http://catbuicarolineth.blogspot.fr/2013/12/nha-van-nhat-tien-nha-giao-mot-thoi.html
Thanh niên diễu hành đòi đốt sách
Đi dép da đừng quên một thời giẫm đất
1.
CHỌN LỰA
Sau 30- 4- 1975, tôi có hai cơ hội chọn lựa để khỏi phải đi kinh
tế mới. Một là lui tới thường xuyên Hội Văn Nghệ Giải Phóng để lấy chỗ
dựa hơi hòng qua mặt Phường, Khóm khi những nơi này đang lập danh sách
các hộ gia đình phải rời thành phố, và hai là quay trở lại ngôi trường
mà tôi đã từng dạy học ở đó trên 10 năm.
Dĩ nhiên là tôi chọn lựa việc quay trở lại trường cũ vì quả thực,
dù có yêu quý gắn bó thế nào .đối với văn nghệ thì tôi cũng không thể
nào chứng kiến thêm nữa những khuôn mặt huênh hoang, phách lối, hay cung
cách ăn nói hàm hồ, nhố nhăng của những kẻ nằm vùng như Thái Bạch hay
những quan văn nghệ đến từ miền Bắc như Bảo Định Giang, Anh Đức, Mai
Quốc Liên..v. . .v. . .trong các buổi học tập mang tên là “bồi dưỡng
chính trị” dành cho giới văn nghệ được tổ chức ở ngay trong thành phố
Sài Gòn vào dịp hè năm 1976.
Sau cái gọi là khóa “Bồi dưỡng chính trị” này, tôi đã không bao giờ
còn đặt chân trở lại trụ sở của Hội Văn Nghệ Giải Phóng hay tham gia
bất cứ sinh hoạt nào của họ nữa.
Cũng may mà bộ môn giảng dạy của tôi trong nhà trường cũ không phải
là bộ môn Văn. Trong hơn 15 năm cầm phấn, tôi chưa hề phụ trách một giờ
Quốc văn nào. Bởi môn chính mà tôi đã từng phụ trách ở nhiều tư thục
hồi trước 1975 là môn Vật Lý và Hóa Học . Nhờ tính cách khoa học của hai
môn này mà tôi được chấp nhận dễ dàng khi quay trở về trường cũ “đăng
ký giảng dạy”.
Tôi nghe nói hai môn Văn và Sử thì giáo viên cũ của miền Nam khó mà
len được chân vào. Mà có nhờ quen thuộc, thần thế để len được vào, thì
những cái mới còn quá mới, những cái cũ thì đang bị lên án, tẩy xóa, như
thế thì kiến thức có được bao nhiêu để mà giảng dạy? Điều này càng thể
hiện rõ hơn, khi sau này vào khoảng năm 78 hay 79, có lần tôi bắt gặp
mấy tên học trò ngồi ở cuối lớp tôi đang giảng dạy, bỗng chui xuống gậm
bàn rồi chuồn ra ngoài hành lang. Tôi chạy ra khỏi lớp, túm lại được,
thì chúng nó khai :
- Chúng em đi coi cô giáo Văn khóc !
Tôi ngạc nhiên chưa hiểu Ất, Giáp gì thì có đứa giải thích :
- Tại vì tuần này cô giáo giảng về thơ văn Bác Hồ. Cứ tới đúng đoạn
đó, chỗ đó thì cô khóc. Không phải khóc ở một lớp mà tại lớp nào cô
cũng khóc y như nhau. Vì thế chúng em kéo nhau . . . đi xem ! ? ?
Úi chà ! Dạy Văn mà khó đến thế thì sức nào các thầy cô thuộc chế
độ cũ kham cho nổi ! Dĩ nhiên, không phải cô giáo Văn nào cũng bị nhà
trường bắt buộc phải “khóc” như thế. Nhưng chỉ cần một hình ảnh như kể
trên thôi, cũng đủ cho thấy cái đời sống xã hội ở miền Bắc và con người
sinh hoạt ở đó (nhất là trong môi trường Giáo Dục) tất nó sẽ phải ra làm
sao rồi !
Riêng về cô giáo dạy môn Văn, chuyên viên khóc đúng chỗ này, thật
tình tôi không nhớ tên nhưng hình ảnh của cô thì vẫn còn y nguyên trong
trí nhớ của tôi. Cô trạc khoảng ngoài ba mươi, đến từ miền Bắc, ăn mặc
rất giản dị tứ thời chỉ có chiếc áo sơ-mi trắng và cái quần dài đen. Tóc
cô cắt ngắn đủ che sau gáy và hai bên tai. Khuôn mặt của cô hơi thô,
mang vẻ cứng cáp, dằn dõi nên hơi thiếu cái nét truyền cảm của nữ tính.
Ít khi tôi thấy cô cười dù chỉ là một nụ cười góp trong một đám đông trò
chuyện ồn ào. Cô không ưa giao dịch, cũng không dòm ngó hay soi mói ai.
Nhìn bề ngoài, tôi thấy cô tỏ vẻ miễn cưỡng mỗi khi được xếp đứng chung
trong hàng ngũ của đám cán bộ nhà trường. Cái tâm lý này cũng dễ hiểu
vì tôi cũng đã rõ tâm trạng của nhiều người như cô : So khả năng với
đám giáo viên chế độ cũ thì quả là mình yếu kém, nhưng so về thành tích
chiến thắng thì bọn họ lại thua xa. Hẳn sự giằng co giữa hai trạng thái
đối nghịch này đã khiến cho cô cứ như phải nhấp nhổm, dè chừng để đối
phó với ngay chính bản thân mình.
Dĩ nhiên hành động khóc trong lớp đủng lúc, đúng chỗ của cô không
làm cho tôi mất cảm tình đối với cô bởi vì chuyện khóc” như thế không
phải là điều gì quá mới mê đồi với tôi. Có một lần , tôi tiếp một bà bác
ở Hà Nội vào chơi, khi kể đến đám tang ông Hồ hồi năm 1969, bà chép
miệng :
- ôi dào ! Trời thì mưa nhé, mà dậy sớm từ tờ mờ để đi xếp hàng vào đám tang. Ai cũng khóc như cha chết!
Tôi hỏi ngay : .
- Khóc thật không, hay giả vờ ? ‘
Bà bác trợn mắt :
- Ai thì tao không biết. Chứ tao thì khóc thật, gào thật ấy chứ !
Nó như cái bệnh lây lan. Lại thêm, cứ nghĩ không khóc thật, gào thật, có
đứa báo cáo thì bỏ mẹ ! ! !
Thì ra cái sự giả dối trong xã hội miền Bắc nó đã lan tràn khắp cả
mọi nơi, trong gia đình, ngoài xã hội và dĩ nhiên ở cả ngay trong nhà
trường là nơi dạy dỗ uốn nắn con người kể từ khi còn bé. Bài hát “Đêm qua em mơ gặp bác Hồ “ mà trẻ con hát leo lẻo hàng ngày chăng phải là một sự dạy con nít quen thói dối trá hay sao ?
Hồi cán bộ mới đến tiếp thu ngôi trường tôi đang dạy này, tôi thấy
Quận gửi xuống toàn thành phần cán bộ của Mặt Trận Giải Phóng. Người đại
diện Ban Giám Hiệu là một anh nghe đâu trước học ở Đại học Vạn Hạnh
SàiGòn. Sau, anh rút ra bưng và bây giờ trở về trong vị thế của kẻ chiến
thắng. Ấy vậy mà tôi không thấy vẻ nhố nhăng dù chỉ một câu nói hay cử
chỉ nhỏ nhặt nào khi anh tiếp xúc với đám giáo viên tới trình diện để
trở lại trường. Theo kinh nghiệm của tôi, tôi chỉ thấy cái đám văn nghệ
sĩ đến từ miền Bắc, tham gia khóa bồi dưỡng chính trị cho đám văn nghệ
sĩ miền Nam là hung hăng, phách lối như Bảo Định Giang, Mai văn Tạo,
Phan Đắc Lập, Nguyễn Quang Sáng nhưng mục hạ vô nhân, nhố nhăng nhất
phải kể tới Anh Đức và Mai Quốc Liên. Chính Mai Quốc Liên đã tuyên bố
một câu hết sức hỗn xược khi trả lời Nguyễn thị Hoàng :
“ Miền Nam của các anh chị làm gì có văn hóa !”
Phụ tá cho Ban Giám Hiệu, và sau này mang chức danh Hiệu Phó, tất
cả có hai người. Một người là một thanh niên trạc hai bốn, hai lăm, khá
đẹp trai, tính tình nhã nhặn, biết nghe, biết ăn nói chừng mực, nhưng
trình độ giác ngộ cách mạng của anh ta thì phải nói là siêu việt. Bởi
anh ta bỏ cả gia đình, bỏ cả học hành để ra bưng hoạt động. Khi trở về
thành, anh dành tất cả thì giờ riêng tư cho công cuộc gây dựng ngôi
trường mà tôi đang dạy trở thành một nhà trường Xã Hội Chủ Nghĩa. Điều
đó có nghĩa là anh ăn ngủ ngay tại trong trường và việc gì cũng tham
gia, cũng để tâm tới và góp phần trong những quyết định sau cùng. Anh
sống cũng rất giản dị, tứ thời đánh chiếc sơ-mi trăng may bằng vải nội
hóa không ủi, cái quần ka ki mầu xanh bộ đội và đôi dép râu hẳn anh cũng
tha nó từ trong rừng về.
Vị Hiệu Phó thứ hai là một “cựu nữ lao công” của nhà trường tù
trước 1975. Bà này đã ngoài 50, ít học dĩ nhiên, vì bà làm lao công
trong trường chúng tôi dạy từ nhiều năm trước đó. Bây giờ, trong cương
vị mới, nom bề ngoài của bà thì có vẻ tươm tất hơn. Nghĩa là tuy cũng
quần thâm, áo cánh trắng nhưng không nhếch nháp, cực nhọc vì phải làm
việc như xưa. Bây giờ bà đã ngồi tham dự tất cả các buổi họp, tôi thấy
bà cũng hí hoáy ghi chép nhưng cam đoan đấy chỉ là những con giun loằn
ngoằn vì đã có lần bà sơ ý để cuốn sổ lộ ra và chính mắt tôi đã nhìn
thấy. Bị cột vào cái cương vị này, tôi có cảm giác như bà ta bị miễn
cưỡng. Bởi nếu là kẻ có tham vọng quyền lực mà bỗng nhiên trời cho rớt
xuống một cái ghế Hiệu Phó như thế, hẳn bà ta phải huênh hoang, phách
lối và mục hạ vô nhân như nhiều kẻ tiểu nhân đắc chí khác. Đằng này
tuyệt đối không, tôi không thấy bà ta công khai “hỏỉ giấy” ai, nạt nộ ai
hay dậm dọa gì ai. Bà chỉ lẳng lặng đóng đúng vai trò trên đặt đâu thì
ngồi đó, chẳng cần ý kiến, ý cò gì hết, bởi nhiều khi nếu cứ sốt sắng
quá lại ra đâm hỏng hết việc.
Với một “bộ sậu’ điều hành như vừa kể, lại thêm đám học trò của
miền Nam cũ quay về xin học lại hầu như chiếm toàn bộ sĩ số học sinh
toàn trường, nên việc dạy dỗ của chúng tôi cũng đã diễn ra trơn tru,
không có gì trở ngại, ngoại trừ cái vụ phải giảng bài theo giáo án là
chuyện vô cùng nhức đầu mà tôi sẽ đề cập trong một chương tới.
Vào năm đầu tiên thuộc niên khóa của “nhả trường Xã Hội Chủ Nghĩa”,
tức mùa Thu năm 1976, tôi lại ghi nhớ một kỷ niệm khó quên. Suốt mùa hè
năm đó, mọi sự chuẩn bị từ danh sách giáo viên, thời khóa biểu các lớp
đến tài liệu giáo khoa, giáo án, tất cả dưới tài điều khiển lanh lẹ và
khôn ngoan của anh Hiệu Phó, đều đã xong xuôi hết. Đám giáo viên chúng
tôi sau khi đã phải tập trung ở trường Tabert cả tháng trong mùa hè để
học chính trị, nay cũng đã trở lại trường chuẩn bị cho Lễ Khai Giảng. Dĩ
nhiên là phải có Chào Cờ, có Thông Điệp của Nhà Nước, có diễn văn của
đại diện Sở Giáo Dục, có phát biểu cảm tưởng của đại diện Hội Nhà Giáo
Yêu Nước..v..v. . .
Phần tiến hành thủ tục chào cờ được trao cho một Thầy vốn là giảng
viên Thể Dục Thể Thao của nhà trường cũ trước đây. Học sinh xếp hàng ra
sao, tiến lui theo nghi lễ thế nào, vào lối nào, ra lối nào, hô hoán
khẩu hiệu gì v..v. . . Thầy đều cho tập rượt kỹ lưỡng.
Ấy thế mà chính Thầy lại bị vướng phải một lỗi chết người.
Đó là cái lúc khi trong khi toàn trường và đông đủ quan khách tuyệt đối im lặng nghe hiệu lệnh của Thầy, thì thầy hô :
- Chào cờ chào . . .Này công dân ơi quốc gia đến ngày giải phóng. . .
Ôi trời ơi là trời ! Thì ra Thầy quen miệng hát lên bài quốc ca của chế độ cũ !
Cả học sinh lẫn các thầy cô đều chết sững ra trong vài giây, rồi những tiếng nhốn nháo bắt đầu dấy lên ở mọi chỗ.
(còn tiếp)
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire