Sài Gòn trong ống kính người ngọai quốc tháng... par crth2837
Thủ đô cũ mang tên Sài Gòn, và dân nơi đó không thể nào không nhớ đến
Đường Catinat và nếp sống Sài Gòn ngày xưa
Kính mời quý anh chị đọc bài sưu tầm và xem lại một số hình cảnh cũ để Còn Một chút Gì Để Nhớ chứ Không Quên.
Caroline Thanh Hương
Có thể nói đường Đồng Khởi là chứng nhân của những thăng trầm trong
lịch sử đất Sài Gòn, là trái tim tưng bừng nhịp sống của một thành phố
không ngừng đổi mới, cho đến ngày nay vẫn tiếp tục là một trong những
con đường quan trọng nhất của Sai Gòn.
Năm 1861, khi Sài Gòn lọt vào tay quân Pháp thì con đường này đã có
một quá trình dài góp mặt vào sinh hoạt của cư dân địa phương. Nó được
biết đến nhiều vì ở đầu con đường, nơi giáp với bờ sông (sông Sài Gòn),
từng là nơi vua nhà Nguyễn đến nghỉ ngơi và … tắm (Bến Ngự). Tuy nhiên,
từ trước năm 1865, nó cùng 25 con đường khác chỉ mang số thứ tự kế tiếp
nhau, từ 1 đến 26. Phải chờ đến ngày 1-2-1865, Đề đốc De La Grandière
mới đặt tên cho từng con đường một và con đường số 16 lần đầu tiên mang
tên Catinat. Nhiều người không rõ xuất xứ của tên này. Theo một số sử
liệu, Catinat là tên một thống chế Pháp sinh năm 1637 và mất năm 1712,
phục vụ dưới thời vua Louis XIV. Giữa thế kỷ XIX, Pháp lấy tên Catinat
đặt cho một chiếc tàu chiến từng tham gia trận đánh Sài Gòn năm 1859 và
dựa vào chi tiết này, De La Grandière đặt cho con đường số 16 tên
Catinat (trường hợp tương tự cũng xảy ra với rạch Thị Nghè, được Pháp
gọi là Arroyo d’Avalanche).
Một trong những tác giả Pháp đầu tiên là Pallu de la Barrière đã miêu
tả con đường số 16 này vào năm 1861 như sau: “Du khách đến Sài Gòn nhìn
thấy bên hữu ngạn con sông một loại đường phố mà hai bên bị đứt quãng
bởi những khoảng trống lớn. Phần lớn nhà cửa làm bằng cây lợp lá cọ
ngắn; số khác ít hơn, làm bằng đá. Mái nhà lợp bằng ngói đỏ làm vui mắt
và tạo được cảm giác yên bình…”. Tính cách quan trọng của con đường
Catinat thể hiện ở chỗ nó được thực dân Pháp sử dụng làm trung tâm của
bộ máy thuộc địa. Đầu tiên, vào năm 1863, ở vạt đất nằm giữa hai con
đường Mossard (nay là Nguyễn Du) và Gouverneur (sau là De La Grandlière,
Gia Long, nay là Lý Tự Trọng), họ dựng lên dinh Thủy sư Đề đốc, cơ quan
đầu não của thực dân Pháp tại Viễn Đông, gần chiếc đồng hồ lên cái tháp
trước dinh, từ đó, quảng đất trống phía trước (nay là khu đất trước mặt
tiền Nhà thờ Đức Bà) được gọi là “Quảng trường Đồng hồ” (Place de
l’Horloge). Ngày 15-8-1865, tại quảng trường này đã diễn ra một buổi lễ
trong thể có duyệt binh do chính De La Grandière chủ trì nhằm tôn vinh
Hoàng đế Pháp Napoléon III và Hoàng hậu.
Năm 1864, Nha Giám đốc Nội vụ (Direction de I’ Intérieur), người dân
đương thời gọi là “Dinh Thượng thơ”, được xây dựng, nhìn ra đường
Catinat, ở phía đối diện dinh Thủy sư Đề đốc. Viên chức lãnh đạo cơ quan
này, xét về mặt cai trị, chỉ xếp sau Thống đốc Nam Kỳ, trực tiếp chỉ
huy các tham biện Pháp và quan lại Việt Nam hàng Huyện, Phủ, Đốc phủ sứ.
Đầu thập niên 1880, ngay trên lộ trình con đường chạy qua, mọc lên ngôi
nhà thờ Notre Dame, về sau được cư dân Sài Gòn gọi là Nhà thờ Đức Bà
hay Vương cung Thánh đường. Sau lưng nhà thờ là đường Norodom (nay là Lê
Duẩn), lấy tên ông hoàng xứ Cambodge (Campuchia) đến thăm Sài Gòn vào
đầu năm 1867, nhân cuộc đấu xảo canh nông đầu tiên tổ chức tại đây.
Năm 1886, Pháp khởi công xây trụ sở chính Sở Bưu chính và Viễn thông
(nay là Bưu điện ) trên khu đất đối diện với mặt tiền nhà thờ, nằm giữa
con đường Catinat và đường Paul Blanchy (nay là Hai Bà Trưng). Cuối
đường Catinat, người ta nhìn thấy một tháp nước cao được xây dựng năm
1878 nhằm cung cấp nước uống cho cư dân trong vùng. Tuy nhiên, đến năm
1921, với sự phát triển của dân cư, tháp nước này không còn đáp ứng được
yêu cầu nên bị đập bỏ. Ngày 1-1-1900, nhà hát Tây (nay là Nhà hát thành
phố) được khánh thành trên giao lộ đường Bonard (nay là Lê Lợi) và
Catinat, trở thành nơi biểu diễn thường xuyên của những đoàn hát từ
phương Tây đến.
Nhịp sống trên đường Catinat
Sinh hoạt của đường Catinat vào những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ
XX được tác giả Nguyễn Liên Phong miêu tả sinh động trong Nam kỳ phong
tục nhơn vật diễn ca xuất bản tại Sài Gòn năm 1906:
Nhứt là đường Ca-ti-na,
Hai bên lầu các, phố nhà phân minh
Bực thềm lót đá sạch tinh
Các cửa hàng bán lịch thanh tốt đều
Máy may mấy chỗ quá nhiều,
Các tiệm tủ ghế dập dều (sic) phô trương
Đồ sành, đồ cẩn, đồ đương
Đồ thêu, đồ chạm trữ thường thiếu chi
… Nhà in, nhà thuộc, nhà chà,
Nhà hàng ăn ngủ với nhà lạc son (xoong) ~
… Phong lưu cách điệu ai bằng
Đường đi trơn láng, đền giăng sáng lòa
Thứ năm, thứ bảy, thứ ba
Với đêm chúa nhựt hát nhà hát Tây…
Hai bên lầu các, phố nhà phân minh
Bực thềm lót đá sạch tinh
Các cửa hàng bán lịch thanh tốt đều
Máy may mấy chỗ quá nhiều,
Các tiệm tủ ghế dập dều (sic) phô trương
Đồ sành, đồ cẩn, đồ đương
Đồ thêu, đồ chạm trữ thường thiếu chi
… Nhà in, nhà thuộc, nhà chà,
Nhà hàng ăn ngủ với nhà lạc son (xoong) ~
… Phong lưu cách điệu ai bằng
Đường đi trơn láng, đền giăng sáng lòa
Thứ năm, thứ bảy, thứ ba
Với đêm chúa nhựt hát nhà hát Tây…
Vào thời kỳ này, đường Catinat là bộ mặt sinh hoạt của cả Sài Gòn,
thành phố thuộc địa đầu tiên ở vùng Viễn Đông với sự hiện diện của
khoảng 3.000 người Pháp, hơn 3/4 trong số này là sĩ quan và viên chức.
Lính Pháp ở trong các bungalow (loại nhà gỗ có hiên rộng) nằm khuất
trong những vườn cây xanh. Để tiết kiệm chi phí và tìm sự đông vui hai,
ba anh chung nhau tiền mướn một chỗ ở, có sự giúp việc của một anh bồi
(boy) bản xứ, đi chợ, giặt giũ, nấu ăn… Sinh hoạt dân sự trên đường
Catinat cũng được những người Pháp đương thời miêu tả đúng như Nguyễn
Liên Phong. Hai bên đường, các thợ may, thợ đóng giầy người Hoa hoạt
động khá đông, sau đó đến các cửa hiệu tạp hóa, nơi du khách có thể tìm
thấy thức ăn khô, mũ nón hay yên cương… Từ ngày 24-2-1897, đoạn đường
Catinat từ phía sau nhà thờ Đức Bà đến tháp nước (nay là Hồ Con Rùa)
mang một tên mới là đường Blancsubé. Về sau nữa, khi thành phố được mở
rộng hơn, con đường được tiếp tục nối dài đến đường Mayer (sau là Hiền
Vương, nay là Võ Thị Sáu) và khúc cuối này có tên là đường Garcerie.
Tiêu biểu cho sinh hoạt trên đường Catinat vào thời kỳ đầu Pháp thuộc
là nhiều cơ sở dịch vụ thương mại được thành lập từ rất sớm. Sớm nhất
có thể không đâu hơn Hãng Denis Frère mọc lên ở đầu đường, phía bờ sông,
nay là khu vực của Grand Hotel, đối diện với Nhà hàng Majestic phía bên
kia đường. Sau Denis Frère là hiệu thuốc Tây đầu tiên của cả Sài Gòn
nằm ở góc Catinat và Bonard (Lê Lợi), khai trương năm 1865, chủ nhân là
Lourdeau, sau làm Xã trưởng Sài Gòn (1870). Ít lâu sau, hiệu thuốc được
giao lại cho Holbé, tiến sĩ dược khoa, một nhân vật khá nổi tiếng của
đất Sài Gòn xưa, từng làm Phó Chủ tịch Phòng Thương mại Sài Gòn, Phó Chủ
tịch Hội đồng quản hạt Nam kỳ (Conseil colonial de la Cochinchine).
Holbé từng điều chế ra một loai biệt dược có tên “Gouttes Holbé” dành
cho những tay nghiện á phiện cai nghiện. Về sau, nhà thuốc Tây về tay
Renoux, rồi Solirène và mang tên vị chủ nhân này trong một thời gian
dài, trước khi bị thay thế bởi nhà hàng Givral còn hoạt động đến ngày
nay.
Những nhà hàng nổi tiếng xưa nay
Đề cập đến sinh hoạt của cư dân Sài Gòn trên đường Catinat, không thể
không nói đến nhà hàng Continental, tuy sinh sau đẻ muộn hơn (năm
1880), nhưng bề dày lịch sử của nó thì không một cơ sở dịch vụ, thương
mại nào sánh kịp. Trong khi nhà hát Tây ở cạnh đó mãi đến ngày 1-1-1900
mới được khánh thành và sinh hoạt diễn ra 4 ngày mỗi tuần thì từ đầu
thập niên 1880, nhà hàng – khách sạn Continental là nơi dừng chân của
các viên chức, sĩ quan cao cấp chính quốc trên đường công tác xứ thuộc
địa, là chỗ tụ hội của những du khách trên đường hành hương sang Đế
Thiên- Đế Thích của xứ chùa Tháp.
Chủ nhân đầu tiên của Continental là Pierre Cazeau, nhà sản xuất vật
liệu xây dựng, sau bán lại cho Công tước De Montpensier. Người ta kể
rằng chính vị công tước này là chủ nhân của Lầu Ông Hoàng ở Phan Thiết
(nơi chứng kiến tình sử của thi nhân Hàn Mạc Tử và người bạn gái Mộng
Cầm). Năm 1930, nhà hàng có chủ mới là Mathieu Francini, người đã điều
hành thành công trong một thời gian dài, cho đến ngày quân đội Pháp rút
về nước sau thảm bại Điên Biên Phủ.
Tuy nhiên sự nổi tiếng của Continental không xuất phát từ các chủ
nhân của nó, mà từ nhiều tình cờ lịch sử diễn ra trên đất Sài Gòn xưa.
Trước thế chiến thứ hai (1939-1945), nó từng được đón tiếp hai nhân vật
sừng sỏ trong thế giới văn chương là thi hào Ấn Độ Rabindranath Tagore,
giải thưởng Nobel văn chương năm 1913 và nhà văn Pháp lừng danh André
Malraux, tác giả của La condition humaine (Thân phận con người 1933),
sau làm Bộ trưởng Văn hóa Pháp (1959-1969). Trong buổi “giao thời” Pháp
đi, Mỹ đến, căn phòng số 214 của khách sạn Contiental là nơi “ngự trị”
của Graham Greene, người đã thai nghén và cho ra đời quyển tiểu thuyết
nổi tiếng The Quiet American (Người Mỹ trầm lặng) ngay trong căn phòng
này.
Thành tích của Continental không chỉ có thế, cho dù như thế là đã quá
đủ để tự hào rồi. Về một lĩnh vực nào đó, như truyền thông chẳng hạn,
nó còn tiêu biểu cho cả con đường Catinat. Cụm từ “Radio Catinat” hay
“Radio Catinat một đèn” phổ biến trong giới báo chí Sài Gòn đầu thập
niên 1950 xuất phát từ chính nhà hàng này. Nó chứng tỏ đây là nơi tụ hội
của giới truyền thông nhất là báo giới và từ đó loan truyền đi những
tin tức thời sự “nóng” nhất. Sở dĩ có từ một đèn là vì vào những thập
niên 1940-1950, hầu hết máy thu thanh còn sử dụng đèn điện tử, ai có máy
2, 3 đèn trở lên là thuộc hạng sang, máy chỉ có một đèn điện tử thuộc
về giới bình dân, vì thế từ này mang chút ý nghĩa châm biếm trong đó.
Nhà hàng kỳ cựu sau Continental là Majestic, thành lập năm 1925, nằm ở
góc đường Catinat và Luro (sau là Cường Để, nay là Tôn Đức Thắng) nhìn
ra bờ sông Sài Gòn, do một thương nhân người Hoa giàu có và nổi tiếng
nhất nhì Sài Gòn thời bây giờ là Hui Bon Hoa (chú Hỏa) xây dựng theo đồ
án thiết kế của một kiến trúc sư Pháp. Cạnh khách sạn Majestic là rạp
hát cùng tên, ngó mặt ra đường Catinat. Ngược lên phía trên, và những
thập niên trước ngày Pháp về nước, những người thuộc lớp trước 70 trở
lên không quên hiệu bán đĩa hát Ménestrel (gần nhà hàng Bông Sen ngày
nay), rạp Catinat (nằm trên một con hẻm đâm ra đường Catinat), nhà hàng
Brodard… Qua bên kia đường Bonard (Lê Lợi), cạnh nhà thuốc Tây Soliréne
(sau là nhà hàng Givral) là rạp hát Eden, tiệm sách Albert Portail (nay
là Xuân Thu), nhà thuốc Tây Pharmacie de France (sau là La Thành), nhà
hàng La Pagodel, cũng từng là nơi gặp gỡ của báo giới Sài Gòn.
Gabrielle M. Vassal, một phụ nữ Pháp có chồng là bác sĩ, mấy tuần sau
lễ cưới đã theo chồng sang Việt Nam, đến ở Nha Trang là nơi ông chồng
làm việc trong ba năm. Trên lộ trình từ Pháp sang, bà đã dừng chân ở Sài
Gòn một thời gian và bằng một nhận xét tinh tế, đã miêu tả nhịp sóng
Sài Gòn xưa trong quyển ký Mes trois ans d’ Annam (Ba năm sống ở Việt
Nam) do nhà Hachette (Paris) xuất bản năm 1912.
Người ta nhìn thấy nhiều dân bản xứ đi trên phố. Ngày làm việc kết
thúc, họ đi thành từng nhóm trên đường về nhà. Trong số họ, các thầy
thông ngôn được phân biệt bởi mới tóc cắt ngắn, chiếc khăn đội đầu xếp
nhiều lớp một cách hoàn hảo, quần dài trắng, giầy cổ thấp và vớ ngắn.
Các nông dân (nguyên văn: nhaqués) mặc áo cánh màu xanh sẫm, có khi vá
nhiều chỗ đến nổi không còn thấy mảnh vải gốc nào nữa, và quần dài
trắng. Họ đi một bên lề đường, chân để trần, người này đi sau người kia.
Vài người cầm trên tay đôi giày Tàu dành sử dụng trong những dịp đặc
biệt, tay kia cầm cây dù giương rộng che trên đầu… Những phụ nữ bản xứ
có địa vị cao hơn thì ngồi xe kéo (pousse – pousse), người thì quấn khăn
bằng lụa mỏng trên đầu, người thì cẩn thận cài chiếc trâm vàng trên búi
tóc đen nhánh…
… Chúng tôi ngồi ăn tối trên sân thượng nhà hàng Continental. Dù đã
khuya, những bàn ăn chất đầy rượu mạnh và thức uống lạnh vẫn còn đông
khách. Con đường (Catinat) im ắng, nhưng đồng thời cũng rất náo nhiệt.
Xe kéo chạy thật êm trên những chiếc bánh cao su, người phu xe nện đôi
chân trần xuống đất mà không gây ra một tiếng động nhỏ nào…”.
Hình ảnh thành phố Sài Gòn qua chiếc máy ảnh Rolleiflex của phóng
viên Jack Birns làm việc cho tạp chí TIME-LIFE Magazines. Mời các bạn
thưởng lãm sinh hoạt của Sài Gòn, Hòn Ngọc Viễn Đông vào năm 1948.
Nguồn: Sưu tầm
Người Sài Gòn ngày ấy cũng mưu sinh bằng đủ thứ nghề, người trí thức thì làm công sở, kẻ ít học thì buôn bán nhỏ lẻ hay lao động chân tay. Người giàu có thì làm ông chủ, kẻ nghèo thì làm công, làm mướn.
Đường Catinat xưa (nay là dường Đồng Khởi)
Bây giờ, mỗi lần ngang qua con đường Đồng Khởi (xưa là đường Catinat), không ít người Sài Gòn từng sống trước năm 1975 như vẫn thấy thấp thoáng đâu đây quá vãng của một thuở xưa.
Lúc đó, đường Catinat là bộ mặt sinh hoạt của cả Sài Gòn - thành phố thuộc địa đầu tiên ở vùng Viễn Đông, với sự hiện diện của khoảng 3.000 người Pháp, hơn 3/4 trong số này là sĩ quan và viên chức.
Người Pháp đã xây dựng nhiều công trình kiến trúc trên đất Sài Gòn, mang đến đây cả lối sống theo phong cách châu Âu, như một bản sao của nước Pháp.
Tiêu biểu cho sinh hoạt trên đường Catinat vào thời kỳ đầu Pháp thuộc là nhiều cơ sở dịch vụ thương mại được thành lập từ rất sớm: Những khách sạn, nhà hàng bắt đầu xuất hiện, những cửa hiệu buôn bán sang trọng, những thương xá sầm uất…
Tiêu biểu cho sinh hoạt trên đường Catinat vào thời kỳ đầu Pháp thuộc là nhiều cơ sở dịch vụ thương mại được thành lập từ rất sớm: Những khách sạn, nhà hàng bắt đầu xuất hiện, những cửa hiệu buôn bán sang trọng, những thương xá sầm uất…
Bến Bình Đông ngày xưa
Và đương nhiên, không thể thiếu những khu giải trí, vui chơi kiểu Pháp: Rạp hát, quán cafe, quán bar, vũ trường…
Và đương nhiên, không thể thiếu những khu giải trí, vui chơi kiểu Pháp: Rạp hát, quán cafe, quán bar, vũ trường…
Người Sài Gòn ngày ấy cũng mưu sinh bằng đủ thứ nghề, người trí thức thì làm công sở, kẻ ít học thì buôn bán nhỏ lẻ hay lao động chân tay.
Một góc Đường Phạm Ngũ Lão Q1 (năm 1967)
Phụ nữ saigon năm 1970
Khu Lăng Cha Cả
Người giàu có thì làm ông chủ, kẻ nghèo thì làm công, làm mướn. Lẫn đâu đó trong cái không gian sang trọng, hiện đại nơi những ngôi nhà cao tầng, những biệt thự nhỏ xinh là cuộc sống khốn khó, vất vả của phần đông tầng lớp cư dân đô thị nghèo.
Người giàu có thì làm ông chủ, kẻ nghèo thì làm công, làm mướn. Lẫn đâu đó trong cái không gian sang trọng, hiện đại nơi những ngôi nhà cao tầng, những biệt thự nhỏ xinh là cuộc sống khốn khó, vất vả của phần đông tầng lớp cư dân đô thị nghèo.
Họ làm trong các công xưởng, buôn thúng bán bưng ngoài chợ hoặc cả ngày "mài chân" trên đường chạy xe ngựa, xích lô kiếm sống.
Phu kéo xe bên Nhà Hát
Hai bên lề đường, các thợ may, thợ đóng giầy người Hoa hoạt động khá đông, sau đó đến các cửa hiệu tạp hóa, nơi mọi người có thể tìm thấy thức ăn khô, mũ nón hay yên cương...
Gabrielle M.Vassal, một phụ nữ Pháp có chồng là bác sĩ, trong lộ trình theo chồng sang Việt Nam ở Nha Trang, bà đã dừng chân ở Sài Gòn một thời gian.
Hai bên lề đường, các thợ may, thợ đóng giầy người Hoa hoạt động khá đông, sau đó đến các cửa hiệu tạp hóa, nơi mọi người có thể tìm thấy thức ăn khô, mũ nón hay yên cương...
Gabrielle M.Vassal, một phụ nữ Pháp có chồng là bác sĩ, trong lộ trình theo chồng sang Việt Nam ở Nha Trang, bà đã dừng chân ở Sài Gòn một thời gian.
Bằng sự quan sát tinh tế, bà đã miêu tả khá sinh động nhịp sống Sài Gòn xưa trong quyển ký "Mes trois ans d Annam" (Ba năm sống ở Việt Nam) do nhà Hachette (Paris) xuất bản năm 1912.
Trong đó có đoạn: "Người ta nhìn thấy nhiều dân bản xứ đi trên phố. Ngày làm việc kết thúc, họ đi thành từng nhóm trên đường về nhà. Trong số họ, các thầy thông ngôn được phân biệt bởi mái tóc cắt ngắn, chiếc khăn đội đầu xếp nhiều lớp một cách hoàn hảo, quần dài trắng, giầy cổ thấp và vớ ngắn.
Các nông dân mặc áo cánh màu xanh sẫm, có khi vá nhiều chỗ đến nỗi không còn thấy mảnh vải gốc nào nữa, và quần dài trắng
Cầu Ba Cẳng bắc qua rạch Bãi Sậy, gần Chợ Bình Tây, và gần phía sau chợ Kim Biên (chợ Kim Biên chỉ mới có sau 1975, trước đó vị trí chợ là một công viên). Chân cầu bên phải là đường Gò Công ngày nay.
Cầu Ba Cẳng ở Chợ Lớn, gần phía sau chợ Kim Biên nay không còn nữa. Cầu ở đầu đoạn rạch Bãi Sậy, nay lấp thành đường Bãi Sậy và Phạm Văn Khoẻ quận 6. Cầu Ba cẳng nằm ở khúc rẽ phải ra kênh Tàu Hủ, hai chân nằm ở bến Bãi Sậy và bến Nguyễn Văn Thành và chân kia ở bến Vạn Tượng. Đoạn cuối rạch này vẫn chưa lấp, và cầu tồn tại đến năm 1990 thì bị sập
Họ đi một bên lề đường, chân để trần, người này đi sau người kia. Những phụ nữ bản xứ có địa vị cao hơn thì ngồi xe kéo (pousse - pousse), người thì quấn khăn bằng lụa mỏng trên đầu, người thì cẩn thận cài chiếc trâm vàng trên búi tóc đen nhánh...
Chúng tôi ngồi ăn tối trên sân thượng nhà hàng Continental. Dù đã khuya, những bàn ăn chất đầy rượu mạnh và thức uống lạnh vẫn còn đông khách.
Sài Gòn 1940-1945
Con đường (Catinat) im ắng, nhưng đồng thời cũng rất náo nhiệt. Xe kéo chạy thật êm trên những chiếc bánh cao su, người phu xe nện đôi chân trần xuống đất mà không gây ra một tiếng động nhỏ nào....
Đó chính là bức tranh của Sài Gòn những năm Pháp thuộc. Những mảng màu sáng tối rõ ràng, những thân phận đã được mặc định ở nơi bị biến thành thuộc địa".
Nhưng vốn là vùng đất cởi mở, linh hoạt do yếu tố cấu thành từ nhiều thành phần dân cư từ các vùng miền khác nhau nên người Sài Gòn cũng rất dễ tiếp nhận những cái mới và dung hòa nó.
Trong "Gia Định thành thông chí", Trịnh Hoài Đức có đoạn viết: "Vùng Gia Định nước Việt Nam, đất đai rộng, lương thực nhiều, không lo đói rét, nên dân ưa sống xa hoa, ít chịu súc tích, quen thói bốc rời. Người tứ xứ, nhà nào tục nấy".
Trong "Gia Định thành thông chí", Trịnh Hoài Đức có đoạn viết: "Vùng Gia Định nước Việt Nam, đất đai rộng, lương thực nhiều, không lo đói rét, nên dân ưa sống xa hoa, ít chịu súc tích, quen thói bốc rời. Người tứ xứ, nhà nào tục nấy".
Bởi thế nên trong mắt nhiều người, người Sài Gòn là dân chơi thứ thiệt với lối sống làm bao nhiêu xài bấy nhiêu và dù sống trong khó khăn, nghèo khổ vẫn giữ cho mình những thú vui giải trí và hưởng thụ.
Cảnh sinh hoạt trên đường Catinat những năm 1960.
Toà nhà trước mặt con đường này là hotel Kim Đô
Trước chợ Bến Thành
Bán chim thú cảnh
Hồ con rùa năm 1972 ( khi còn con rùa )
Như Hồ Biểu Chánh từng miêu tả trong tác phẩm "Từ hôn" rằng: "Tại các cửa lớn, người ta tựu lại chật nứt, trai chải đầu láng mướt, gái thoa môi đỏ lòm, già ngậm thuốc điếu phì phà, khói bay tưng bừng. Mẹ dắt bầy con, đứa chạy trước nghinh ngang, đứa theo sau núc ních, kêu nhau inh ỏi.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire