BMH
Washington, D.C
Vui Xuân quê người, không quên Thương Binh và Chiến Sĩ QLVNCH vẫn còn lưu lại nơi quê nhà...
Kính, thân chúc Quý Thầy, Cô, Quý Vị, Quý Niên trưởng, Chiến hữu và Đồng môn cùng Quý quyến những ngày Xuân đoàn tụ, tươi vui, một năm mới Giáp Ngọ nhiều sức khỏe, may mắn và hạnh phúc..
BMH & Gia đìnhWashington, D.C
(Mồng 1 tết Giáp Ngọ là ngày Thứ sáu, 31 tháng 1-2014)Kính tặng món quà Tết hữu-dụng
Xin gửi tới quý Huynh-Đệ và quý Phu-Nhân ba (3) món quà mọn sau đây để tuỳ nghi, tiện dụng trong năm Giáp Ngọ:1. Quyển lịch "Vạn Niên"(Để gia đình dùng suốt đời)2. Font Thư-Pháp của Hùng Lân(Để quý Huynh Đệ gõ theo Thư pháp một cách bay bướm)3. Cook Book: Nghệ thuật nấu ăn(Để quý Chị tham khảo để nấu hàng trăm món ăn cho gia đình).1. Quyển lịch "Vạn Niên"(Dùng suốt đời)Quyển Lịch "Vạn Niên" nguyên là luận án tiến sĩ của anh Hồ Ngọc Đức ở Liên Bang Đức. Đây là một Quyển Lịch tối tân của thời đại Tin Học (IT) mà quý vị có thể dùng hoài suốt đời để biết ngày âm lịch, cúng giỗ ... thông minh hơn cuốn lịch TTM bầy bán ngoài tiệm gấp trăm lần !Nếu muốn coi lịch các năm khác, chỉ cần đánh 4 con số của năm đó, rồi bấm ENTER hay click OK là có ngay lịch của năm mình chọn.Mời bấm vào LINK dưới đây để xem Quyển Lịch Suốt Đời :Mời click vào đây
2. Fonts Thư-Pháp của Hùng Lân
Mời bấm vào đây:Tùy nghi lựa chọn để download :
3. Cook Book: Nghệ thuật nấu ăn
Video clips Nhạc Xuân..
Ly Rượu Mừng - Hợp Ca Asia
BảoYến -Xuân trên đất khách
Xuân Này Con Sẽ Về - Duy Khanh
Xuân này con không về - Duy Khánh
Mùa Xuân Của Mẹ - Duy Khánh
Cám ơn – Duy Khánh
Tình Quê Hương – Ngọc Hạ
Thư Xuân Hải Ngoại (Trầm Tử Thiêng) Lệ Thu [ASIA-DVD]
Con Ngựa Trong Anh Ngữ - Phan Hạnh
Việt
ngữ của chúng ta không có nhiều chữ khác nhau để gọi con ngựa, chỉ có
chữ “ngựa” hoặc chữ “mã” gốc Hán Việt: ngựa con, ngựa già, ngựa đực,
ngựa cái, ngựa rừng, ngựa rằn… Trong khi đó, Anh ngữ có rất nhiều chữ
phân biệt để gọi ngựa: horse (nói chung), pony (ngựa nhỏ, ngựa con nói chung, thấp dưới 58 phân Anh), pinto (ngựa có hai độ màu lông đậm lợt khác nhau), dun (ngựa có sọc), mare (ngựa cái, bốn tuổi trở lên), stallion (ngựa đực, bốn tuổi trở lên), stud (ngựa nọc, chỉ để gieo giống), bronc hay bronco (ngựa chưa được huấn luyện), feral (ngựa trang trại thả về rừng hoặc tự bỏ trốn đi hoang), brumby (tên mà người Úc gọi một con ngựa feral), mustang (ngựa hoang Mỹ châu), foal (ngựa con còn bú sữa mẹ, nói chung), filly (ngựa cái con còn bú sữa mẹ), colt (ngựa đực con còn bú sữa mẹ), weanling(ngựa con mới dứt sữa và bắt đầu ăn cỏ), yearling (ngựa con từ một tới hai tuổi), zebra (ngựa rằn). Ngoài ra còn cả lô tên gọi khác cho ngựa tùy theo đặc tính màu sắc hay chủng loại.
Bị ngựa đá một lần nhớ đời sẽ dễ đưa đến bệnh sợ ngựa, một nỗi sợ về tâm lý, Anh ngữ gọi làhippophobia hoặc equinophobi a, trái với sự và người yêu thích ngựa là hippophile hoặc equinophile.
Con ngựa nào tỏ ra hung hăng dữ dằn bất trị (ngựa chứng) hay đá người,
hay gây sự với ngựa khác thường bị chủ mang đi thiến và trở thành ngựa
thiến (gelding). Trong các đơn vị kỵ binh trước thế chiến, ngoài
trường hợp tử vong vì té ngựa còn có một số trường hợp bị chính con ngựa
mình cỡi đá chết. Thuở nhỏ, tổng thống Abraham Lincoln của Hoa Kỳ từng
bị ngựa đá trúng mặt, nhưng người ta không thể quyết đoán có phải vì vậy
mà nửa mặt bên trái của ông hơi bị lệch và biến dạng khiến cho ông bị
mắt thấp mắt cao.
Từ lâu, tôi đã ngộ nhận chữ “equestrian”
là người cỡi ngựa vì trong trí tôi đã quen nghĩ rằng “ian” là tiếp vĩ
ngữ gốc La-tinh có nghĩa là người, giống như các chữ Canadian, musician,
pedestrian, physician, technician, v.v.. Thật ra “equestrian” có nghĩa
là sự cỡi ngựa (the horseback riding), do chữ “equine” (từ gốc La-tinh equus có nghĩa là con thú thuộc loài lừa ngựa nói chung), còn người cỡi ngựa đơn giản chỉ gọi là “horseman”. Từ đó có chữ “horsemanship” và chữ “equitation” là tài cỡi ngựa để phân biệt với chữ “equestrianism” là môn nghệ thuật cỡi ngựa.
Đúng, Equestria là tên của một vùng đất đai, một xứ sở, nhưng đó chỉ là tên của vương quốc giả tưởng của loài ngựa trong My Little Pony: Friendship Is Magic,
một loạt phim hoạt hình truyền hình do Hasbro Studios ở Mỹ và studio
DHX Media ở Canada sản xuất, ra mắt trình chiếu vào ngày 10 tháng 10 năm
2010. Trong vùng đất huyền diệu Equestria, nhân vật chính, công chúa
Twinkle Sparkle, sống với nhóm bạn bè của cô là Applejack, Rainbow Dash,
Pinkie Pie, Rarity, Fluttershy và Spike tại thị trấn Ponyville. Sống
cùng nhau, họ, tất cả đều là ngựa được nhân cách hóa, tìm hiểu và khám
phá về sự kỳ diệu của tình bạn. Hiểu theo kiểu của tôi Equestrian là
người nước Equestria thì hỏng. Thế mới biết học tới chết cũng chưa đủ.
Bạn
cũng biết, Binh Chủng Thiết Giáp gồm các đơn vị Kỵ Binh, mặc dù vai trò
con ngựa đã được thay thế bằng những chiếc xe tăng tối tân, trong Anh
ngữ vẫn gọi là Cavalry Corps. ChữCavalry xuất xứ từ chữ cavalerie của Pháp, với các chữ có cùng gốc gác như cavale,cavaler, cheval, ch evalier, chevaleresque… Hèn gì dân đi vũ trường gọi các cô gái nhảy là ca ve. Hèn chi các bà vợ ghen gọi các cô gái nhảy là ngựa.
Bây giờ xin mời các bạn xem xét qua một số thành ngữ, tục ngữ Anh thông dụng liên quan đến ngựa nhé.
Don’t change horses in midstream. Nghĩa đen: Đừng thay ngựa giữa dòng.
Nghĩa
bóng: Đừng thay đổi kế hoạch nửa chừng. Thành ngữ này ngày nay rất phổ
biến, chắc tại vì nó được tổng thống Abraham Lincoln dùng trong một bài
diễn văn vào năm 1864 với ý nói không nên thay đổi nhân sự hay vị trí
khi dự án đang thực hiện nửa chừng. Nếu bạn đã tốn công khó điều khiển
một con ngựa đi tới giữa dòng sông một cách suôn sẻ rồi thì tốt hơn bạn
đừng tính chuyện đổi ngựa khác vì điều đó quá rủi ro. Có người xem kế
hoạch Hoa Kỳ thay thế tổng thống Ngô Đình Diệm là một ví dụ tiêu biểu
cho sự thay ngựa giữa dòng, dẫn đến kết quả tai hại hỗn loạn về chính
trị và làm suy yếu tiềm lực chống cộng của đất nước non trẻ VNCH.
Don’t look a gift horse in the mouth. Nghĩa
đen của câu này là đừng khám răng của con ngựa người ta tặng cho mình.
Như bạn biết, răng ngựa mọc dài thêm và nhô ra thêm theo tuổi tác. Xem
răng một con ngựa, người ta có thể đoán được tuổi của nó. Theo bản năng
tự nhiên của con người (nhất là trẻ con chưa ý thức nhiều về phép lịch
sự trong giao tế), mỗi khi nhận được một món quà, người nhận thường háo
hức săm soi món quà đó ngay, đôi khi không giấu được sự thất vọng khi
thấy món quà không đúng như ý muốn. Theo nghĩa bóng, câu châm ngôn này
hàm ý rằng đừng nên quá chú trọng đến phẩm chất của một món quà tặng,
nhất là trước mặt người tặng quà. Nên chấp nhận một món quà với lòng
biết ơn hơn là chỉ trích món quà không hoàn hảo.
Tương tự với nghĩa trên, ta có thành ngữ Straight from the horse’s mouth, nghĩa
đen là thẳng từ miệng con ngựa. Thành ngữ này có nghĩa bóng là tin tức
rất đáng tin cậy vì phát xuất từ nguồn gốc nguyên thủy. Sở dĩ người Mỹ
có câu nói này là vì ngày xưa khi ngựa còn là phương tiện chuyên chở
chính, người ta mua sắm ngựa như ngày nay mua xe hơi. Muốn biết con ngựa
được bao nhiêu tuổi, họ phải nhìn vào hàm răng của nó thì mới biết
được. Sau này, thành ngữ Straight from the horse's mouth được giới đánh cá ngựa dùng để chỉ những tin tức sốt dẻo cho biết con ngựa nào có ưu thế hơn và sẽ thắng.
You can lead a horse to water but you can’t make him drink. Nghĩa đen: Bạn
có thể dắt con ngựa tới chỗ để nước nhưng bạn không thể khiến cho nó
uống. Nghĩa bóng: Câu tục ngữ này có từ thế kỷ thứ 16 ở Anh quốc, nghĩa
tương đối đơn giản, với ý nói rằng bạn có thể tạo cơ hội cho ai đó nhưng
bạn không thể buộc họ phải nắm lấy cơ hội đó. Nói một cách khác, bạn
không thể bắt ai đó làm điều gì đó, trừ khi họ đã sẵn sàng muốn làm. Bạn
có thể cho một người nào đó lời khuyên tốt nhưng bạn không thể làm cho
họ tuân hành áp dụng. Câu tục ngữ này xuất phát từ sự kiện thực tế là
ngựa thường ít khi chịu uống nước nơi chưa quen, ngay cả khi chúng đang
khát và cần uống.
Charley horse. Tiếng lóng, có nghĩa là vọp bẻ, chuột rút.
A horse of different color. Nghĩa
đen: Một con ngựa khác màu. Nghĩa bóng của thành ngữ này là một cái gì
đó có thể hoàn toàn tách biệt với những gì mà người ta dự kiến hay
tiên liệu, một sự bất ngờ trái với sự mong đợi và gây thất vọng.
Một
con ngựa khác màu cũng dùng để chỉ trường hợp một người hay một vật nào
đó không phù hợp hay thích ứng với nguyên nhóm. Thành ngữ này bắt nguồn
từ lời đối thoại trong màn hai của vở kịch Twelfth Night của William
Shakespeare.
Tổng
thống thứ hai của Hoa Kỳ John Adams cũng dùng biểu tượng ngựa khác màu
để nói về lòng trung thành và sự chia rẽ. Ông gọi một nhóm người chống
đối là những con ngựa khác màu.
Every horse thinks its own pack heaviest. Nghĩa
đen:Mỗi con ngựa đều nghĩ rằng trọng tải trên lưng mình là nặng nhất.
Nghĩa bóng: Theo tâm lý và lẽ thường tình, người ta ai ai cũng chỉ nghĩ
đến mình mà không quan tâm đến người khác, hay phàn nàn rằng mình là
người phải lãnh phần việc nặng nhọc hơn, số phận của mình kém may mắn
hơn mọi người khác. Thật ra ai ai cũng có nỗi khó khăn riêng, nỗi buồn
riêng, khó có thể so sánh được. Người khác cũng phải chịu gánh nặng của
công việc và nỗi lo nghĩ như nhau.
A one-horse race. Nghĩa
đen: Cuộc đua một ngựa. Nghĩa bóng: Một cuộc thi mà trong đó, ngay từ
lúc nhập cuộc, một phe ứng thí có khả năng vượt trội xa hơn nhiều so với
các đối thủ khác, và rõ ràng có cơ may để giành chiến thắng.
Don’t back the wrong horse. Nghĩa
đen: Đừng theo con ngựa dở. Nghĩa bóng: Đừng nhầm ủng hộ, hỗ trợ một
ứng cử viên dở vì điều đó chắc chắn sẽ đưa đến thất bại.
Don’t beat a dead horse. Nghĩa
đen: Đừng đánh một con ngựa đã chết. Khi một con ngựa chết rồi thì dù
người chủ có đánh đập nó, nó cũng không thể đứng dậy đi được nữa. Nghĩa
bóng: Đừng cố gắng vô ích trước một chuyện đã rồi.
Don’t put the cart before the horse. Nghĩ
đen: Đừng đặt chiếc xe trước con ngựa. (Tiếng Việt có câu Đừng đặt cái
cày trước con trâu). Nghĩa bóng: Đừng làm chuyện ngược đời vô lý. Theo
lẽ tự nhiên, con ngựa kéo chiếc xe nên con ngựa phải ở trước chiếc xe.
Thế giới này có trật tự riêng của nó. Tất cả mọi sự vật, sự việc cũng có
trật tự trước sau. Ta không nên hấp tấp, vội vã đốt cháy giai đoạn mà
đảo lộn các bước theo đúng trình tự vốn có theo quy luật. Trong tiếng
Việt có câu tục ngữ "Đừng cầm đèn chạy trước ô tô" mang ý nghĩa tương
tự. Tốt nhất ta nên tuân thủ đúng các trật tự trong cuộc sống. Câu này
xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1589 trong quyển sách The Arte of English Poesie của George Puttenham. Có lẽ tác giả đã dịch ra từ một câu tục ngữ cổ Hy Lạp.
Don’t spare the horses. Nghĩa
đen: Đừng dành thì giờ lo cho mấy con ngựa. Nghĩa bóng: Ý câu này muốn
nói là đừng kể gì đến phương tiện mà hãy chú tâm vào mục đích chính (cứu
cánh).
Nguồn
gốc câu này có từ thời Nữ hoàng Victoria trị vì nước Anh vào hậu bán
thế kỷ thứ 19. Sự tích kể rằng Nữ hoàng Victoria có người phu xe ngựa
tên James Darling. Theo truyền thống vương giả thượng lưu, đáng lẽ Nữ
hoàng gọi thần dân bằng họ của người đó. Nhưng “Darling” , họ của “tài
xế riêng” của bà, lại cũng có nghĩa là “cưng yêu quí”, nếu bà xưng hô
như thế e có vẻ không phù hợp.
Vì thế, bất đắc dĩ Nữ hoàng Victoria đành phải gọi người mã phu bắng tên James, một cách xưng hô thân mật của dân giả.
Lần
đó sau một chuyến du hành bằng xe lửa hoàng gia, bà trở về London. Vừa
đến ga Paddington, bà nôn nóng muốn về “nhà” là cung điện Buckingham.
Thấy “bác tài” cứ nhẩn nha cẩn thận xem xét lại mấy con ngựa, bà thốt
câu ra lệnh: “Home James! And don’t spare the horses!” (Về nhà ngay
James! Đừng màng tới mấy con ngựa!) Và câu nói đó đã “phi nước đại” đi
vào lịch sử.
To Be on Your High Horse. Nghĩa
đen: Ngồi cao trên lưng ngựa. Thành ngữ này được dùng từ thời thế kỷ
thứ 14 ở Âu Châu, khi giới thượng lưu quyền quý thường cỡi những con
ngựa cao nhất mà họ có thể mua được để chứng tỏ là họ quan trọng hơn
giới thường dân. Nghĩa bóng: Ngày nay, người Mỹ dùng thành ngữ To Be on
Your High Horse để chỉ một người tự cho là mình quan trọng cho nên coi
thường người chung quanh.
“Get off your high horse.” Nghĩa
đen: “Hãy xuống ngựa đi.” Nghĩa bóng: “Đừng kiêu ngạo nữa.” Một khi đã
xuống ngựa, chưa chắc người đó cao hơn về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Thái
độ của kẻ kiêu ngạo là luôn nghĩ rằng mình ở vị trí cao trọng hơn người
khác, đối xử với người khác như thể họ thấp bé hơn mình. Thành ngữ này
xuất phát từ thời xưa khi tầng lớp thượng lưu thường cỡi ngựa. Họ có
khuynh hướng hành động ngạo mạn của cấp trên khi giao tiếp với một người
bình thường.
“Hold your horses!” Nghĩa
đen: “Ngừng ngựa của bạn lại!” Nghĩa bóng: Hãy tạm giữ yên vị trí tại
chỗ. Câu này có lẽ bắt nguồn từ chiến trận, khi vị chỉ huy ra lệnh cho
binh sĩ của mình hãy bình tĩnh, kìm cương ngựa lại để đợi lệnh mới. Ngày
nay, thành ngữ này trở nên thông dụng hơn và được dùng trong mọi trường
hợp và có nghĩa là “đừng vội, hãy bình tĩnh, hãy kiên nhẫn chờ thời cơ
thuận tiện rồi hãy hành động”.
A dark horse. Nghĩa
đen: Một con ngựa đen. Nghĩa bóng: Một nhân vật mới lạ như từ trong
bóng tối chui ra, chưa ai biết. Từ ngữ dark horse xuất xứ từ giới đua
ngựa cách đây hơn 150 năm để chỉ một con ngựa đua mà không ai biết đến
thành tích gì của nó cả. Ngày nay, nó được dùng để chỉ một ứng cử viên
mà đa số cử tri chưa nghe nói tới bao giờ. Phần đông những ứng cử viên
như vậy thường thua xa trong các cuộc tranh cử, nhưng đôi khi họ cũng
làm cho các chuyên gia chính trị phải ngạc nhiên khi họ thắng cử, tạo
nên trường hợp mà giới trường đua gọi là ngựa về ngược.
Horse sense. Nghĩa đen: Giác quan của ngựa. Nghĩa bóng: Khả năng tốt khi nhận xét, phán đoán và quyết định một chuyện gì.
If two ride on a horse, one must ride behind.
Nghĩa đen: Nếu hai người cỡi một con ngựa thì một người phải ngồi đàng
sau. Nghĩa bóng: Khi hai người cùng chung với nhau làm một việc thì phải
có một người chính (cầm đầu, chỉ huy) và một người phụ thì công việc
mới êm xuôi.
If wishes were horses, then beggars would ride. Nghĩa
đen: Nếu mọi điều ước là có được ngựa thì ngay cả ăn mày cũng sẽ có
ngựa để cỡi. Nghĩa bóng: Ước muốn viễn vong mãi mãi cũng chỉ là ước
muốn, vì nếu như mọi ước muốn đều trở thành sự thật thì ngay cả một
người chẳng cần làm gì hết cũng sẽ có đủ mọi thứ để mà thụ hưởng. Nếu,
giá như, ước gì… tất cả mọi giả định đều vô ích.
A nod is as good as a wink (to a blind horse). Nghĩa
đen: Một cái gật đầu cũng tốt như một cái nháy mắt (đối với một con
ngựa mù). Nghĩa bóng của A nod is as good as a wink: Ý nói chỉ cần một
sự ra hiệu vắn tắt ngắn gọn cũng đủ cho người khác hiểu mà không cần
phải giải thích cặn kẽ dài dòng. Khi câu này có thêm “to a blind horse”
thì nó có nghĩa là: đối với một người kém hiểu biết chuyên môn, dùng từ
ngữ đơn giản thường cũng đủ thay vì tốn công giảng giải vòng vo
This is a one-horse town. Nghĩa đen: Đây là thị trấn chỉ có một con ngựa. Nghĩa bóng muốn chỉ đây là một nơi chốn nhỏ ít ai biết đến, không quan trọng.
Thành
ngữ này, đầu tiên được ghi vào năm 1857, vì thuở đó có những thị trấn
nhỏ chỉ cần một con ngựa duy nhất cũng đủ cho nhu cầu vận chuyển.
Play the ponies. Nghĩa
đen: Chơi đùa với ngựa con. Nghĩa bóng: Đây là một câu tiếng lóng của
dân đi đánh cá ngựa khi họ tránh dùng “Play the horses” vì không muốn
cho người ngoài cuộc biết.
Put a horse out to pasture. Nghĩa
đen: Đưa một con ngựa ra đồng cỏ. Khi một con ngựa yếu sức vì tuổi già
hay bệnh tật mất khả năng làm việc, chủ thường không dùng nó nữa và thả
nó ra đồng suốt ngày nhai cỏ. Nghĩa bóng: Đặt ai đó ra khỏi môi trường
hoạt động, cho người đó ngồi chơi xơi nước, với lý do người đó không còn
đủ khả năng hoặc không còn thích hợp.
Strong as a horse. Câu ví von dùng để chỉ một người có sức mạnh: mạnh như trâu, mạnh như cọp, mạnh như voi…
Get on one’s hobby horse. Nghĩa
đen: Làm bộ như đang cỡi ngựa. Bạn có xem hát bộ bao giờ chưa? Đào kép
hát bộ thường kẹp một cây chổi lông gà dưới háng rồi nhún nhẩy trên sàn
sân khấu như là đang cỡi ngựa. Hobby horse là chữ để gọi bất cứ vật gì
giả làm con ngựa. Theo nghĩa bóng, nếu một người nào đó cỡi hobby horse
của họ tức là họ đang ba hoa chích chòe nói về một chủ đề mà họ cho là
thú vị và quan trọng, và họ cứ thao thao bất cứ lúc nào mà họ có thể,
ngay cả khi người khác không quan tâm để ý và không muốn nghe.
Work horse. Nghĩa
đen: ngựa làm việc. Nghĩa bóng mô tả một cá nhân làm việc chăm chỉ, đặc
biệt là khi so sánh với những người khác. Đôi khi chữ work horse cũng
được dùng để mô tả một người chỉ cắm cúi làm việc hùng hục thật chăm
chỉ nhưng không có năng khiếu suy nghĩ phán đoán.
Dog and pony show. Nghĩa đen: Sô
trình diễn chó và ngựa con. Nghĩa bóng: Quảng cáo rầm rộ nhưng thực
chất nội dung không có gì quá đặc biệt. Ví dụ, 'Cuộc họp được cho là để
mô tả một chiến lược bán hàng mới nhưng thực sự chỉ là cách tiếp thị cũ.
Đúng là một màn trình diễn chó và ngựa con.’ Thuật ngữ này bắt đầu từ
những năm 1800, khi những đoàn xiếc lưu diễn khá phổ biến. Một số đoàn
xiếc nhỏ không thể có đủ khả năng sở hữu các động vật kỳ lạ hoặc thuê
mướn các biểu diễn viên tài ba, vì vậy họ cung cấp các màn trình diễn
chỉ có chó và ngựa con. Trường hợp như vậy thường gây thất vọng cho khán
giả địa phương vốn mong đợi cái gì hào hứng thú vị hơn như quảng cáo.
Old war horse. Con
chiến mã già. Nghĩa bóng thành ngữ này chỉ một người từng trải kinh
nghiệm chiến tranh, một chiến binh về già, hay cũng có thể dùng để chỉ
một người già dặn dạn dày kinh nghiệm trong bất cứ lãnh vực nào khác,
như chính trị, tài chánh chẳng hạn.
Trojan Horse.
Ngựa thành Troy. Nghĩa bóng chỉ một cái gì đó nguy hiểm được che đậy
bên trong một cái gì đó trông an toàn hoặc có lợi. Nguồn gốc của thành
ngữ này nói về cuộc chiến tranh giữa Hy Lạp và Troy giữa thế kỷ 13 trước
Công nguyên, khi người Hy Lạp xây dựng một con ngựa gỗ lớn và để lại
bên ngoài cổng thành người Troy như một món quà tặng. Tuy nhiên, người
Hy Lạp đã giấu những người lính trong con ngựa gỗ, vì vậy khi người Troy
(Trojan) kéo con ngựa quà vào thành của họ, toán quân “biệt kích” núp
trong thân ngựa rỗng đợi khi đêm xuống đã giết lính gác và mở cửa thành
cho quân đội Hy Lạp tràn vào tấn công và chiếm được thành Troy.
Đối
với người dùng Internet (cư dân mạng), Trojan là tên của một loại
virus, mầm độc hại được ẩn giấu bên trong các nhu liệu ứng dụng hữu ích,
vì vậy khi người nào tải nhu liệu này về máy tính của họ, virus Trojan
sẽ xâm nhập và truy cập vào dữ liệu của máy tính.
Để kết thúc bài dông dài này, người viết xin liệt kê một số sự kiện về ngựa sau đây.
- Ngựa có ruột non bình thường dài khoảng 75 feet, ruột già bình thường dài khoảng 12 feet.
- Ngựa sản xuất trung bình 12 lít nước bọt mỗi ngày để giúp cho sự tiêu hoá cỏ khô được dễ dàng.
- Ngựa không thể thở bằng miệng và không thể nôn mửa.
- Ngựa chạy có thể đạt đến tốc độ tối đa là khoảng 45 mph (70 km/giờ), tốc độ đi trung bình vào khoảng ba, bốn dặm một giờ.
- Ngựa có đôi mắt lớn nhất so với bất kỳ động vật nào.
- Ngựa và người là hai loài động vật duy nhất có thể đổ mồ hôi qua da để làm mát.
-
Ngựa tiêu thụ một lít (0.25 gallon) dưỡng khí một phút trong khi đi bộ.
Nhưng khi phi nước đại trong một cuộc chạy đua, ngựa thở dồn dập mỗi
hơi một bước chạy, tiêu thụ gần 60 lít (15 gallon) oxy mỗi phút.
- Ngựa có kích thước thân thể trung bình chứa khoảng 50 pint máu (28 lít) lưu thông qua hệ thống tuần hoàn ở chu kỳ 40 giây.
- Ngựa tốn hao nhiều năng lượng khi nằm hơn là khi đứng.
- Ngựa có bộ phận cơ thể đặc biệt ở chân cho phép chúng ngủ trong khi đứng mà không ngã.
- Ngựa tốn hao năng lượng khi bơi nhiều hơn khi chạy.
- Ngựa có lông có mô hình xoắn ốc độc đáo như vân tay của người, một đặc điểm để xác định giống loại.
-
Ngựa Camargue (tên một vùng đất thấp và đầm lầy có sông Rhone chảy qua
thuộc miền nam nước Pháp) có màu đen khi mới sinh nhưng lông đổi thành
trắng khi ngựa trưởng thành.
Cười chuyện ngựa:
1.
Một
cô gái tóc vàng quyết định thử cỡi ngựa, mặc dù trước đó cô chưa bao
giờ học cỡi ngựa và cũng chẳng có kinh nghiệm nào. Cô tự leo lên lưng
ngựa mà chẳng cần ai giúp và con ngựa ngay lập tức chuyển động. Nó giữ
tốc độ ổn định và nhịp nhàng, nhưng cô gái tóc vàng bắt đầu bị tuột từ
từ khỏi yên ngựa.
Hoảng
hốt, cô chụp lấy bờm ngựa, nhưng dường như không thể nắm vững. Cô cố
gắng choàng tay quanh cổ của con ngựa, nhưng rồi cô cũng bị tuột xuống
bên hông con ngựa. Con ngựa vẫn tiếp tục phi nước đại, dường như chẳng
đoái hoài gì đến người cưỡi nó đang gặp trở ngại.
Sau
cùng, cô buông tay ra và nhảy ra khỏi con ngựa để mong đáp xuống nơi an
toàn. Thật không may, chân của cô đã bị vướng vào bàn đạp, thế là cô
chỉ còn cách cầu may cho mình khỏi bị móng ngựa đạp trúng, trong khi cái
đầu của cô chạm mặt đất liên tục. Cô sợ hãi và tuyệt vọng đến gần như
bất tỉnh.
Nhưng
may cho vận số của cô, người quản lý của tiệm Walmart đã nhìn thấy
chuyện gì đang xảy ra nên tắt điện. Và con ngựa máy tức khắc dừng lại.
2.
Một
ngày nọ, một người đàn ông đi qua một trang trại và nhìn thấy một con
ngựa đẹp. Muốn mua con ngựa đó, ông ta bèn nói với người nông dân:
- "Tôi thấy con ngựa của ông trông đẹp quá nên tôi thích và muốn mua. Vậy nếu tôi trả cho ông 500 đồng, ông có chịu bán không?"
Người nông dân đáp:
- “Con ngựa trông không tốt như ông nghĩ đâu. Vã lại nó không phải để bán.”
Người khách vẫn nài nĩ:
- "Tôi lại thấy nó trông đẹp đấy chứ. Tôi sẽ trả cho ông một ngàn đồng.”
- "Tôi đã bảo nó không nhìn tốt như ông nghĩ đâu. Nhưng nếu ông muốn mua nó quá thì tôi bán cho ông đó.”
Ngày hôm sau, người đàn ông quay trở lại với vẻ giận dữ. Ông đến trước mặt người nông dân và la lên:
- "Anh bán cho tôi một con ngựa mù. Anh lừa tôi!"
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire