Mời quý anh chị đọc một bài của Người Lính Già Oregon để hiểu về tâm sự một người đi lạc xứ sở.
Caroline Thanh Hương
BA MƯƠI HAI NĂM
ẤY BÂY GIỜ LÀ ĐÂY
Mai sau dầu có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này (Đoạn Trường Tân Thanh)
kim thanh
/ người lính già oregon
Đúng ra, câu thơ trong Truyện Kiều là “Mười lăm năm ấy bây giờ
là đây” kể chuyện nàng Kiều lúc mãn kiếp đoạn trường đã trở về sum họp với
gia đình và người tình Kim Trọng. Nhưng Nguyễn đã tăng lên “ba mươi hai năm”,
vì thời gian lưu lạc của chàng hơn gấp đôi của Kiều. Ba mươi hai năm, chao ôi,
một nửa đời người, mà nợ ly hương còn mãi đeo đẳng! Thực vậy, từ trại tỵ nạn
Bataan, Philippines, Nguyễn đến Mỹ ngày 28/1/1985, sau tám năm tù cải tạo ngoài Bắc, một năm
tù vượt biên trong Nam, bảy ngày đêm bão tố hãi hùng trên đại dương, và hơn một
năm chờ đợi tại đảo. Không gia đình, không tiền bạc, không hành lý, không giấy
tờ. Không tương lai. Chỉ một quá khứ trĩu nặng đau thương, và bất hạnh, mang
theo.
1.
Salem,
làm sao quên
Salem, thủ phủ của Oregon. Trong một apartment
thuê của người em, tên Nguyễn Kim Hồng, lớn lên ở Mỹ từ 1976. Nhân viên xã hội
lúc bấy giờ là chị Trần Thu Thủy, vui vẻ, sốt sắng, giúp đỡ Nguyễn nhiệt tình.
Một tháng trời, nằm nhà xem Ti vi, để luyện tiếng Anh. Nằm chán, chàng ra siêu
thị Safeway gần đó, chỉ để ngắm nhìn thiên hạ, không mua sắm gì, vì không có một
đồng
dính túi. Rồi phải ghi danh học lớp ESL bắt buộc cho dân tỵ nạn, không cần
biết trình độ học vấn trước đây ở quê nhà ra sao. Hồng chở chàng đến trường
Chemeketa để gặp người phụ trách, một cựu trung tá phi công F5 VNCH, tên H., nói
năng hoạt bát. Trên bàn làm việc, thấy trưng bày nhiều giấy khen viết bằng tiếng
Mỹ và, đặc biệt, một lá cờ vàng ba sọc đỏ. Anh nói, anh có bằng BA tại Mỹ và sắp
sửa theo học MA. Trong lòng, Nguyễn thấy khâm phục anh vô cùng, về cái lý lịch
nhà binh nặng ký, thái độ niềm nở, bằng cấp đầy mình, và nhất là tinh thần quốc
gia cao độ. Sau nửa giờ nói chuyện, cả ba người quên bẵng lý do chàng đến gặp
anh hôm đó: ghi danh học ESL. Năm năm sau, Nguyễn tốt nghiệp Ph.D, tình cờ được
gặp lại anh ta tại Portland,
nhưng thấy chàng, anh ta lờ đi, làm như không biết chàng là ai, và Nguyễn cũng
không buồn chào hỏi.
Một hôm bị đau, Nguyễn được Hồng chở đến bệnh viện Salem. Ông bác sĩ Mỹ, tên M., rất vui tính.
Xong việc, ông hỏi một câu làm quà: “Tương lai anh muốn làm gì tại Mỹ?” Với một
thứ tiếng Anh hổ lốn –học từ trường Tây, từ các cố vấn và lính Mỹ trong chiến
tranh, và từ những người Phi đủ hạng ở các trại tỵ nạn, nghĩa là đầy accent,
không giống ai– chàng thành thật trả lời: “Tôi muốn dạy Pháp văn trở lại”. M. phá
ra cười, ngạo mạn: “Nhưng đến cả tiếng Anh anh cũng không nói được” (But you
can’t even speak English). Mặt chàng đỏ bừng: “Ông nói dối, vì ông hiểu được những
gì tôi nói mà. Ông chờ đấy, năm năm nữa tôi sẽ trở lại gặp ông như một giáo sư!”,
chàng xẵng giọng đáp, cương ẩu, bước ra khỏi phòng, không chào, không bắt tay.
Trên xe về nhà, Nguyễn thấy đầu lùng bùng. Có thể ông bác sĩ đã vô tình hoặc trực
tính. Có thể ông nói không sai: tiếng Anh của chàng, tuy không tệ quá, nhưng muốn
làm giáo sư tại Mỹ phải chăng đó là một hoang tưởng? Nhiều ngày sau, tiếng cười
của ông còn rát bên tai. Từ đó, bỗng lóe lên ý nghĩ đi học lại. Hồng và vợ, Bích
Phượng, liền can ngăn: “Trễ quá rồi anh ơi, thôi ráng kiếm việc gì làm bậy bạ,
sống qua ngày. Già rồi, học sao vô, lại còn tiền học nữa, quá đắt, lấy đâu?” Chàng
đành im lặng, ngồi nghe và suy nghĩ lung lắm.
2. Portland, những
tháng ngày bầm dập
Vợ chồng Hồng còn son trẻ, đối xử rất đường hoàng. Nhưng chàng tự thấy bất tiện
nếu cứ ăn dầm nằm dề trong apartment nhỏ, đầy riêng tư của hai em. Sực
nhớ câu châm ngôn Latin thời Trung cổ: “Post tres saepe dies vilescit piscis et
hospes”, dịch từng chữ, thường sau ba ngày, cá và khách đều ươn. Huống
chi “cá chàng” đã ở gần một tháng. Cộng thêm tiếng cười chế nhạo của ông bác
sĩ. Phải ra đi thôi. Lên Portland, tìm cơ hội lập thân.
Chàng bèn gọi điện thoại cho Đại úy Phạm Văn Tải, một đại đội trưởng cũ rất chịu
chơi của chàng từ thời Ban Mê
Thuột, Kontum, và Nha Trang, quảng giao, đối xử tốt với mọi người. Nghe tin chàng vừa tới Salem, ông đã
lái xe, xuống thăm liền, cùng với
một người bạn chung Đà Lạt, Thiếu tá Vũ Tiến Kỳ. Nguyễn gọi để xin ông
cho tá túc vài bữa. Ông sốt sắng: “Được chứ. Cứ lên ở với tớ, bao lâu cũng được.”
Lúc ấy, ông sống trong một apartment thuê, đường NE
Prescott, với Lu, đứa con trai nhỏ, sau này đi tu và làm linh mục
dòng Tên. Bà Tải và những người con khác chưa qua đoàn tụ. Chỉ có một phòng với
chiếc giường lớn cho hai cha con. Chàng ngủ trên sofa, ngoài phòng
khách, như tại nhà Hồng.
Tải làm việc cho USCC (US Catholic
Charities), trong khuôn viên nhà thờ La Vang. Cuối tuần, ông thường đến các nhà
quen dự tiệc, và chở chàng theo ăn ké. Còn cho mượn $800 tiền mặt để mua chiếc
Audi đời thượng cổ, trên 200 ngàn miles, không nhớ của bà sơ Phượng, hay bà sơ Miền. Chàng ca bài
ca con cá “mới tới còn nghèo, xin bớt chút đỉnh”, nhưng bà dứt khoát bán chắc giá, và cash
only. Xe chạy cũng OK (chỉ lâu lâu tự dưng tắt máy ngang xương giữa đàng), nhưng
tiếng nổ lớn quá, phun khói mù trời, bị rớt hoài DEQ và bị cảnh sát hai lần chận
phạt. Và từ đó, bỗng nhiên chàng trở
thành khách hàng thường trực của Khôi Auto.
Để kiếm tiền độ nhật, chàng theo xe bus hái dâu, đến vài vùng quê khá
xa. Mỗi ngày, nhận tối đa chưa tới $20, trong khi đa số lãnh gần cả trăm. Chàng
hái chậm, lại hay đứng lên để đấm lưng, uống bia, tán dóc. Các bà, các cô, toàn
là dân tỵ nạn mới định cư, ngồi bệt trên luống dâu, hái bằng cả hai tay nhanh
thoăn thoắt, thoáng chốc đã đầy khay, làm không biết mệt. Mặc dù gần đó có phòng vệ sinh, vài bà, hay cô, để tiết
kiệm thì giờ, ngồi sụp xuống các luống, lén vén quần tè ngay tại chỗ –ai cũng thấy, nhưng ai cũng
giả đui. Trong đám hái dâu, có ba thanh niên mà chàng
quen thân tại trại Palawan, nay đều trở thành linh mục, Đặng Kim Hoàng, Nguyễn
Cửu và Nguyễn Văn Luận, “lao động” kiểu amateur
giống chàng, nghĩa là làm ít, nghỉ giải lao nhiều, tiền
lãnh cũng không được bao nhiêu. Đặng Kim Hoàng đã từ trần,
cách đây hai năm, tại nhà dòng Biển Đức Mount Angel, sau một thời gian bị bạo bệnh,
khi tuổi đời còn quá trẻ.
Mùa dâu kết thúc, bốn chàng ngự lâm pháo thủ Palawan
xoay được công việc khiêng thùng tại warehouse của một anh Tàu
Móm gốc Chợ Lớn, khu North. Suốt ngày phải di chuyển vào nhà kho rộng thênh
thang, và xếp gọn, những thùng hàng đồ chơi và gia dụng linh tinh, không nặng lắm,
nhưng rất nhiều, nhập từ Hồng Kông. Anh Tàu phát cho mỗi người $15 một ngày,
kèm thêm một hamburger và một ly coke, không đủ no. Công việc tạm
ổn định. Được một tháng thì hết hàng nhập. Bèn thất nghiệp. Nguyễn giã từ ba
ông cha tương lai, để từ đó đường ai nấy đi, hồn ai nấy giữ. Mười chín năm sau,
2004, Đặng Kim Hoàng và Nguyễn Văn Luận là hai linh mục đồng tế, cùng với cha
chánh xứ La Vang Phạm Văn Ninh, cho thánh lễ hôn phối của vợ chồng chàng.
Mấy hôm sau, Tải kiếm đâu cho chàng được
cái job tại một nhà hàng Mỹ, khu NE, lương $6 một giờ, từ 11PM đến 3AM,
vị chi là $24, trả cash ngay tại chỗ, mỗi đêm. Lúc này, chàng có xe và bằng
lái, nên đi đứng có phần dễ dàng. Chàng được giao một núi chén đĩa, thanh toán
xong đã mất hai tiếng. Tên quản lý Mỹ ác ôn đưa thêm một cái chảo to tổ chảng,
đen ngòm những mỡ, hành và thịt cháy. Hì hục cạo, rửa, chùi gần một tiếng nữa,
tưởng sạch, nhưng hắn lắc đầu, lấy ngón tay quẹt vào những chỗ còn bám mỡ, bắt rửa
lại. Về đến nhà đã hơn ba giờ sáng, quá giấc ngủ, trằn trọc mãi. Làm thêm một
tuần nữa, chịu hết nổi, chàng bỏ luôn.
Nguyễn xin phép Tải được share tiền thuê phòng, ông gạt đi và nói:
“Không có cậu, tớ cũng phải trả như vậy thôi!” Thỉnh thoảng ông chở chàng đến
văn phòng USCC chơi. Tại đây, lần đầu chàng gặp Dương Xuân Kính, tức Paul
Dương, cựu SVSQ khóa 2 trường Đại Học CTCT Đà Lạt, đến Mỹ
từ 1975
(và đã mất cách đây hai năm, tức 2015, trước cha Hoàng hai tháng). Khi biết chàng
là sĩ quan giảng dạy của trường, từ khóa 4, Kính tỏ vẻ mến trọng, và nhiều lần
đến đón đi ăn trưa tại tiệm Yên Hà, khi ấy còn thuộc quyền sở hữu của ông bà Bác
sĩ Thái Văn Trị. Sau đó, chở chàng đến họp tại tư gia với anh em Hội Ái Hữu Cựu
SVSQ/ĐH/CTCT/ĐL, thời ấy chỉ có năm người, đều xuất thân khóa 2, nghĩa là chưa
hề biết chàng tại VN. Lần đầu gặp gỡ, được anh em tiếp đãi chí tình, chàng rất cảm
động. Chàng bắt đầu viết bài cho tờ Ức Trai của Hội.
Kính cũng giới thiệu chàng với người anh vợ, là Linh Mục Cao Đăng Minh, giám đốc
Trung Tâm Mục Vụ Đông Nam Á và Chánh xứ La Vang, mà chàng nghe mọi người ca ngợi
–rất đúng, như sau này chàng công nhận– đã tích cực giúp đỡ đồng bào, Cộng đồng
Oregon và có tinh thần quốc gia, chống Cộng cao. Ông không nhận ra chàng. Nhưng
chàng nhớ rõ ông, vì một lần tình cờ đã gặp, bắt tay ông tại phòng khách Dòng
Chúa Cứu Thế, đường Duy Tân, Nha Trang, khi chở thân phụ, là ông Câu (Chủ tịch
Hội đồng Giáo xứ) họ đạo Vĩnh Phước, đến gặp Cha Bề trên Dòng có việc. Lúc ấy,
ông gầy xanh, dáng vẻ thư sinh, và nói năng dễ thương. Giờ này, sau bao nhiêu
năm, ông không nhớ chàng là ai, cũng dễ hiểu thôi, nhưng ít ra còn lịch sự trao
đổi vài câu xã giao. Khác với một thằng bạn Thủ Đức, tên S., được xem là một nhân vật tai mắt mũi họng của
giáo xứ La Vang, nhưng cùng khóa 20, cùng đại đội, cùng trung đội, cùng bị phạt
hít đất tập thể vẹo cả mông. Gặp hắn bất thần ở sân nhà thờ, chàng hí hửng đến chào trước. Hắn nhìn chàng lạnh
lùng, nhún vai, lắc đầu, bỏ đi, không thèm nói nửa lời, làm chàng quê độ, muốn
chửi thề một phát. Nhưng rồi chàng tự an ủi, hay là hắn không nhớ ra mình, cũng như H.
Salem?
Sau hơn hai tháng, thấy cá và chàng đã quá ươn, Nguyễn tính chuyện ra đi. Gặp
lúc Tải mãn hợp đồng thuê nhà, hai cha con mướn một phòng khác, rẻ và chật hơn,
chàng ngõ ý nhờ Kính xin anh chị Vũ Văn Khúc cho mướn cái basement dưới
nhà, đường Siskiyou, gần trường Madison.
Nghe ai xúi dại, chàng nạp đơn xin welfare. Ăn trợ cấp thì phải theo học
lớp tìm việc, ba lần một tuần, tại IRCO (International Refugee Center of
Oregon). “Tai nạn” xảy ra từ lúc đó. Quả vậy, lãnh được một tháng lương welfare,
tổng cộng chưa tới $100, thì chàng trốn học. Một ả người An Nam Mít, không biết
chức vụ gì, còn trẻ, tướng mạo sạch sẽ, nhưng “cực kỳ” hắc ám, mặt mũi lúc nào
trông cũng khó đăm đăm như bị táo bón kinh niên, hoặc kinh kỳ trồi sụt, hành hạ
tinh thần chàng
tận tình. Luôn luôn chiếu tướng
chàng. Một lần ả đề nghị chàng đi lau cửa kính trên những building
cao ngất ở khu North. Chàng từ chối, viện cớ mắt kém, và sức yếu, rủi trượt chân té què giò, lãng
xẹt. Biết chàng có ý đi học lại, ả thường gọi chị
Khúc, dò hỏi tin tức về chàng và thời khóa biểu hàng ngày, đi đâu, làm gì, gặp
ai… Nghe chị kể lại, chàng điên tiết vì hành động sặc mùi Công An phường này,
bèn gửi đơn xuống Salem xin điều trần (hearing) về việc bị xách nhiễu, dọa cúp
trợ cấp, dù chàng biết rõ, muốn ăn trợ cấp thì phải đi làm công việc do IRCO chỉ
định.
Buổi điều trần diễn ra tại Sở welfare, có thu băng, biên bản, với sự hiện
diện của ả và một mợ case worker sồn sồn Mỹ, cũng “táo bón” không kém,
và ba ông nhân viên Mỹ từ Salem lên, vẻ mặt, ngược lại, trông từ tốn, phúc hậu.
Giận ả IRCO, chàng từ chối thông dịch viên Việt Nam của Sở, và mang theo cô bạn Mỹ
mới quen tên Robin, rất giỏi Pháp ngữ. Suốt buổi, chàng chỉ nói tiếng Pháp,
Robin dịch ra tiếng Anh, và ngược lại. Biết điều này, Kính khoái quá, cười lớn:
“Chưa từng có trường hợp nào như ông. Bắt một em Mỹ thông dịch tiếng Pháp cho
ông, ông chơi cha thiên hạ rồi còn gì!” Một vị đại diện Salem, rất lịch sự, tuyên bố kết quả: “Chúng
tôi thông cảm ước vọng muốn đi học lại của ông, đó là điều tốt. Nhưng luật là
luật, ông phải đi làm mới được lãnh trợ cấp”. Chàng biết trước, nên không hề thất
vọng, buồn phiền. Kiện cho bõ tức thôi. Chàng thua, hai mợ hả hê lắm. Mất tiền
trợ cấp ngay sau buổi điều trần.
Tuy nhiên, cũng tại IRCO, Nguyễn may mắn
được gặp anh Giám đốc Chương trình Phúc Lợi, hướng dẫn các tân tỵ nạn viên về nếp
sống tại Mỹ, sự khác biệt giữa hai nền văn hóa… Một bữa, anh vào lớp, phong thái
ung dung, khiêm tốn, pha một chút lãng tử bất cần đời, và nói, đại ý: “Xin chào
quý bạn. Tôi là Trịnh Đình Bội, cùng cảnh ngộ tỵ nạn. […] IRCO có nhiệm vụ giúp
quý bạn sớm hội nhập vào đời sống mới, giúp tìm việc làm bằng cách mở lớp học
này. Nhưng đó chỉ là thủ tục, nguyên tắc, bởi nếu quý bạn tự tìm được việc làm,
tự biết về đời sống Mỹ rồi thì khỏi cần đến lớp…” Tuyên bố xong,
anh giải tán lớp học. Nguyễn chịu lắm. Sau này, chàng được biết thêm, anh là cựu
Thiếu tá thuộc Tổng cục CTCT, và vào năm 1969, anh đã tốt nghiệp Khóa Sĩ Quan
Báo Chí tại Indiana, Hoa Kỳ. Tại Portland, sau 1975, anh được bầu vào chức
Chủ tịch Ủy ban các Cộng Đồng Tỵ Nạn Đa Văn Hóa, và do thành quả công tác thiện
nguyện tốt đẹp, anh được lãnh nhiều giải thưởng (awards) của Thành Phố Portland
(1985), Quận hạt Multnomah, và Ủy Ban Citizen Involvement (1990). Một tháng
sau, Kính có việc gặp Giám đốc Trung tâm IRCO, Nady Tan, người Căm Bốt, và rủ
chàng cùng đi cho vui. Nói chuyện với Nady bằng Pháp ngữ, chàng kể về kỷ niệm
thời gian chàng phục vụ phái đoàn Liên Lạc Quân Sự tại Phnom Penh, về Sirik
Matak, về cô bạn Soriya. Một lúc nào đó, chàng nhắc đến và khen ngợi “Monsieur
Bội”. Nady bèn nói: “Ông Bội đã giúp đỡ thân chủ IRCO, và của Cộng đồng, rất
nhiều”.
Mối
giao tình giữa Bội và chàng được mở ra từ lúc đó, gián đoạn gần mười năm khi
chàng rời Portland, và được nối tiếp sau thời gian trở lại, mỗi ngày bền chặt
hơn qua những buổi mạn đàm về chính trị, thời sự, nhất là văn chương. Dần dần
anh trở thành một trong những người bạn thân quý nhất của chàng. Trong mỗi vấn
đề, anh có cái nhìn bén nhậy, ý kiến chính xác, xây dựng, tích cực và sâu sắc.
Anh còn là một nhà thơ, ký tên Ngọc Bội, với những bài thơ trữ tình, đặc biệt
Đường thi, đầy nét vừa cổ kính vừa tân lãng mạn, biểu lộ lòng yêu nước nồng
nàn, chống Cộng nhẹ nhàng mà quyết liệt, hồn thơ lai láng, vần điệu phân minh,
niêm luật nghiêm chỉnh mà không gò bó, đọc lên nghe rất tự nhiên.
3. Portland State University (PSU), gắn lại
mảnh đời vỡ vụn
Chị
Khúc cho Nguyễn ở và ăn cơm tối chung với gia đình chị, lấy giá quá rẻ, rất tượng
trưng. Coi như cho không. Anh chị lại rất đạo đức, tối nào cũng cho con xuống
“mời bác lên nhà đọc kinh”. Sau này, nhớ ân tình cũ, chàng nhờ chị làm mẹ đỡ đầu
cho Loan, vợ chàng, trong ngày Loan rửa tội.
Kẹt tiền, chàng đến tiệm Yên Hà xin lau sàn và rửa bát ban đêm, nay đã đổi chủ,
chỉ mong đủ trả tiền phòng, và cà phê sáng, ăn trưa. Cùng lúc, qua lời đề nghị
của Kính, cha Minh cho chàng hành nghề “lăn tay, chụp hình”, điền thẻ xanh và
quốc tịch cho đồng hương, thay bà sơ Miền, để lượm bạc lẻ, trong hai ngày cuối tuần, dưới
basement nhà thờ. Cái job ấy được giữ suốt thời gian chàng học tại
PSU, cho đến khi xuống Eugene
độ nửa năm thì bị bà sơ Miền viết thư, tìm cớ “tịch thu” lại.
Hè 1985, mối ám ảnh đi học lại chìm sâu trong đáy tiềm thức từ mấy tháng, một
ngày chợt trỗi dậy. Chàng nhờ Kính chở đến PSU, một buổi sáng vắng người, để lo
việc ghi danh. Tìm Foreign Languages
Department. Gõ đại cửa Văn Phòng Cố Vấn Sinh Viên Thiểu Số, gặp một mợ Việt
Kiều cỡ tuổi hồi xuân, có cái tên rất đầm, Yvette, hay Irène gì đó, tốt nghiệp
BA Pháp văn mấy năm trước, mợ
tự giới thiệu. Mợ múa tay chỉ hai đứa đến building này, đi lên lầu kia, quẹo qua nơi nọ.
Không muốn tốn giờ chờ thang máy, cả hai chạy lên chạy xuống đủ mấy tầng lầu,
long hết đầu gối, mà chẳng tìm ra, có lẽ mợ (cố tình?) chỉ
sai chỗ. Cho chừa cái tật nghèo mà ham… bằng cấp, chàng thầm nghĩ. Trở lại gặp mợ. Lần này, mợ liếc nhìn chàng từ đầu đến
chân, rồi lắc đầu, nghiêm nghị phán, nguyên văn: “Học Pháp văn khó lắm, anh từ
VN mới qua, theo không nổi đâu. Tôi đây mà còn mất mấy
năm trời, trầy vi tróc vảy”. Hai chàng ngao ngán, nhìn nhau, lại xuống phòng
ghi danh.
Tại đây, chàng khai đã có Cử Nhân Pháp văn và dạy học ở Việt Nam, sắp
trình Cao Học thì mất nước, nhưng vượt biên không mang theo giấy tờ. Chàng xin
học lại BA, cho an toàn, đồng thời làm đơn xin học bổng (Pell Grant, khoảng
$7,500 lúc đó). Cô thư ký, tên Robandt, rất tử tế, bảo chàng về nhà làm và nộp
một bảng affidavit, kê rõ những năm và những môn đã học tại Saigon. Cô cũng đề nghị chàng đi gặp trưởng Ban Pháp văn,
GS Claudine Fisher, người Pháp
chính hiệu. Nói ba điều bốn chuyện với bà bằng
Pháp ngữ trong mười lăm phút. Hai tuần sau, nhận được
kết quả, không ngờ, làm chàng hơi thất vọng: chàng
không được học BA, nghĩa là mất tiền học bổng.
Mà phải học MA. Từ đó Claudine là giáo sư của chàng, nay trở thành người bạn lớn
thân thiết, đã nghỉ hưu, có thời làm Lãnh sự Pháp tại Portland, và nhân chứng
trong lễ hôn phối của vợ chồng chàng. Một mùa hè, trong một chuyến Âu du, Nguyễn
đến Bordeaux, ghé chơi mười ngày tại nhà Claudine và bà cụ thân mẫu –là văn sĩ
có hạng, trên 80 tuổi vẫn còn viết truyện cho thiếu nhi– ở làng Castillonnès
(nay đã mất).
Hôm sau, Paul Kính chở chàng đến US Bank, mượn student loan, do anh ký
giấy đứng tên chung. Sau này, chàng mới biết, thời nào cũng vậy, không dễ gì
tìm một người chịu co-sign cho mình về tài chánh, anh em còn sợ, còn lừa
gạt nhau, huống chi bạn bè mới quen. Phải có tấm lòng nhân hậu, tin người lắm
Kính mới sẵn sàng, vô điều kiện, đồng ký cho chàng, một “kẻ xa lạ” trên răng dưới
giày garage sale. Món nợ nhà băng ấy chàng đã trả hết trong hai năm, từ
sau ngày ra trường, đi dạy Đại học. Nhưng món nợ tinh thần biết bao giờ mới trả
xong? Cũng như đối với Phạm Văn Tải, tiền nợ mua xe chàng đã trả góp đầy đủ, nửa
năm sau đó, nhưng ơn nghĩa đã “cưu mang” chàng những ngày còn hàn vi tại Mỹ,
làm sao quên được?
Nguyễn nhập học Fall 85, sau chín tháng đặt chân tới Mỹ. Không trở ngại về môn
Pháp văn. Chàng học chung lớp Education với Tou Meksavanh, cô người Lào dễ
thương, một hiệu trưởng tương lai của Khu Học Chánh Portland, mà bây giờ vẫn là
bạn thân. Vì nôn nóng ra trường, chàng dồn hết 45 tín chỉ (credit) vào một niên
học, gồm 15 tín chỉ bắt buộc cho ba lớp Education, giảng bằng Anh ngữ, khó hơn
–mà các giáo sư cho phép chàng đem máy vào lớp thâu băng, về nhà nghe lại.
Spring 86, sau khi viết xong hai tiểu luận (thesis) về Ngữ Học và về Văn Chương
Pháp, chàng được nhận bằng MAT (MA in Teaching) với straight A, giấy
khen “học xuất sắc” của trường, và những bài ca ngợi trên báo Mỹ. Phần Nguyễn rất
vui mừng được trút gánh nặng trong chặng đầu của cuộc hành trình làm lại cuộc đời
từ con số không, nhờ các quý nhân phù trợ –mà Thượng Đế gửi đến, như đã an bài
từ trước.
PSU, Hè 1986, lễ ra trường. Nguyễn được vinh
danh cùng với 12 sinh viên khác
Có bằng rồi, chàng muốn đi dạy ngay, để kiếm tiền. Claudine và Kính khuyên, sẵn
trớn nên học Ph.D luôn. PSU không có chương trình Tiến sĩ Pháp văn. Phải xuống
University of Oregon (UO),
Eugene, học tiếp.
Chàng nộp đơn, và một ngày hè 1986, Kính chở chàng xuống Eugene, cách Portland hai giờ lái xe, gặp giáo sư Françoise
Calin, cũng người Pháp, Trưởng Khoa Romance Languages. Chàng được nhận học miễn
phí, với điều kiện buổi sáng phải dạy hai lớp Pháp văn, có lương, và buổi chiều
đi học.
4. University
of Oregon (UO), Eugene, những mùa thu cô liêu
Eugene là một
thị trấn nhỏ mà mọi sinh hoạt quy tụ vào trung tâm náo nhiệt duy nhất, trường
UO. Fall 86, chàng đến trường trình diện để dạy và học. Như một công chức thứ
thiệt, sáng sớm lái ô (tô) đi, tối mịt lái ô về. Về, chỉ để ngả lưng trên chiếc
couch tróc cả nệm, trước đây đã chịu trận dưới bao nhiêu bàn tọa đủ cỡ,
trong một phòng trọ bình dân. Ăn sáng, trưa, chiều ở cafeteria trường,
hoặc những quán “quốc tế” trên con phố kế cận campus. Cô đơn đến rợn người, nhất là những đêm mưa rả rích ngoài
hiên. Bồ bịch không có. Anh em, bạn bè mỗi người một nẻo. Mẹ già, em gái còn
bên trời cũ. Chỉ gặp lại một cô waitress
người Việt, quen trong thời chiến tranh lúc cô còn bé xíu (cf. bài “Buôn Hô, nỗi nhớ”, 2019). Nhưng có lẽ nhờ không vướng bận gia đình và sinh kế chàng
mới có thể chú tâm vào việc học, chứ tự thấy chẳng tài giỏi hơn ai. Những lúc mệt
mỏi, chán chường, muốn bỏ cuộc thì tiếng cười nhạo của ông bác sĩ Salem lại réo bên tai,
thúc giục chàng đứng lên, tiếp tục. Bạn học trong Romance Languages (RL, tiếng
Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Roumanie) đến từ các nước Âu Châu và Nam Mỹ,
Pháp nhiều nhất, ai cũng vui vẻ, trong số có vài người thân thiết từ hồi PSU,
như Marie-Claire, đầm chính cống. Hai lớp chàng dạy đông sinh viên, đa số là Mỹ,
một số người Á đông, Trung đông, không có Việt Nam. Françoise bắt tụi chàng giảng
và nói tiếng Pháp cho “sinh viên nghe quen”. Mỗi
chiều thứ sáu, học xong lớp cuối, chàng phóng xe đi Portland, ghé đâu đó uống rượu
với bạn bè, và được ba chị em Yên Hà (Mai, Đức, Yến) mời về nhà nghỉ.
Chương trình học gồm bắt buộc 45 tín chỉ, một sinh ngữ Romance thứ hai, hoặc cổ
ngữ Latin, và một luận án, thời hạn tối thiểu bốn năm. Nguyễn học xong các tín
chỉ chỉ sau hơn một niên học, cũng straight A, như tại PSU. Vì xong sớm
quá, theo luật lệ của Trường, phải làm đơn xin châm chước để được bắt đầu viết
luận án, thay vì ngồi chờ cho đến hết năm thứ ba, như qui định. Hè 1988, chàng
được PSU, qua Claudine, mời dạy một lớp Văn chương Pháp cho sinh viên BA, như một
giáo sư thỉnh giảng, lương hậu. Hè 1989, được học bổng Gilbert Chinard,
Institut Français de Washington, đi Paris, và Grenoble, quê hương của Stendhal
(tác giả mà chàng chọn viết cho luận án), để sinh hoạt với Stendhal Club, viếng
thăm ngôi nhà cũ và nghiên cứu những bản văn viết tay của văn sĩ. Đồng thời, tu
nghiệp một năm Sư phạm tại Đại Học Grenoble, tức Stendhal III, ăn ở ngay
trong cư xá trường.
Dư
thời gian, chàng chuẩn bị luận án rất kỹ, tìm tài liệu đầy đủ cũng như soạn dàn
bài tỉ mỉ.
1988, UO, Eugene tại cafeteria.
Trên nguyên tắc, tất cả luận án phải viết
bằng tiếng Anh. Chàng lại phải làm đơn, lần này, cũng như các bạn đồng môn
Pháp, xin phép được viết bằng Pháp ngữ. Cứ xong mỗi 50 trang luận án chàng phải
nộp cho bà giáo sư bảo trợ còn trẻ tên Evelyn xem, mới được viết tiếp. Bà là
người Mỹ, tiến sĩ Pháp từ Stanford mới đến UO nhậm chức, rất khó
chịu về lối viết “hiện đại” của chàng với những câu đôi khi
chỉ có ba, bốn chữ, mà bà cho là “cẩu thả” và “sai văn phạm” và bắt phải có đầy
đủ chủ từ, động từ, túc từ như trong câu tiếng Anh. Lúc ấy, chàng “khổ sở” lắm,
nhưng không có sự chọn lựa vì các giáo sư người Pháp, trong RL Department, như Françoise Calin, không nhận
bảo trợ thêm sinh viên. Sau này, trước khi
đưa luận án cho giáo sư Victor del Litto, Hội trưởng Stendhal Club, xem và in, chàng
đã phải sửa lại hết cho đúng
văn phong Tây.
Vừa xong 250 trang thì nghỉ hè. Chàng trả
phòng, chất hết đồ đạc lên xe, đi Portland, và được gia đình Yên Hà mời đến ở free
dưới basement, rất mát mẻ và yên tĩnh, để đánh máy tiếp. Buổi trưa chàng
kiếm gì ăn qua loa, buổi tối Mai đem cơm hộp từ tiệm về cho. Ngày tháng trôi
đi, khá êm đềm, như dòng sông nhỏ. Ba tháng sau, trở lại Eugene, luận án, có tựa La prison dans
l’œuvre romanesque de Stendhal (Tù ngục trong tiểu thuyết của Stendhal),
hoàn tất, dày 500 trang. Sửa chữa xong, đưa hết cho bà bảo trợ. Bà hiệu đính mấy
điểm, bắt bẻ vài điều, rồi đồng ý cho trình vào đầu Fall 90. Buổi trình luận án
diễn ra trước Ban Giám Khảo gồm năm giáo sư trong và ngoài Khoa Romance Languages, và rất đông sinh
viên. Kính cũng có mặt. Chàng đậu với lời khen của Ban Giám Khảo. Hết học,
nhưng phải ở lại UO dạy cho xong niên khóa.
5. Cheney,
còn buồn nào hơn
Đậu tiến sĩ rồi, sau năm năm định
cư tại Mỹ, Nguyễn thấy hả hê, và tự ái thỏa mãn vì đã xây lại cuộc đời bầm dập
thành đẹp hơn mơ ước. Rồi ngày vui qua mau. Dần dần, chàng nghiệm ra rằng bằng
tiến sĩ, ngoài giá trị cao nhất, không thể phủ nhận, của học vấn và kiến thức về
một bộ môn, cũng chỉ là một phương tiện, hay điều kiện, mưu sinh cần thiết
trong một xã hội đặt nặng nhu cầu thực tiễn, và nói theo kiểu bình dân, chỉ là
“cái cần câu cơm”. Chưa kể, chàng nghĩ thêm, bằng tiến sĩ Romance Languages (Pháp
và Latin) của chàng có thể chỉ là một danh hư, vì đối với người Mỹ ưa chuộng thực
dụng, phát minh và sáng chế được những điều hữu ích cho con người mới xứng đáng
được đời xưng tụng. Kìa như Bill Gates, hay Steve Jobs, là những nhân tài mà cả
thế giới mang ơn, ngưỡng mộ, nhưng không có bằng cấp cao, vì bỏ học ngang.
Dù vậy, trước khi tốt nghiệp, theo truyền thống, Nguyễn đã gửi đơn xin dạy
tại các trường đại học trên toàn quốc đã loan báo có chỗ trống (rất ít, trên dưới một trăm, so với tổng số mấy
ngàn trường, vì những ông bà giáo sư già cổ thụ cứ ôm chặt cái job, không chịu nhả ra, để về hưu, cho lớp trẻ
nhờ) và được Lewis and Clark College, Portland, OR và
Eastern Washington University (EWU), Cheney, tiểu bang WA, chọn
phỏng vấn chung kết và nhận dạy. Được thế là may lắm rồi, bởi vì nhiều khi các
đại học Mỹ đều có ứng cử viên “nằm vùng” sẵn trong trường, người ngoài khó lọt
vào, có nghĩa, thông báo cho toàn quốc, phỏng vấn chỉ là thủ tục bắt buộc bởi
luật pháp. Trong khi đó, trường Harvard cũng gửi thư mời chàng, và tất cả các
sinh viên tốt nghiệp khác của UO, theo học chương trình post-doctoral, mà chàng cũng không muốn đọc kỹ, để hiểu rõ, vả lại chàng rất sợ phải học nữa,
nên không ghi danh. Suy nghĩ mãi, chàng chọn EWU, miền đất lạ.
Cuối hè 1991, trên đường đi Cheney nhận nhiệm sở, ngang Salem, chàng ghé bệnh viện, xin gặp ông bác
sĩ cũ. Ông không nhận ra chàng. Lúc này, tiếng Anh của chàng lưu loát và đúng
giọng hơn, và tuổi đã cao hơn. Chàng kể lại chuyện xưa và tiếng cười mà chàng cho
là nhạo báng của ông sáu năm trước. Ông từ từ nhớ lại, và bảo “sorry, tôi đã vô ý gây buồn phiền cho
anh”. Chàng đưa ông xem bằng Ph.D và lá
thư trường EWU “mời” dạy. Ông bắt tay chàng, thành thật chúc mừng. Tự nhiên bao
nhiêu bực tức, cay đắng dồn nén bấy lâu bỗng tan thành mây khói. Lòng lắng xuống,
chàng xúc động nói: “Không, tôi ghé đây để thăm ông, và nhắc chuyện cũ cũng chỉ
để cám ơn ông đã vì câu nói, tiếng cười vô tình khuyến khích tôi đi học lại và
mới được có ngày hôm nay.” Hai người ôm hug nhau, cùng cười vang.
Chàng ở lại Portland
hai bữa để từ giã ân nhân, bạn bè. Phải mất gần một ngày mới đến Spokane bởi không quen đường,
lạc vài freeway. Nghỉ khỏe, hai hôm sau mới tới “làng đại học” Cheney,
buồn hắt hiu, cách thành phố Spokane
15 dặm. Vào trường trình diện và được chỉ định mỗi ngày dạy hai lớp Pháp văn và
một lớp Latin. Ai cũng niềm nở, trừ Trưởng khoa Modern Languages, tên P., xếp
trực tiếp của chàng, Mỹ da trắng, nhưng cổ đỏ (red neck, kỳ thị), rất lạnh nhạt. Một bố già
đồng nghiệp, gốc Hòa Lan, lắm chuyện, rỉ tai mách rằng, P. là người duy nhất đã
bỏ phiếu không mướn chàng trong lần phỏng vấn chung kết: “Anh ta ghét người Việt
Nam, vì có người em tử trận tại Việt Nam”. Điều này chính gã, không hiểu sao,
cũng nói thẳng thừng với chàng khi lần đầu chàng đến chào xã giao tại văn
phòng. Chàng nói: “Tôi sorry về cái
chết của em ông. Nhưng đó không phải lỗi của chúng tôi, và ông nên nhớ, chiến
tranh Việt Nam không do Miền Nam gây ra, mà do chính Tổng thống John Kennedy của
các ông đã muốn đưa quân Mỹ vào Việt Nam tham chiến trực tiếp, và bị Tổng thống
Diệm của chúng tôi chống đối. Kennedy đã ra lệnh giết ông, để tha hồ đưa cả trăm
ngàn quân Mỹ, trong số có em ông, vào Việt Nam”. Nguyễn tức lắm, và tiếc không
biết trước, nếu biết, chàng đã mang theo máy
thâu băng cuộc nói chuyện, để sau này trưng ra làm bằng chứng tố gã về tội kỳ thị.
Chàng đề phòng P. từ đó. Dạy chăm chỉ và cẩn
thận để tránh sai sót. Tự nhủ: “Chưa chi mà đã gặp rắc rối!”. Sang năm thứ hai,
cuối Winter 92, rắc rối xảy ra thật. Số là một hôm, gã vào văn phòng chàng,
chìa ra tờ phiếu điểm cuối term của một lớp Pháp văn, trong đó chàng đã
cho một nam sinh viên một con F to tướng. Chàng giải thích, sinh viên này không
bao giờ vào lớp, và bỏ trống bài test. Gã nói: “Nhưng anh nên biết anh ta
là cầu thủ football của trường, và mỗi
năm đội bóng đem về cho trường cả triệu đô. Anh xem có thể sửa lại điểm F thành
C được không?” Dĩ nhiên, Nguyễn có thể làm theo yêu cầu, dễ dàng, mà chả ai biết.
Nhưng bất thần sực nhớ lại việc gã bỏ phiếu chống chàng và tuyên bố ghét người
Việt Nam, chàng nhất quyết từ chối –điều mà bây giờ chàng vẫn tự hỏi mình đã làm đúng
không, về mặt phải đạo chính trị (politically correct), hiểu theo
nghĩa rộng: “Sorry, tôi không sửa, chàng
nói. Nếu ông muốn sửa, ông có thể tự tay sửa lấy trước mặt tôi, và ký tên ông
vào!” Biết trên đời không ai có cái quyền ấy, ngoài
chàng,
gã đứng lên, giận dữ bỏ đi, đóng sầm cửa. Sau đó chơi đòn thù và bẩn: phê điểm chàng
rất xấu, nào là bắt sinh viên học quá mức, quá khó, không đúng đường lối của
trường, nào là thiên vị những sinh viên học giỏi,
không quan tâm đến những sinh viên học kém… Gã cẩn thận dùng chữ “cảm nhận”
(perception, I have the perception that...), để khỏi nêu ra bằng chứng cụ
thể. Mặc dù thế, chiến tranh lạnh đã bắt đầu, mà Nguyễn biết “kẻ thắng cuộc” sẽ
không phải là chàng.
6. Paris, thà một
phút huy hoàng
Cũng trong thời gian này, chàng được Rotary Club khu hội Antony, mà một hội viên
là bạn của Claudine, mời đến Paris, mùa hè 1991, thuyết trình về “Tù ngục tại
Việt Nam”.
Rồi ngày 21-22 tháng 3, 1992, nhân cuộc hội thảo tưởng niệm lần thứ 150 ngày mất
của Stendhal, và nhờ luận án về văn sĩ này, chàng được Mairie de Paris và
Stendhal Club mời, và xin nghỉ dạy một tuần, qua
Paris, như giáo sư đại diện duy nhất cho các đại học Mỹ, để
Nguyễn thuyết trình về Stendhal tai Paris
thuyết
trình cùng với 23 giáo sư trên thế giới, gồm vài nhà văn, giáo sư nổi tiếng
Sorbonne Michel Crouzet và ông hàn lâm Jacques Laurent. Buổi hội thảo được đặt dưới sự chủ tọa của Tổng thống François
Mitterrand. Chàng được ông bắt tay, khen ngợi và thăm hỏi ân cần. Bài thuyết
trình của chàng được in thành sách, bên cạnh bài của những giáo sư khác, bày
bán tại Paris.
Nếu
vinh dự có thật, thì đây mới là vinh dự bất ngờ, được xem như tột đỉnh của đời chàng
–một tù nhân cải tạo, ngày nào còn hốt phân trong tù, một thuyền nhân, một tỵ nạn
viên mà ngày nào cuộc đời còn phủ đầy bất hạnh. Vinh dự hơn cả ngày được nhận bằng
tiến sĩ. Luận án của chàng được nhà xuất bản Droz, Genève nhận in, do Stendhal
Club giới thiệu. Thà một phút huy hoàng…như trong thơ Xuân Diệu, sau bao
nhiêu tăm tối, khổ lụy, ê chề, cay đắng, kể từ ngày nước mất nhà tan, 30/4/1975.
Tổng thống Mitterrand chủ tọa buổi hội thảo về
Stendhal, tháng 3, 1992
Trở về Cheney sau buổi hội thảo Paris,
chàng dạy tiếp cho đến hết
niên học 1992, dưới cặp mắt dòm ngó khó chịu của gã Trưởng khoa hắc ám. Mặc dù có sự ủng hộ và thương mến của sinh viên, rất hãnh diện
về sự thành công của chàng tại Paris,
Nguyễn nộp đơn từ chức. Để đi tìm một mảnh
không gian khoáng đãng và thân thiện hơn. Và về lại tiểu bang Oregon,
mà chàng xem như mối tình đầu –đã mở rộng vòng tay, đón nhận, dẫn dắt và nâng đỡ
chàng trên bước đường làm lại cuộc đời tại Mỹ quốc.
Portland, ngày 4/6/2017
Nghe đọc thêm một số bài viết khác cùng tác giả.
Biết rồi, khổ lắm, nói mãi... (người lính già oregon) Ngô Đình Lệ Thủy, hồng nhan mệnh yểu (kim thanh) Thế giới của Hoa Azer (kim thanh) Trịnh Công Sơn, người bạn, kẻ đối nghịch (Kim Thanh) Đá nát vàng phai (Kim Thanh)
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire