuờng Triệu, con đẻ của nhà văn Nguyễn Tường Tam được trao cho làm con nuôi anh
Khái Hưng vì tình bạn cố giao giữa hai nhà văn.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire