KIÊN GIANG HÀ HUY HÀ
Posted on 03.04.2010 by quephuong2010
TÁC GIẢ BÀI THƠ
“HOA TRẮNG THÔI
CÀI LÊN ÁO TÍM”
- Bài Nguyễn Việt
Từ thập niên 1960 thế kỷ trước, khi chưa
có truyền hình chỉ có Đài phát thanh, thì mọi người không ai không nghe
qua nhạc phẩm “Hoa trắng thôi cài lên áo tím” được hát đi hát lại nhiều
lần, nhạc phẩm này do nhạc sĩ Huỳnh Anh phổ nhạc từ bài thơ mang cùng
tên của thi sĩ Kiên Giang – Hà Huy Hà, trưởng ban thi ca Mây Tần lúc bấy
giờ. Mọi người nghe xong là thuộc, vì nhạc phẩm dễ hát và dễ nhớ. Chính
điều này bài thơ trở nên bất hủ và không chỉ vang bóng một thời mà sẽ
mãi mãi sống trong lòng mọi người.
Tiểu sử về thi sĩ Kiên Giang
Kiên Giang Hà Huy Hà tên thật là Trương Khương Trinh, sinh 17/02/1927 tại làng Đông Thái, huyện An Biên, Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang,
là con thứ trong một gia đình gồm năm anh em; vì thế ông lấy tên quê
hương đặt thành bút hiệu. Ông cũng là đồng hương của nhà văn “đi bộ” Sơn Nam.
Tuổi thơ của nhà thơ Kiên Giang trải qua
những nhọc nhằn từ vùng U Minh Thượng, nơi cha cày ruộng thuê, mẹ gie
gạo (giã ra gạo sàn trắng) để có tiền đóng học phí cho thầy. Đến năm
1948, ông đi theo tiếng gọi non sông, rồi làm thơ ở báo “Tiếng súng
kháng địch” thuộc Chiến khu 9, miền Tây U Minh. Thời đó ông đã làm thơ
về đề tài tuổi thơ, quê hương, như các bài : Khói trắng, Xe trâu, Sàn
gạo…
Năm 1943, nhà thơ Kiên Giang theo học trường tư
thục Lê Bá Cang ở Sài Gòn. Năm 1944, đến ở tại Cần Thơ đi học trường tư
thục Nam Hưng, để rồi có một mối tình học sinh chớm nở, nhưng thời cuộc
đã xui ông đi theo kháng chiến. Nên vào năm 1955 cũng vì duyên kiếp ông
đã cưới vợ ngay trong chiến khu. Cho nên sau khi hay tin ông đã lập gia
đình thì người nữ sinh ấy cũng lên xe hoa.
Từ
đó bài thơ “Hoa trắng thôi cài trên áo tím” ra đời với hình ảnh người
con gái mang tà áo tím thướt tha cùng nét chữ bay bướm đã khiến ông
thương thầm nhớ trộm : “Hoa trắng thôi cài trên áo tím / Từ ngày binh
lửa ngập quê hương / Khói hôm che khuất chân trời cũ / Che cả người yêu,
nóc giáo đường…”. Bài thơ sau này được nhạc sĩ Huỳnh Anh phổ thành ca
khúc rất phổ biến. Nay “người con gái ấy” hiện đã an nghỉ nghìn thu tại
đất Tây Đô, lâu lâu có dịp nhà thơ Kiên Giang lại ghé về thắp một nén
nhang để làm ấm lòng người quá cố thay cho lời tạ lỗi.
Cũng từ năm 1955 nhà thơ soạn giả Kiên
Giang Hà Huy Hà xuất hiện nhiều trên văn đàn Sài Gòn. Sau làm thơ, ông
soạn tuồng cải lương và viết báo. Đến nay ông đang sống cô độc trong
tuổi già tại Hội Ái Hữu Nghệ Sĩ Sân Khấu nằm trên đường Cô Bắc, trước
rạp hát cải lương Hưng Đạo trên đường Trần Hưng Đạo, Q1, Sài Gòn.
Như đã nói ngoài làm thơ, nhà thơ Kiên
Giang còn có nghệ danh là Hà Huy Hà. Có lần ông tâm sự : “Học hết lớp 12
tôi tham gia kháng chiến chống Pháp 9 năm, làm biên tập viên, phóng
viên cho báo “Tiếng súng kháng địch” ở chiến khu 9. Năm 1955, tôi về Sài
Gòn viết báo cho các tờ : Dân Chủ Mới, Tiếng Chuông, Dân Ta, Dân Tiến…
Kiên Giang là bút danh khi tôi làm thơ, còn viết báo, soạn tuồng tôi lấy
tên Hà Huy Hà. Bút danh này khiến mật thám thời đó lầm tưởng tôi có họ
hàng với Hà Huy Tập, Hà Huy Giáp những người làm chính trị ở miền Bắc,
nên chúng đã bắt tôi. Sau khi nghe giọng nói Nam Bộ của tôi, chúng đã
thả tôi ra”.
Còn làm soạn giả cải lương, Kiên Giang Hà Huy Hà rất nổi tiếng cùng thời với Năm Châu, Viễn Châu, Hà Triều, Hoa Phượng,
Quy Sắc… đến nhà thơ Nguyễn Bính khi vào Nam từng đến nhà ông tá túc
nhiều ngày. Các tác phẩm cải lương của soạn giả Hà Huy Hà có thể kể đến
“Áo cưới trước cổng chùa”, “Người vợ không bao giờ cưới” là đỉnh điểm
cho sự thành danh của ông, trong đó vở cải lương “Người vợ không bao giờ
cưới” đã giúp cho cố nữ nghệ sĩ Thanh Nga đoạt giải thưởng Thanh Tâm
“nữ nghệ sĩ cải lương xuất sắc nhất” do nhật báo “Tiếng Dội” của nhà
báo Trần Tấn Quốc làm chủ nhiệm tổ chức; Thanh Nga cũng từ đó trở thành
một ngôi sao trong giới nghệ sĩ cải lương.
Trước năm 1975,
nhà thơ soạn giả Kiên Giang Hà Huy Hà còn phụ trách ban thi văn Mây Tần
trên Đài phát thanh Sài Gòn, làm ký giả kịch trường cho nhiều tờ báo
lớn ở Sài Gòn như nhật báo Tiếng Chuông, Tiếng Dội, Lập Trường, Điện
Tín, Tia Sáng… Ông cũng từng tham gia phong trào “Ký giả đi ăn mày” và dẫn đầu đoàn biểu tình chống lại những quy chế khắt khe của chính quyền TT Nguyễn Văn Thiệu áp đặt lên giới báo chí lúc đó.
Sau năm 1975, Kiên Giang được cử làm phó đoàn cải lương Thanh Nga, và làm việc tại phòng nghệ thuật sân khấu, đồng thời là Ủy viên Ban chấp hành Hội Sân khấu thành phố qua 3 nhiệm kỳ.
Nói về thơ của nhà thơ Kiên Giang có rất
nhiều, những thi tập đã xuất bản có Hoa trắng thôi cài trên áo tím
(1962), Lúa sạ miền Nam (1970), Quê hương thơ ấu…
Còn về soạn tuồng cải lương
với tên Hà Huy Hà, ông có những tuồng như sau : Người đẹp bán tơ
(1956), Con đò Thủ Thiêm (1957), Người vợ không bao giờ cưới (1958 cùng
với Phúc Nguyên), Ngưu Lang Chức Nữ, Sơn nữ Phà Ca, Áo cưới trước cổng
chùa, Phấn lá men rừng, Từ trường học đến trường làng, Dòng nước ngược,
Chia đều hạnh phúc, Trương Chi Mỵ Nương, Mây chiều xuyên nguyệt thôn,
Sương phủ nửa chừng xuân, Chén cơm sông núi, Hồi trống trường làng, Lưu
Bình Dương Lễ.
Và viết tân cổ giao duyên,
nhà thơ soạn giả Kiên Giang Hà Huy Hà có những bài nổi bậc như : Trái
gùi Bến Cát, Đội gạo đường xa, Tim đá mạ vàng, Ngồi trâu thổi sáo, Ánh
đèn soi ếch, Người đẹp bán tơ, Hương cao quê ngoại, Trái tim cò trắng,
Vắt sữa nai nuôi mẹ, Hương sắc gái Cà Mau, Lập quán kén chồng, Ni cô và
lão ăn mày, Khói lò gạch, Cô gái miền Tây…
Nói về thơ Kiên Giang
Vì nhà thơ Kiên Giang có lúc từng là anh
em kết nghĩa, là bạn thơ với thi sĩ Nguyễn Bính, nên nhiều người nhận
xét thơ ông đã ảnh hưởng thơ của Nguyễn Bính khá nhiều. Nhưng nhiều
người cho rằng cái chất “rặt ròng” Nam Bộ trong thơ Kiên Giang là đồ gia
bảo riêng của tác giả, không thể ảnh hưởng phong trào thơ “áo bào gốc
liễu” như Nguyễn Bính, Thâm Tâm, Trần Huyền Trân được. Ta hãy cảm nhận
ít vần thơ sau đây của nhà thơ Kiên Giang để thấy chất “rặt ròng” Nam Bộ
trong thơ của ông :
Từ khi cô giáo tập em đồ
Không kê giấy chặm em vô ý
Để dấu tay lem vở học trò (Đồng xu giấy chặm)
Phạt anh ngâm nước vô lu
Bẻ tàu chuối hột che dù cho em (Ngựa trúc)
Lời lẽ mộc mạc Nam Bộ đến thế, bây giờ
hiếm hoi gặp lại cái chất đó trong thơ của các thi sĩ miền Nam. Riêng
nhà văn Sơn Nam khi còn sống đã nói về nhà thơ Kiên Giang như sau :
- “Kiên Giang là một thi sĩ thành công,
một soạn giả đã đưa thi ca vào sân khấu, để lại cho đời những vở tuồng
mang đậm chất thơ như Áo cưới trước cổng chùa, Người đẹp bán tơ, Ngưu
Lang Chức Nữ, Sơn nữ Phà Ca… Còn trong thơ ca, Kiên Giang đã viết những
câu thơ mà nhiều nhà nghiên cứu cứ ngỡ là ca dao : “Ong bầu vờn đọt mù u
/ Lấy chồng càng sớm tiếng ru càng buồn”. Thơ Kiên Giang cũng như thơ
Nguyễn Bính có nét chung bình dị, mộc mạc, nhưng một bên là chân quê Nam
Bộ, còn một bên là chân quê Bắc Bộ”.
Ngoài ra nhà văn Sơn Nam còn bình xét thơ
và tuồng của Kiên Giang Hà Huy Hà như sau : “có người nói ông làm thơ
dễ dãi đến mức có lẽ không đọc lại bản thảo (?). Cũng có thể như vậy
hoặc không như vậy, nhưng nếu dễ dãi mà đã để lại cho đời những bài thơ
như “Hoa trắng thôi cài trên áo tím”, “Khói trắng” hay “Tiền và lá”… –
những bài thơ sống dai dẳng trong lòng người dân miền Nam suốt một thời
thật nên trân trọng”.
Lịch sử bài thơ “Hoa trắng thôi cài trên áo tím”
“Hoa trắng thôi cài trên
áo tím” có lẽ là bài thơ nổi tiếng nhất của thi sĩ Kiên Giang, đã được
nhạc sĩ Huỳnh Anh phổ nhạc và được nhiều ca sĩ thể hiện rất thành công.
Theo nhà thơ Kiên Giang tâm sự :
- “Đây là tâm tình người trai ngoại đạo
đối với cô gái có đạo. Mối tình học trò tinh khiết, ngây thơ, không
nhuốm bụi trần. Năm 1944, tôi ở Cần Thơ học trường tư thục Nam Hưng, dốt
toán nhưng giỏi luận chuyên làm bài giùm cho bạn cùng lớp, trong đó có
NH – cô bạn dễ thương thường mặc áo bà ba trắng, quần đen, mang guốc
mộc. Có những buổi tan học lẽo đẽo đi theo sau NH. đến tận nhà cô ở xóm
nhà thờ. Cách mạng nổ ra, không có tiền đi đò về quê, NH. biết ý gửi
cho, rồi tôi đi kháng chiến, gặp người quen trong đội quân nhạc nhắn :
‘”Con Tám NH. vẫn chờ mày”. Năm 1955 tôi ghé ngang Cần Thơ, xin phép má
của NH. để tâm tình suốt đêm với NH. bên ánh đèn dầu. Sau đó tôi nghe
tin NH. lấy chồng có con đầu lòng đặt tên là tên ghép lại của tôi và NH.
vì thế chồng cô biết rất ghen tức. Chính vì lý do nầy tôi đổi bốn câu
kết bài thơ này, giống như tống tiễn mối tình học trò trinh trắng. Câu
kết trước là :
Chuông nhà thờ khóc tiễn người ngàn thu
Từ nay tóc rũ khăn sô
Em cài hoa tím trên mồ người xưa
thành cái kết khác :
Lạy Chúa ! Con là người ngoại đạo
Nhưng tin có chúa ở trên trời
Trong lòng con, giữa màu hoa trắng
Cứu rỗi linh hồn con Chúa ơi !
Năm 1999, hãng phim TFS của Đài Truyền
hình Thành phố có làm phim “Chiếc giỏ đời người” về sự nghiệp hoạt động
văn nghệ của tôi, khi trở về Cần Thơ quay lại cảnh trường cũ, mới hay
tin là NH. mất năm 1998. Tôi mua bó huệ trắng, ra thăm mộ NH. ở nghĩa
trang Cái Su. Đúng là
Từng cài trên áo tím ngây thơ
Hôm nay vẫn đóa hoa màu trắng
Anh kết tình tang gởi xuống mồ”
Qua bài viết, người viết đã kể đến cuộc
đời và sự nghiệp của nhà thơ kiêm soạn giả Kiên Giang Hà Huy Hà, và
những tâm sự của nhà thơ khi sáng tác thi phẩm “Hoa trắng thôi cài trên
áo tím”, đã để lại nỗi buồn man mác trong lòng mọi người qua bài thơ
tình đầy lãng mạn.
Chúng tôi xin tải đăng nguyên tác của bài thơ :
HOA TRẮNG THÔI CÀI TRÊN ÁO TÍM
I.
Lâu quá không về thăm xóm đạo
Lâu quá không về thăm xóm đạo
Từ ngày binh lửa xoá không gian
Khói bom che lấp chân trời cũ
oOo
Mười năm trước, em còn đi học
Áo tím điểm tô đời nữ sinh
Hoa trắng cài duyên trên áo tím
Em là cô gái tuổi băng trinh
oOo
Trường anh ngó mặt giáo đường
Gác chuông thương nhớ lầu chuông
U buồn thay! Chuông nhạc đạo
Rộn rã thay! Chuông nhà trường
II.
Lần kia anh ghiền nghe tiếng chuông
Lần kia anh ghiền nghe tiếng chuông
Để nghe khe khẽ lời em nguyện
Thơ thẩn chờ em trước thánh đường
oOo
Mỗi lần tan lễ, chuông ngừng đổ
Hai bóng cùng đi một lối về
E lệ, em cầu kinh nho nhỏ
Thẹn thùng, anh đứng lại, không đi
III.
Sau mười năm lẽ anh thôi học
Sau mười năm lẽ anh thôi học
Nức nở chuông trường buổi biệt ly
Tiễn nàng áo tím bước vu quy
oOo
Anh nhìn áo cưới mà anh ngỡ
Chiếc áo tang liệm khối tuyệt tình
- Hoa trắng thôi cài lên áo tím
Thôi còn đâu nữa tuổi băng trinh
oOo
Em lên xe cưới về quê chồng
Anh vẫn yêu em người áo tím
Nên tình thơ ủ kín trong lòng
IV.
Từ lúc giặc ruồng vô xóm đạo
Từ lúc giặc ruồng vô xóm đạo
Anh làm chiến sĩ giữ quê hương
Giữ tà áo tím, người yêu cũ
Giữ cả lầu chuông, nóc giáo đường
oOo
Mặc dù em chẳng còn xem lễ
Anh vẫn giữ lầu chuông gác thánh
Nghe chuông truy niệm mối tình thơ
oOo
Màu gạch nhà thờ còn đỏ thẫm
Như tình nồng thắm thuở ban đầu
Áo tím tình thơ đã nhạt màu
V.
Ba năm sau chiếc xe hoa cũ
Ba năm sau chiếc xe hoa cũ
Chở áo tím về trong áo quan
Chuông đạo ngân vang hồi vĩnh biệt
Khi anh ngồi kết vòng hoa tang
oOo
Từng cài trên áo tím ngây thơ
Hôm nay vẫn đoá hoa màu trắng
Anh kết tình chung gởi xuống mồ
VI.
Lâu quá không về thăm xóm đạo
Lâu quá không về thăm xóm đạo
Không còn đứng nép ở lầu chuông
Những khi chuông đổ anh liên tưởng
Người cũ cầu kinh giữa thánh đường
oOo
“Lạy Chúa con là người ngoại đạo
Nhưng tin có Chúa ở trên cao
Trong lòng còn giữ màu hoa trắng
Cứu rỗi linh hồn con, Chúa ơi !”
(Bến Tre, 14-11-1958)
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire