* Ca trù - Một loại hình nghệ thuật độc đáo
đăng 10:48 23-10-2010 bởi Thuan Khuc [ cập nhật 10:40 12-03-2013 bởi Nguoi gac vuon Ngv ]
Ca trù là một trong những loại hình âm nhạc truyền thống của Việt Nam.
Xuất hiện vào đầu thế kỷ XVI, trải qua những biến cố thăng trầm lịch sử,
có lúc tưởng chừng như không thể tồn tại được, nhưng với những đặc trưng
về loại hình nghệ thuật độc đáo, sự phối hợp tuyệt vời giữa ca từ và giọng
hát hoà cùng các nhạc khí: phách, đàn đáy, trống chầu… cho tới ngày nay,
ca trù đã khẳng định được vị trí quan trọng không chỉ của Việt Nam mà của
cả nhân loại. Đây là môn nghệ thuật dân gian đang được Việt Nam đề nghị
UNESCO công nhận là di sản văn hoá phi vật thể của nhân loại.
Ca trù còn có rất nhiều tên gọi.Tuỳ từng địa phương, từng thời điểm mà hát
ca trù còn gọi là hát ả đào, hát cô đầu, hay hát nhà tơ…tuy nhiên dù có
tồn tại ở dạng tên gọi nào thì sự tồn tại của ca trù luôn gắn liền với các
đào nương “ không có đào nương bất thành ca trù, khi nói đến ca trù không
thể không nói tới đào nương”. Để trở thành một đào nương cũng không phải
là chuyện dễ, phải hội được nhiều tiêu chuẩn khắt khe như giọng hát, năng
khiếu âm nhạc (thẩm âm, gõ phách), tri thức âm nhạc và văn thơ, lòng đam
mê và kiên trì...sự tồn tại của ca trù được quyết định bởi chính các đào
nương. Các đào nương chính là những người chuyền tải và thể hiện những cái
hay, cái đẹp, cái độc đáo của ca trù, giúp ca trù tồn tại cho đến ngày
nay.
Ca trù được tổ chức chặt chẽ thành phường, giáo phường, do trùm phường và
quản giáp cai quản. Ca trù có qui chế về sự truyền nghề, cách học đàn học
hát, có những phong tục trong sự nhìn nhận đào nương rành nghề, như lễ mở
xiêm áo (thầy cho phép mặc áo đào nương để biểu diễn chánh thức lần đầu
tiên trong đình làng gọi là Hát cửa đình), có nhũng qui chế về việc chọn
đào nương đi hát thi (ngoài tài năng và sắc diện cần phải có đức hạnh
tốt). Các cuộc Hát thi và phát giải được tổ chức rành rẽ, các lễ hội được
cử hành rất nghiêm chỉnh.
Ca trù được bắt nguồn từ dân ca, dân nhạc cộng với một số trò diễn và múa
dân gian. Ca trù lúc khởi thủy cũng như trong một thời gian khá dài là một
bộ môn nghệ thuật tổng hợp, bao gồm nhạc, thơ, múa và trò diễn. Chính vì
vậy độc đáo của ca trù chính là sự phối hợp đa dạng, tinh vi, nhuần chuyễn
giữa thi ca và âm nhạc, đôi khi có cả múa.
Loại hình
Hầu hết các loại hình nhạc cổ Việt Nam đều có sự phối hợp giữa thơ và nhạc
như: vè, đồng dao có thơ 3, 4 chữ, các bài hát ru, hò, lý, các làn điệu
chèo thường là thơ lục bát, lục bát biến thể hay song thất lục bát. Không
chỉ có vậy, ca trù là một loại nhạc thính phòng, như ca Huế miền Trung, ca
Tài tử miền Nam. Nhưng trong các loại nhạc thính phòng này, bài ca có
những nét nhạc cố định, nếu đặt lời mới cũng phải tuân theo nét nhạc đó,
còn ca trù giai điệu không cố định mà tùy theo thanh giọng của lời thơ, vì
vậy mà trong các bài Gửi thư, Hát ru, Bắc phản, Mưỡu… có những giai điệu
khác nhau, cùng một thể hát nói nhưng có rất nhiều bài. Mỗi loại thơ đều
có nét nhạc và tiết tấu đặc biệt tạo ra nhiều thể trong ca trù.
Đặc biệt trong ca trù thanh nhạc và khí nhạc đi song song với nhau và mỗi
loại đều có nét đặc thù. Về thanh nhạc, ngoài hát tuồng có những kỹ thuật
phong phú và độc đáo còn các bộ môn ca nhạc cổ truyền khác đều không có kỹ
thuật thanh nhạc phức tạp, tinh vi như ca trù. Thể hiện rõ nhất là khi đào
nương cất tiếng hát, kỹ thuật hát rất điêu luyện, không cần há to miệng,
không đẩy mạnh hơi từ buồng phổi mà ém hơi trong cổ, ậm ự mà lời ca vẫn rõ
ràng, tròn vành rõ chữ. Hát trong cửa đình không cần ngân nga. Hát chơi có
cách đổ hột, đổ con kiến làm cho tiếng hát thêm duyên, có khi như tiếng
nức nở, thở than quyện vào lòng người.
Nhạc cụ
Trong ca trù bên cạnh thanh nhạc thì khí nhạc cũng hết sức quan trọng và
đặc biệt. Khí nhạc gồm: cỗ phách, đàn đáy, và trống chầu. Cỗ phách chỉ là
một thanh tre hay một mảnh gỗ gọi là bàn phách và hai chiếc dùi gỗ là
phách cái và phách con. Gõ hai dùi vào cỗ phách tạo nên tiếng trầm tiếng
bổng, tiếng mạnh, tiếng nhẹ, tiếng thấp, tiếng cao, tiếng trong, tiếng
đục, tiếng dương, tiếng âm...Người biểu diễn cũng hết sức nhịp nhàng, tay
cầm phách cái, phách con, tay đưa lên cao, tay đưa xuống thấp uyển chuyển
như múa.
Không thể không nói đến một loại nhạc cụ quan trọng, đó là đàn đáy được
dùng trong ca trù. Thùng đàn hình chữ nhật hay hình thang, mặt đàn bằng
cây ngô đồng, có mặt mà không có đáy, cần rất dài, gắn 10 hay 11 phím bằng
tre rất cao, phím đầu ở ngay giữa bề dài của dây đàn. Đàn mắc 3 dây tơ, có
cách nhấn khác thường, tiếng vê, tiếng vẩy, tiếng lia, lúc chân phương khi
dìu dặt, dễ đi vào lòng người.
Góp thêm âm hưởng là trống chầu: trống chầu trong ca trù cũng khác với
trống chầu trong Tuồng, Hát bội...cả ở kích thước lẫn cách đánh. Kích
thước và hình thức của trống chầu rất gần với trống đế của chèo nhưng cách
đánh và chức năng hoàn toàn khác. Dùi trống không gọi là “dùi” mà gọi là
“roi chầu”. Roi chầu bằng gỗ, dài hơn dùi trống khách. Người gõ trống
(quan viên) phải là người sành về ca trù phải là người am hiểu thấu đáo âm
luật Ca trù mới có thể cầm roi được. Người đánh trống ít nhất phải biết 5
phép trống dục, 6 phép trống chầu và nhiều cách biến hóa khác nữa. Khi đã
cùng hòa trong một canh hát thì tiếng trống sẽ trở thành nhạc cụ thứ ba
sau phách và đàn nhằm tôn vinh tiếng hát với lời thơ. Tất cả trở thành một
bản hòa tấu vô cùng phong phú của nhiều âm sắc, nhiều tính nǎng khác nhau
và luôn có sự thay đổi, biến hóa không ngừng.
Ca trù được thế giới biết đến
Ca trù đã được cơ quan, tổ chức quốc tế tôn vinh và xuất bản dưới dạng đĩa
hát. Tổng thư ký Hội đồng
quốc tế Âm nhạc thuộc Unesco Jack Bornoff, Giám đốc Viện quốc tế nghiên
cứu Âm nhạc với phương pháp đối chiếu tại Tây Bá Linh (Đức), GS Alain
Danielou đã tặng Bản danh dự cho NSND Quách Thị Hồ, người đã tham gia vào
việc thực hiện đĩa hát Ca trù và
Quan họ do Unesco phát hành. Đĩa hát nầy được Unesco gởi tặng trên 400
trường Đại học và Nhà Văn hoá của nhiều nước Âu, Á,
Mỹ, Úc, Phi.
Năm 1994 tại Paris, đĩa Ca trù do Nhà Văn hoá Thế giới phát hành với sự
tham gia của nhóm Ca trù Thái Hà được Laurent Aubert, nhà phê bình báo Thế
giới Âm nhạc (Le Monde de la Musique) xếp hạng “Choc” (chấn động), hạng
cao nhất.
Năm 1985, Ca trù là 1 trong 9 tiết mục được tuyển lựa vào Diễn đàn âm nhạc
châu Á do Unesco tổ chức tại Bình Nhưỡng (CHDCND Triều Tiên).
Ngoài ra, ca trù còn được nhiều nhạc sĩ, nhạc học gia nước ngoài theo học,
tìm hiểu, nghiên cứu: TS Barley Norton (Anh) Thạc sĩ Alienor Anisensel
(Pháp) GS Stephen Addiss (Mỹ)... Ca trù được giới thiệu tại Đại học
Sorbonne Paris, Đại học Hawaii at Manoa Honolulu (GS Trần Văn Khê thuyết
giảng).
Nghệ thuật ca trù của Việt Nam đã bộc lộ được sự quyến rũ, thanh tao và
độc đáo. Những đặc trưng riêng biệt của nó đã tạo nên sự độc nhất vô nhị
không có ở bất kỳ loại hình nghệ thuật nào. Hơn nữa, ca trù còn có bề dầy
lịch sử, chiều sâu nghệ thuật, được sự đón nhận nồng hậu của người trong
nước và nước ngoài, sự tôn vinh và tài trợ của các tổ chức quốc tế, rất
xứng đáng được Unesco công nhận là di sản văn hoá phi vật thể của nhân
loại trong tương lai.
Nhạc sĩ: Phó Đức Phương
Ca sĩ: Thanh Lam
Đây là bài hát mang nét Ca trù trong Tân nhạc..
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire