Hũ tro trong ngôi nhà bán
Trước khi chết, ông Abraham thuê luật sư và một nhân viên địa ốc đến để
ủy thác việc bán ngôi nhà. Vị luật sư lãnh trách nhiệm đại diện cho ông
giám sát việc thực hiện bán ngôi nhà theo đúng điều khoản được ghi trong
tờ di chúc ông viết. Cả hai người, luật sư và địa ốc được ông
Abraham giao khoán, họ sẽ lãnh khoản tiền xứng đáng với nghiệp vụ mà họ
nhận làm. Tờ di chúc được chủ ngôi nhà đọc cho luật sư chép, không thấy
đề cập số tiền bán nhà sẽ chuyển đến ai trong thân nhân, chỉ thấy ghi là
“cho quỹ từ thiện”. Mở và đóng ngoặc, sau chữ “từ thiện” thêm chữ
“những người vô gia cư” cho nghĩa được rõ. Đọc điều 4 trong tờ di chúc
lại có câu: “xác thiêu rồi, tro xương xin bỏ hũ, hũ để trên kệ lò sưởi
trong căn phòng sách. Hãy thương xót và cho phép kẻ quá cố là chủ nhân
của căn nhà được yên nghỉ vĩnh viễn trong bình đựng tro cốt ở lại với
nơi tôi đã ở.
Sau khi ông Abraham chết, viên địa ốc tên là James Bailey tiến hành
công việc bán nhà. Bảng được treo, báo được đăng, đã có người muốn mua
nhà tìm đến. Dẫn khách coi tầng dưới lầu trên, coi sân sau có vườn cây
cảnh, xem ra ai cũng ưng ý cả. Thế nhưng, khi James Bailey nói đến cái
bình đựng cốt tro để trên lò sưởi trong căn phòng sách ở trên lầu, họ
đều ngần ngại làm ảnh hưởng tới việc quyết định cuối cùng của khách đến
mua nhà. Và vì thế, cái bảng có hai chữ “Nhà Bán” đã không thấy gỡ xuống
gần hai tháng kể từ khi nó được treọ
James Bailey có một cuốn sổ taỵ Sổ ghi chép bản danh sách liệt kê
những ngôi nhà muốn bán. Cơ sở địa ốc đứng trung gian giữa chủ nhân và
khách hàng có nhà cần người muạ Danh mục đó, cái nào đã bán xong, James
Bailey thường tự tay gạch xóa bằng bút mực với một nét thật đậm. Địa chỉ
và tên đường của ngôi nhà ông Abraham vẫn còn nguyên chữ trên một hàng
kẻ. Nó đã không được bôi xóa vì chưa có ai chịu muạ Lần này là lần thứ
tám, có một gia đình gồm bốn người đến coi căn nhà bán của ông Abraham.
Hai vợ chồng và hai ông bà già đi xe Van tới. Lên lầu, xuống nhà, ra
vườn, họ rất ưng ý sau khi xem. Người con trai quay qua hỏi ông bố:
“Bố thấy thế nào”.
“Theo bố nhận xét, mua căn nhà này ở cũng được đấy. Tiền tóp mà hậu nở, dựa trên sách địa lý là thế đất tốt”.
Bà già thực tế hơn:
“Với sáu trăm ngàn, số tiền không phải là nhỏ. Vợ chồng suy nghĩ chín chắn đi đã, mua thì dễ, trả dứt mới là khó đấy con ạ”.
“Tiền down chúng con đã có đủ, tiền mỗi tháng với lương thu nhập
của đứa chúng con tính cũng còn dư ra, muốn mua cứ mua mẹ ạ”. Viên địa
ốc đứng nghe, nhưng ông ta chẳng hiểu họ nói cái gì. Với nụ cười xã giao
cố hữu, James Bailey vẫn kiên nhẫn đợi. Đợi đến khi người đàn ông con
trai ông già quay sang viên địa ốc nói “OK”, James Bailey bèn gật gật
cái đầu. Chợt nhớ ra một điều quan trọng mà James Bailey bắt buộc phải
nói, ông nghĩ phải nói ra trước khi làm thủ tục giấy tờ mua bán.
“À, tôi suýt nữa thì quên. James Bailey hơi ngài ngại khi tiếp tục.
Tôi quên chưa cho ông biết rằng, chủ nhân bán căn nhà này muốn bất cứ
ai nếu chịu mua nó, xin chấp nhận điều kiện được ông ta ghi trong tờ di
chúc. Lời khẩn khoản xin được chấp nhận là bình đựng cốt tro của ông để ở
lò sưởi trong căn phòng trên lầu đừng nên rời chỗ hay bỏ đị Ông quan
niệm đó là nơi ông muốn được yên nghỉ để đi và về căn nhà ông đã sống,
đã yêu nó. Tôi biết tôi không thể giấu bất cứ điều gì mà điều đó tôi có
trách nhiệm phải nói ra cho người mua nhà rõ. Và tôi cũng thừa hiểu
rằng, nếu nói thẳng cho khách hàng, việc mua bán sẽ rất khó khăn trở
ngại. Dù sao, tôi cũng phải nói ra để khách tự quyết định tốt hơn là
**ng đầu với luật pháp”.
Dứt câu, James Bailey hồi hộp đợi phản ứng của bốn người khách đến
mua nhà. Ông con trai quay sang ngó bố. Vợ của ông ta rõ ràng không bằng
lòng. Nhưng ông già bố của người đàn ông con của ông nghe thì cười xòa.
Ông nói với con đó chỉ là chuyện nhỏ. Với căn nhà phòng ốc quá nhiều và
rộng, để một cái hũ hình thù như cái bình cắm hoa, ở một chỗ khiêm
nhường trên mặt cái lò sưởi, sao lại có thể hẹp lòng mà từ chối lời ước
nguyện của người chủ cũ căn nhà đã quá vãng được nhỉ. Rồi ông cụ lại
cười. Cái cười đã giúp cho James Bailey thở ra nhẹ nhõm.
2.
Ở không thấy bị quấy phá, ông già đắc ý nói với người con trai.
“Mình ăn ở hiền lành, quỷ ma biết thì né. Căn nhà này, giả như
không có cái hũ tro kia, làm sao có được cái giá tương đối thấp so với
giá nhà bán bây giờ”. Ông bố đã bảo thế và tin tuyệt đối về lời nói của
ông.
Đêm ngày rằm, vầng trăng tròn và sáng. Cánh rừng ở xa tối thẫm. Đồi
thì gần nhà. Sườn dốc dốc thoai thoải. Đứng ở cửa sổ trên gác lầu, ông
thấy đèn xe cộ lên và xuống. Căn phòng có để cái hũ nằm sát nóc mái. Nó
cao hơn các căn phòng khác ở phía dưới. Dưới mắt nhìn của một người đứng
từ xa, ngó lên thì ngỡ nó là cái tháp. Tháp treo chuông ở những ngôi
thánh đường. Hẹp ngang và dọc, sàn gác ngoài cái ghế có lưng tựa, cái kệ
đựng sách, cái lò sưởi ở sát tường, chẳng thể kê thêm đồ đạc gì khác
nữa.
Ngồi với cuốn sách cầm ở tay, ông ngả lưng xuống cái ghế có lưng
tựa. Ông đọc nó. Sách không phải là sách truyện. Sách cũng không phải là
sách thơ. Sách chỉ là một cuốn Cựu Ước đã cũ mèm. Bìa cứng bọc da, chữ
mầu kim nhũ, giấy loại mỏng, chữ nhỏ nhưng nét chữ rất sắc. Sách thuộc
loại Kinh Thánh, ông có đến hai cuốn. Một cuốn ông đi dự lễ ở nhà thờ,
cha bề trên tặng ông để đem về đọc. Mấy người phụng sự việc giao giảng
truyền bá Đạo đến gõ cửa nhà ông, đưa ông cuốn sách kinh, đấy là cuốn
thứ hai ông có. Tân Ước, nội dung tóm lược và đơn giản hơn Cựu Ước,
chính vì thế đã thiếu đi nhiều đoạn. Thời Đại Hồng Thủy kể về ông Noé
được Chúa khải thị báo trước cho ngày tận thế, đã đóng sẵn con tầu để
khi nước dâng lên, thì mang súc vật lên tầu, mỗi loài một con đực một
con cái. Sách Tân Ước không thấy sao chép lại đoạn văn đó như trong Cựu
Ước ông đang cầm trên tay ngồi đọc. Ông say mê đọc mỗi trang sách viết,
thấy hiện lên cảnh mưa lũ đổ xuống gây lụt lội, thấy gió bão hoành hành
khốc liệt, thấy xác người và xác súc vật chết trôi lều bều, thấy cây cối
trốc gốc, nhà cửa sụp đổ, dòng nước cuộn sóng dâng lên.
Lúc ông ngồi đọc cuốn Cựu Ước, cũng là lúc hồn ông Abraham nhớ nhà
tìm về. Ngày có mặt trời và ánh sáng, ông sợ mặt trời và ánh sáng xua
đuổi, ông sợ cả tiếng động của động cơ xe cộ, cho nên hồn luẩn quẩn nơi
rừng già cây rậm rịt lá. Ở đó, con suối dẫn nước theo đường rãnh, bò như
loài bò sát không có chân, róc rách gọi nhau đổ xuống vùng thấp, vùng
hạ lưu có một cây cầu. Cầu nối hai bờ, đầu bên này là khu công viên, đầu
bên kia tiếp giáp với thành phố có những cao ốc. Về đêm, nhìn lên khung
cửa sổ của tòa nhà cao ốc đó, vẫn sáng ánh sáng đèn. Nằm trên đường hạ
cánh của những chiếc phản lực hàng không chở hành khách đáp xuống phi
trường, từ đâu đó, chốc chốc chúng lại xuất hiện, bay qua khu công viên,
bay thật thấp trên nóc nhà cao tầng. Dưới bụng đeo những cái bánh đã
được thả. Từ bầu ống phóng phản lực, âm thanh khuấy động khu phố lúc máy
bay bay trên đường hạ cánh, dội vào tường vách những tòa nhà chọc trời,
rồi vỡ loãng. Về đêm mùa hạ, bầu trời lấp lánh những vì sao. Sao nom xa
thật xa và nhỏ thật nhỏ như mảnh vụn thủy tinh. Nửa khuya, vầng trăng
thượng đỉnh. Trăng tròn và sáng như một cái đĩa bạc. Rừng với cây cối
hai bên bờ con suối cạn, nghe đâu đó vẳng lại tiếng nấc của một con cú.
Nhiều năm trước, lúc ông vô gia cư vô nghề nghiệp, ông đã sống chui rúc
dưới gầm một cây cầu bắc qua con suối. Ở đó, cũng chính là nơi cư ngụ
của những con mèo hoang. Đêm với tiếng nước róc rách và tiếng kêu meo
meo của đàn mèo, ông còn nghe thấy con cú nó nấc. Trên không phận đường
bay đáp xuống phi trường, phản lực cơ cứ mươi mười lăm phút lại có chiếc
hạ thấp cánh ngang qua khu công viên nơi ông ngủ.
3.
Abraham giầu có nhờ kinh doanh. Abraham lụn bại suy sụp cũng từ
kinh doanh thua lỗ mà phá sản. Từ bàn tay trắng gầy dựng ra cơ nghiệp,
sau các canh bạc lớn ở sòng bài, cơ nghiệp cũng do bàn tay trắng làm cho
trắng tay. Mất sạch, từ nhà cửa ở, từ tiền gửi trong công băng, từ đồ
đạc mua sắm, Abraham bỗng chốc trở thành “homeless”. Từ đó, Abraham lang
thang trên phố chợ, đứng ở vỉa hè, lảng vảng nơi quán xá, thay vì như
trước đây, áo đóng bộ, ca-vát đeo cổ, đến những nhà hàng sang trọng có
bồi phục vụ, có đồ ăn thức uống ngon, có rượu quí đặc biệt, có bạn bè
niềm nở vồn vã tiếp đón. Bây giờ, Abraham mở lớn con mắt nhìn thẳng vào
cuộc đời, ông mới thấy rõ cái tình người nó trắng và khô như vôi. Lẽ ra,
Abraham phải nhận biết điều đó khi hội nhập với xã hội con người. Nhưng
ông ngay thẳng và chân thật, tưởng mọi người ai cũng ngay thẳng chân
thật như ông, ông đã lầm. Dạ cầu nơi ông ngủ về đêm, con suối với tiếng
nước róc rách lúc tối trời, con cú nấc, đàn mèo hoang kêu meo meo, ở một
nơi hoang dã ông sống, Abraham đã tìm được sự bình yên thanh thản để
quên đi nỗi buồn héo hắt tim gan.
4.
Vào một buổi sáng mùa hạ, một bà đứng tuổi giắt chó đi dạo trong
công viên. Con chó bỗng sủa khi thấy Abraham nằm dưới gậm cây cầu. Bà ta
đi đến cây cầu, đứng lại và hỏi chuyện người đàn ông lạ. Lần gặp đó là
lần đầu, lần thứ nhì bà ngỏ ý muốn được mời ông Abraham đến ở chung
trong ngôi nhà bên kia bờ suối nước. Bà bảo bà bị ung thự Nếu một mai bà
chết, bà muốn để lại căn nhà của bố mẹ bà cho ông nếu ông muốn. Ông
Abraham thực lòng không muốn, nhưng trước lời khẩn khoản yêu cầu của
người đàn bà, cái không muốn của ông đã bị khuất phục. Kể từ đó, ngôi
nhà lớn bên kia bờ suối nước thuộc quyền sở hữu của ông Abraham khi chủ
nhân của nó quá vãng. Giấy tờ được sang tên để hợp thức hóa cho người
thừa kế đúng với thủ tục pháp lý được luật sư đứng ra lo. Abraham sống ở
tòa nhà lớn qua nhiều năm, rồi ông ngã bệnh. Di chúc được ông ghi lại
sau khi xác hỏa táng, tro đựng hũ, “xin để trên mặt lò sưởi” ở bản văn
bán nhà.
Đêm tối xuống, khi trời và đất đã nhuộm mầu tro than, có trăng hay
có mưa, hồn ông Abraham vẫn tìm về nơi mình đã ở. Ông đứng ở bên ngoài
cửa sổ nhìn vào nếu cửa ngõ ngôi nhà đã đóng, hoặc ông vào bên trong đi
khắp các phòng ốc nếu ngôi nhà cửa sổ để mở. Gác trên tầng cao ốc,
Abraham nhận ra cái hũ tro để trên lò sưởi, rõ ràng ông ta tỏ ra rất hài
lòng. Và ông muốn nói với người đàn ông đang ngồi dí mắt trên cuốn Sách
Thánh một lời cám ơn, nhưng người đàn ông đó vẫn lặng thinh cắm cúi
đọc.
Đúng một năm tròn, họ ở ngôi nhà có hũ tro. Giả như không có chuyện
đứa con trai, người con dâu mất việc do suy thoái kinh tế, thì trước
cửa căn nhà đã không treo cái bảng “Bán Nhà”. Viên địa ốc James Bailey
lại là người được nhờ cậy việc đứng ra môi giới, lo dịch vụ mua và bán
để đứng giữa hưởng hoa hồng. Rút kinh nghiệm từ những lần trước, lần này
James Bailey giấu nhẹm lời di chúc về cái hũ tro không nói cho thân chủ
muốn mua nhà biết. Nhờ đó, việc bán ngôi nhà đã ***ng vánh kết thúc.
Chủ mới dọn đến, một bữa thấy cái hũ để trên mặt lò sưởi, nhìn chướng
mắt bèn đem xuống vất đi.
Đêm mùa hạ, vầng trăng tròn và sáng. Nửa khuya, chủ nhà chợt thức
vì nghe tiếng chân bước lên thang lầu. Đấy là giờ như thường lệ, ông
Abraham trở về thăm nhà. Nhưng lần này, ông ta không còn thấy hũ tro để
trên mặt lò sưởi chỗ cũ. Kể từ đó, hồn ông đi lang thang trong khu rừng
tối, vất vưởng dưới ánh trăng nửa khuya.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire