SÀI GÒN I với người Hoa
Sau
1975 Sài Gòn bị đổi tên, nhưng điạ danh Sài Gòn đã in sâu trong tâm hồn
người dân miền Nam luôn yêu quý, và Sài Gòn không bao giờ bị lãng quên.
Ông Vương Hồng Sển (1902-1996), là một nhà văn, học giả, nhà sưu tập đồ
cổ nổi tiếng. Ông viết nhiều tác phẩm biên khảo giá trị đóng góp rất
lớn vào kho tàng văn học nước nhà. Tác phẩm viết về SÀI GÒN:
-SÀI GÒN NĂM XƯA ( tập I,II 1960 III 1992).
-TẠP PIN LÙ. Tiểu sử Vương Hồng Sển (1) và đọc 2 tác phẩm cuối bài (2) (3)
Những
tác phẩm viết về Sài Gòn, gợi cho chúng ta nhớ Sài Gòn một thời vang
bóng đã trải qua nhiều biến cố lịch sử. Mỗi lần nghe nhạc phẩm „Sài Gòn Ơi Vĩnh Biệt“ „Sài Gòn Niềm Nhớ Không Tên“ làm rung động con tim người viễn xứ luôn hướng về quê hương yêu dấu.
Hoamunich
post những bài về SÀI GÒN thường được độc giả trong và ngoài nước đọc
rất nhiều, anh Nguyễn Quý Định Hawaii chuyển bài “Ngôn Ngữ Sài Gòn“
của Nguyễn Ngọc Chính. Vì bài dài nội dung trải qua ba thời kỳ. Người
Hoa, Người Pháp, Người Mỹ. Hoamunich xin mạn phép lấy tựa là „SÀI GÒN
CHUYỆN XƯA TÍCH CŨ: I, II và III“ và có thêm vài tấm hình và nhạc trên
youtube để độc giả thưởng thức.
SÀI GÒN I
Có
thể nói, bất kỳ một ngôn ngữ trên trái đất này cũng đều trải qua hình
thức vay mượn từ các ngôn ngữ khác. Ảnh hưởng về văn hóa là một trong
những tác động chính trong việc vay mượn về ngôn ngữ. Ngoài ra, còn phải
kể đến các yếu tố khác như địa lý, lịch sử, chính trị và xã hội trong
việc hình thành ngôn ngữ vay mượn.
Miền
Nam nói chung và Sài Gòn nói riêng vốn là một “melting pot”, dễ dàng
hòa nhập với các nền văn hóa khác từ tiếng Tàu, tiếng Pháp và cuối cùng
là tiếng Anh. Có thể lấy bài hát Gia tài của mẹ của Trịnh Công Sơn để
giải thích sự vay mượn của ngôn ngữ Việt: “Một nghìn năm đô hộ giặc Tàu, một trăm năm đô hộ giặc Tây, hai mươi năm nội chiến từng ngày…”.
Như vậy, Việt Nam đã trải qua ba thời kỳ ảnh hưởng, lần lượt theo thứ
tự thời gian là của Tàu, sau đó đến Pháp và cuối cùng là Mỹ trong những
năm chiến tranh gần đây nhất.
Trước
hết, xin được bàn về ảnh hưởng của Trung Hoa mà ta thường gọi nôm na là
Tàu cùng những biến thể như Người Tàu, Ba Tàu, Các Chú, Khách Trú và
Chệt hoặc Chệc. Gia Định Báo (số 5, năm thứ 6, phát hành ngày 16/2/1870)
giải thích:
“…An-nam
ta kêu là Tàu, người bên Tàu, là vì khách thường đi tàu qua đây, lại
dùng tàu chở đồ hàng hóa qua đây buôn bán; nên kêu là Tàu, hàng Tàu, đồ
Tàu v.v… Từ Ba-Tàu có cách giải thích như sau: Ba có nghĩa là ba vùng
đất mà chúa Nguyễn cho phép người Hoa làm ăn và sinh sống: vùng Cù Lao
Phố (Đồng Nai), Sài Gòn-Chợ Lớn, Hà Tiên, từ Tàu bắt nguồn từ phương
tiện đi lại của người Hoa khi sang An Nam, nhưng dần từ Ba Tàu lại mang
nghĩa miệt thị, gây ảnh hưởng xấu…”.
“…Kêu
Các-chú là bởi người Minh-hương mà ra; mẹ An-Nam cha Khách nên nhìn
người Tàu là anh em, bằng không thì cũng là người đồng châu với cha
mình, nên mới kêu là Các-chú nghĩa là anh em với cha mình. Sau lần lần
người ta bắt chước mà kêu bậy theo làm vậy…”.
“…Còn
kêu là Chệc là tại tiếng Triều Châu kêu tâng Chệc nghĩa là chú. Người
bên Tàu hay giữ phép, cũng như An-Nam ta, thấy người ta tuổi đáng cậu,
cô, chú, bác thì kêu tâng là chú là cậu vân vân. Người An-Nam ta nghe
vậy vịn theo mà kêu các ảnh là Chệc …”
Cách
giải thích thuật ngữ nói trên của Gia Định Báo từ thế kỷ thứ 19 được
coi là tạm ổn vì đây là một trong những tài liệu xưa có xuất xứ từ miền
Nam. Theo Lê Ngọc Trụ trong Tầm nguyên Tự điển Việt Nam, chệc hay chệt
là tiếng Tiều gọi chữ thúc, nghĩa là “em trai của cha”. Người
bình dân gọi Chệc để chỉ chung người Hoa. Người Quảng Đông cho là gọi
như thế có ý miệt thị, người Triều Châu trái lại, chấp nhận vì họ được
tôn là chú. Ở miền Nam, “các chú” Quảng làm ăn buôn bán khá hơn “các chú
chệc” người Tiều lam lũ trong nghề làm rẫy, tằn tiện nên không biết có
phải vì vậy mới có câu:
Quảng Đông ăn cá bỏ đầu
Tiều Châu lượm lấy đem về kho tiêu!
Người
Tiều lại chê dân Quảng không biết ăn cá. Họ nói món cháo cá Tiều khi ăn
có vị ngọt đặc biệt nhờ chỉ rửa sạch bên ngoài, giữ lại nguyên si vảy,
đầu và cả ruột! Dân Tiều ở miền Nam “chuyên trị” những món cá chim hấp,
bò viên, tôm viên, ruột heo nấu cải chua… và nhất là món hủ tíu Tiều
Châu. Người ta còn dùng các từ như Khựa, Xẩm, Chú Ba… để chỉ người Tàu,
cũng với hàm ý miệt thị, coi thường. Tuy nhiên, có sự phân biệt rõ ràng
trong cách gọi: phụ nữ Tàu được gọi là thím xẩm còn nam giới thì lại là
chú ba.
Năm
1956, chính phủ Ngô Đình Diệm của nền Đệ nhất Cộng hòa (1955-1963) đã
có một quyết định khá táo bạo, buộc tất cả Hoa kiều phải nhập quốc tịch
Việt Nam, nếu không sẽ bị trục xuất. Thương nghiệp tại miền Nam sau thời
Pháp thuộc phần lớn nằm trong quyền kiểm soát của Hoa kiều. Vì vậy,
chính phủ cố tạo sức mạnh cho doanh nhân Việt bằng cách hạn chế quyền
lợi của người Hoa. Đạo luật 53 cấm ngoại kiều (nhắm vào Hoa kiều) tham
gia 11 nghề liên quan đến thóc gạo, điền địa, buôn bán thịt cá, than đá,
dầu lửa, thu mua sắt vụn… được Chính phủ Ngô Đình Diệm ban hành vào
tháng 9/1956. Đạo luật này đã làm xáo trộn kinh tế trong nước nhưng đã
có tác động mạnh đến nền công thương nghiệp của người Việt vào thời kỳ
đó. Đa số người Hoa đã nhập tịch Việt, tính đến năm 1961, trong số 1
triệu Hoa kiều ở miền Nam chỉ còn khoảng 2.000 người giữ lại Hoa tịch.
Người
Tàu kiểm soát gần như toàn bộ các vị trí kinh tế quan trọng, và đặc
biệt nắm chắc 3 lĩnh vực quan trọng: sản xuất, phân phối và tín dụng.
Đến cuối năm 1974, họ kiểm soát hơn 80% các cơ sở sản xuất của các ngành
công nghiệp thực phẩm, dệt may, hóa chất, luyện kim, điện… và gần như
đạt được độc quyền thương mại: 100% bán buôn, hơn 50% bán lẻ, và 90%
xuất nhập khẩu. Hoa kiều ở miền Nam gần như hoàn toàn kiểm soát giá cả
thị trường. Cũng vì thế, ở Sài Gòn có câu mỉa mai: “Sống phá rối thị trường, chết chật đường chật xá”
để ám chỉ người Tàu khi còn sống lũng đoạn nền kinh tế và đến lúc chết
lại tổ chức những đám ma một cách rình rang. Cũng như người Tàu ở Hồng
Kông và Macao, người Tàu ở miền Nam đa số nói tiếng Quảng Đông
(Cantonese) chứ không nói tiếng Quan Thoại(Mandarin) mà ngày nay gọi là
tiếng Phổ Thông. Cũng vì thế, ngôn ngữ Sài Gòn xưa vay mượn từ tiếng
Quảng Đông được khoảng 71 triệu người Hoa trên khắp thế giới xử dụng.
Người
Sài Gòn thường ví những người “ăn nói không đâu vào đâu” là “nói hoảng,
nói tiều” thực ra là “nói tiếng Quảng Đông, nói tiếng Triều Châu”. Điều
này cho thấy tiếng Quảng Đông xuất hiện rất nhiều trong ngôn ngữ miền
Nam trước năm 1975, kế đến mới là tiếng Triều Châu. Trên thực tế, người
Tàu có đến 5 nhóm Hoa kiều, được gọi là Ngũ Bang tại miền Nam: Quảng
Đông, Triều Châu, Phúc Kiến, Hải Nam và Khách Gia (người Hẹ). Trong lĩnh
vực ăn uống của Sài Gòn xưa, ảnh hưởng của người Tàu gốc Quảng Đông rất
đậm nét. Người ta thường nói về 4 cái thú: “Ăn cơm Tàu, ở nhà Tây, lấy vợ Nhật Bản, đi xe Huê Kỳ”. Bên Tàu lại ví von: “Thực tại Quảng Châu, Y tại Hàng Châu, Thú tại Tô Châu, Tử tại Liễu Châu”
(Cơm ngon ăn tại Quảng Châu, Áo đẹp may vải Hàng Châu, Vợ xinh cưới ở
Tô Châu, Hòm chết chôn không bao giờ mục ở Liễu Châu ). Quảng Châu chính
là thủ phủ của tỉnh Quảng Đông.
Kết
hợp ý nghĩa của hai câu nói Việt-Trung ở trên ta có thể kết luận: ăn
uống theo người Tàu gốc Quảng Đông là hết xảy hay số dzách (số một),
những từ ngữ đã quá phổ biến trong xã hội miền Nam. Về sau, vào thời
chiến tranh Việt Nam, “số dzách” được cải biên theo kiểu Mỹ thành
“nâm-bờ oăn” (number one)! Hành trình của ngôn ngữ xem ra rất thú vị.
Nói cho công bằng, bên cạnh số đông các tửu lầu, cao lâu của người Tàu
gốc Quảng Đông, ở Sài Gòn Chợ lớn cũng có lai rai một số tiệm Tàu khác
như tiệm Hủ tíu Triều Châu ở đối diện Chợ Lớn Mới, Cơm Gà Hải Nam ở Chợ
An Đông hay đường Tôn Thọ Tường.
Theo
Bình-nguyên Lộc (1), thời tiền chiến trước 1945, các phổ ky trong tiệm
Tàu còn có kiểu kêu vào bếp những món ăn thực khách gọi y như người ta
gọi “lô-tô” (bingo), dĩ nhiên bằng tiếng Quảng Đông:
- Bàn số 3, bên Đông, bà lùn, cà phê ít sữa nhiều!
- Bàn số 4, bên Đông, hủ tíu không giá.
- Bàn số 1, bên Tây, thêm bánh bao ngọt thằng nhỏ.
- Bàn số 2, bên Tây, ông già râu, cà phê đen ly lớn, xíu mại to.
Chủ
tiệm thường biết rõ tính nết và sở thích ăn uống của mỗi khách quen,
nên họ thường đặt cho mỗi người một cái tên thuộc loại… “hỗn danh”. Khi
khách ăn xong lại quầy trả tiền thì phổ ky rao những câu hóm hỉnh bằng
tiếng Quảng Đông, chẳng hạn như:
- Ông đầu hói mang khăn rằn, một đồng hai cắc
- Bà hai mập, ba đồng sáu cắc
- Ông chủ ốm nón nỉ, tám đồng tư, hai bánh bao mang về
Nổi
tiếng tại Sài Gòn xưa có các nhà hàng Đồng Khánh, Arc-en-ciel (sau này
đổi tên là Thiên Hồng), Soái Kình Lâm, Bát Đạt, Á Đông, Đại La Thiên,
Triều Châu… Tại đây còn phục vụ loại “ăn chơi” theo cung cách nhất dạ đế vương. Quả thật người viết bài này chưa bao giờ được “làm vua một đêm”
nên đoán trong những bữa tiệc như thế phải có mỹ nữ hầu tửu, thực đơn
chắc chắn phải có nhiều món huyền thoại danh bất hư truyền về cái chất
bổ dương khích dục đi đôi với các thứ rượu quí như whisky, cognac và Mao
Đài tửu (Mao Đài hoàn toàn không có liên quan gì đến Mao Xếnh Xáng dù
ông có dùng rượu này để tiếp đãi các nguyên thủ quốc gia).
Cơm
Tàu thường được để trong những cái thố nhỏ nên được gọi là cơm thố, chỉ
là cơm trắng dùng chung với các món ăn nhưng không nấu bằng nồi mà chỉ
hấp cách thủy để cho chín gạo. Thông thường một người ăn chừng một hoặc
hai thố là no. Có người lại ca tụng ăn cơm thố chỉ cần chan chút hắc xì
dầu (nước tương đen) pha với dấm Tiều thêm chút ớt là đã thấy ngon rồi.
Nghĩ lại cũng đúng nhưng nếu ăn kiểu này thì những tiệm nổi tiếng như
Siu Siu bên hông chợ An Đông hay Siu Siu ở đầu hẻm Nguyễn Duy Dương
(hình như ở số nhà 61) chắc đã dẹp tiệm từ lâu rồi! Hình dưới đây là
những thố cơm chụp tại Quán Chuyên Ký trong khu Chợ Cũ đường Tôn Thất
Đạm. (Những thố cơm ngày xưa nhỏ hơn nhiều, ngày nay tiệm dùng những cái
thố quá lớn, không lẽ bao tử của thực khách ngày nay lớn hơn ngày
xưa?). Cơm chiên Dương Châu cũng là món ăn du nhập từ Quảng Đông. Nhiều
người rất khoái cơm chiên nhưng ít người biết từ khởi thủy đây chỉ là
món tổng hợp các thức ăn dư thừa được chế biến lại. Này nhé, cơm vốn là
“cơm nguội” nấu dư từ hôm trước, các phụ gia khác như jambon, trứng
tráng, đậu Hòa lan, hành lá…còn dư được xắt lát rồi trộn với cơm mà
chiên lên!
Cũng
thuộc loại thức ăn dư thừa có món tài páo (bánh bao). Bạn không tin ư?
Nhân bánh bao là thịt vụn được xào lên, trộn với lạp xưởng và trứng (sau
này được thay bằng trứng cút kể từ khi dịch cút lan truyền khắp Sài
Gòn, nhà nhà nuôi cút, người người ăn trứng cút). Vỏ bánh bao được làm
bằng bột mì, sau khi hấp chín bột nở phình ra trông thật hấp dẫn. Có
người bảo cơm chiên Dương Châu và bánh bao thể hiện tính tằn tiện và
tiết kiệm của người Tàu, không bỏ phí thức ăn thừa! Nói cho vui vậy thôi
chứ từ cơm chiên, bánh bao đến các loại sơn hào hải vị như bào ngư, vi
cá, yến sào… đều đòi hỏi cách chế biến, đó là nghệ thuật nấu ăn. Các
tiệm “cà phê hủ tiếu” của Tàu lan rộng ra nhiều nơi chứ không
riêng gì trong Chợ Lớn. Khắp Sài Gòn, Gia Định rồi xuống đến Lục Tỉnh đi
đâu cũng thấy những xe mì, xe hủ tiếu, chỉ nhìn cách trang trí cũng có
thể biết được chủ nhân là người Tàu. Họ có kiểu cách riêng biệt với
những chiếc xe bằng gỗ, thiết kế một cách cầu kỳ. Phần trên xe là những
tấm kính tráng thủy có vẽ hình các nhân vật như Quan Công, Lưu Bị,
Trương Phi, Triệu Tử Long… trong truyện Tam Quốc.
Ăn
điểm tâm thì có mì, hủ tíu, bánh bao, há cảo, xíu mại…Khách thường gọi
một ly xây chừng, đó là một ly cà phê đen nhỏ hay tài phế (cà phê đen
lớn). Cà phê ngày xưa còn có tên “cá phé vớ (dzớ)”, pha bằng chiếc vợt
vải nên còn được gọi là “cà phê vợt” tựa như chiếc vớ (bít tất). Cà phê
đựng trong “dzớ” phải được đun nóng trong siêu nên còn có tên là “cà phê
kho”, có điều “kho” nước đầu thì có mùi cà phê nhưng những nước sau có
vị như… thuốc bắc. Sang hơn thì gọi phé nại (cà phê sữa) hoặc bạt sửu
(nhiều sữa nhưng ít cà phê) với sữa đặc có đường hiệu Ông Thọ (2) hoặc
Con Chim (3). Có người lại dùng bánh tiêu hoặc dầu-cha-quẩy (người miền
Bắc gọi là quẩy) nhúng vào cà phê để ăn thay cho các món điểm tâm đắt
tiền.
Người
bình dân còn có lối uống cà phê trên đĩa. Mỗi tách cà phê thường được
để trên một chiếc đĩa nhỏ, khách “sành điệu” đổ cà phê ra đĩa, đốt điếu
thuốc Melia chờ cà phê nguội rồi cầm đĩa lên… húp. Nhà văn Bình-nguyên
Lộc trong Hồn Ma Cũ mô tả cách uống cà phê của người xưa: “…Người cha
đứa bé rót cà phê ra dĩa cho mau nguội, rồi nâng dĩa lên mà uống”. Đây
là cách uống của một số người Sài Gòn vào những thập niên 50-60, đa số
họ là những người lớn tuổi, “hoài cổ” nên vẫn duy trì cách uống đặc
trưng của Sài Gòn xưa. Vào một quán nước bình dân trong Chợ Lớn ta có
thể gọi một ly suỵt xủi và người phục vụ đem ra một ly đá chanh mát
lạnh. Có người gọi nước đá chanh là “bất hiếu tử” vì dám cả gan “đánh
cha” nhưng nói lái lại là… đá chanh! Tại các tiệm “cà phê hủ tiếu” luôn
luôn có bình trà để khách có thể nhâm nhi nhậm xà (uống trà) trước khi
gọi phổ ky đến để thảy xu (tính tiền). (Nhậm xà còn có nghĩa là tiền hối
lộ, tiền trà nước). Người sành điệu còn “xổ” một tràng “broken
Cantonese”: “Hầm bà làng kỵ tố?” (Hết thảy bao nhiêu tiền?).
Những
từ ngữ vay mượn của người Tàu dùng lâu hóa quen nên có nhiều người
không ngờ mình đã xử dụng ngôn ngữ ngoại lai. Chẳng hạn như ta thường lì
xì cho con cháu vào dịp Tết hoặc lì xì cho thầy chú (cảnh sát) để tránh
phiền nhiễu, cũng là một hình thức hối lộ. Lạp xưởng là một món ăn có
nguồn gốc từ bên Tàu, tiếng Quảng Châu là lạp trường: ngày lễ Tất niên
và ruột heo khô. Cũng vì thế vào dịp giáp Tết các cửa hàng nổi tiếng như
Đồng Khánh, Đông Hưng Viên trưng bày la liệt các loại lạp xưởng, nào là
lạp xưởng mai quế lộ, lạp xưởng khô, lạp xưởng tươi…
Chế
biến lạp xưởng là nghề của các Chú Ba trong Chợ Lớn. Lạp xưởng được làm
từ thịt heo nạc và mỡ, xay nhuyễn, trộn với rượu, đường rồi nhồi vào
ruột heo khô để chín bằng cách lên men tự nhiên. Lạp xưởng màu hồng hoặc
nâu sậm vì chắc hẳn có thêm chút bột màu. Lạp xưởng ở Sóc Trăng thuộc
miền Lục tỉnh cũng rất nổi tiếng cùng với món bánh pía, một món đặc biệt
của người Tiều gốc từ Triều Châu. Đôi khi bánh pía còn được gọi là bánh
lột da, thực chất có nguồn gốc từ bánh trung thu theo kiểu Tô Châu
nhưng khác với loại bánh trung thu mà ta thường thấy. Đây là loại bánh
có nhiều lớp mỏng và nhân bánh có trộn thịt mỡ.
Bánh
pía do một số người Minh Hương di cư sang Việt Nam từ thế kỷ 17 mang
theo. Trước đây, việc làm bánh pía hoàn toàn mang tính thủ công và phục
vụ cho nhu cầu của từng gia đình. Bánh pía ngày trước cũng khá đơn giản,
vỏ ngoài làm bằng bột mì có nhiều lớp da mỏng bao lấy phần nhân, lớp da
ngoài dày thường để in chữ, nhân làm bằng đậu xanh và mỡ heo chứ không
có lòng đỏ trứng muối và các loại thành phần khác như ngày nay. Do thị
hiếu của người tiêu dùng mà các lò bánh mới thêm các thành phần hương
liệu khác như sầu riêng, khoai môn, lòng đỏ trứng muối… Tại Sóc Trăng
hiện có gần 50 lò chuyên sản xuất bánh pía. Tuy nhiên, số lò bánh và cửa
hàng buôn bán tập trung đông nhất tại thị tứ Vũng Thơm (xã Phú Tâm,
huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng) nơi được xem là khởi thủy của làng nghề
bánh pía.
Vịt
quay Bắc Kinh và vịt quay Tứ Xuyên là những món “đặc sản” nổi tiếng của
Tàu. Đặc trưng của món vịt quay là da vịt mỏng, giòn, màu vàng sậm. Tại
miền Nam, vịt quay và thịt heo quay cũng được người Quảng Đông đưa vào
danh sách ẩm thực. Bí quyết gia truyền của các món này là ướpngũ vị
hương rồi quay sao cho da giòn tan trong khi phần thịt vừa mềm lại vừa
thơm. Vịt quay hoặc heo quay theo đúng kiểu Tàu là phải ăn với bánh bao
chay (không nhân) nhưng người Việt cũng chế thêm món bánh hỏi thịt quay
ăn với các loại rau, chấm nước mắm cho hợp với khẩu vị. Ngày xưa, trong
Chợ Lớn, nổi tiếng về heo quay, vịt quay có khu vực đường Tôn Thọ Tường,
ở Sài Gòn thì khu Chợ Cũ có vài tiệm heo quay của người Tàu. Chuyện kể
có một ông cà lăm đi mua thịt quay, khi ông lắp bắp: “Bán… cho tôi… 20
đồng… thịt quay…” thì Chú Ba với tay nghề chặt thịt cũng vừa chặt xong
đúng 20 đồng!
Hết
“ăn” giờ lại sang đến “chơi” trong ngôn ngữ vay mượn của người Tàu.
Chuyện cờ bạc trong ngôn từ của người Sài Gòn xưa đã xuất hiện không ít
những từ ngữ từ tiếng Tàu. Tài Xỉu (phiên âm từ tiếng Tàu có nghĩa là
Đại – Tiểu) là trò chơi dân gian có từ rất lâu. Chỉ cần 1 cái đĩa, 1 cái
bát và 3 hạt xí ngầu cũng có thể lập sòng tài xỉu nên còn có tên là sóc
đĩa. Hột xí ngầu có sáu mặt, mỗi mặt có từ một đến sáu chấm, tương
đương từ một đến sáu điểm. Khi ráp sòng, người ta để cả ba hột lên chiếc
đĩa sứ, chụp bát lên trên rồi lắc. Tổng số điểm của ba hột từ mười trở
xuống gọi là xỉu, trên con số mười là tài. Sau khi chủ sòng lắc đĩa,
người chơi đoán hoặc tài hoặc xỉu mà đặt cược. Chuyện thắng thua trong
tài xỉu tùy thuộc vào tay nghề của người xóc đĩa, còn được gọi là hồ lỳ.
Xác suất chủ sòng là từ 60 đến 70% thắng nhưng vì lỡ mang kiếp đỏ đen
nên con bạc vẫn bị thu hút vào sòng xóc đĩa.
Các
loại bài và hình thức chơi bài cũng có xuất xứ từ tiếng Tàu. Binh xập
xám (13 cây) có những thuật ngữ như mậu binh (không cần binh cũng
thắng), cù lủ (full house) là 3 con bài cùng số và một cặp đôi, ví dụ
như 3 con chín + 2 con K (lớn nhất là cù lủ ách (ace), nhỏ nhất dĩ nhiên
là cù lủ hai), thùng (flush) là 5 con cùng nước (suit) mà không theo
trật tự liền nhau, ngược lại là sảnh (straight) là 5 con theo trật tự
liền nhau nhưng không cùng nước. Kho từ vựng trong xập xám còn có xám
chi (3 con cùng loại – three of a kind), thú (two) hay thú phé (two
separate pairs) là 2 cặp và 1 con bất kì nào khác. “Thứ nhất tứ quý (4
con bài cùng số) thứ nhì đồng hoa (cùng một nước như cơ, rô, chuồn,
bích)” là một trong số cả rừng từ ngữ của dân binh xập xám.
Ở phần trên đã bàn về hai khía cạnh “ăn” và “chơi”, còn một khía cạnh đóng vai trò không kém phần quan trọng là “làm”
của người Tàu. Nghề nghiệp được xếp thấp nhất của người Tàu là nghề lạc
xoong hay nói theo tiếng Việt là mua ve chai, người miền Bắc gọi là
đồng nát. Chú Hỏa (1845-1901), người Phúc Kiến, xuất thân từ nghề này
nhưng về sau lại là một trong 4 người giàu nhất Sài Gòn xưa: “Nhất Sỹ, nhì Phương, tam Xường, tứ Hỏa”.
Bốn triệu phú ngày xưa gồm các ông Huyện Sỹ (Lê Phát Đạt), Tổng đốc
Phương (Đỗ Hữu Phương), Bá hộ Xường (Lý Tường Quan) và Chú Hỏa (Hui Bon
Hoa hay Hứa Bổn Hòa). (Xem Triệu phú Sài Gòn xưa)
Một
số người Tàu hành nghề bán chạp phô với các mặt hàng thuộc loại tả pín
lù nhưng sẵn sàng đáp ứng được mọi nhu cầu hàng ngày của người lao động
trong xóm. Tiệm chạp phô chỉ có mục đích lượm bạc cắc từ cây kim, sợi
chỉ đến cục xà bong Cô Ba, quả trứng, thẻ đường. Người Tàu kiên trì
trong công việc bán tạp hóa, ông chủ ung dung đếm tiền mỗi tối và ẩn
dưới tiệm chạp phô là cả một gia tài được tích lũy. Người ta chỉ phát
hiện điều này khi có phong trào vượt biên. Tính rẻ “3 cây một người” thế
mà cả gia đình chủ tiệm chạp phô vẫn thừa sức vượt biển để tìm đến bến
bờ tự do.
Cao
cấp hơn là những xì thẩu, những người thành công trong kinh doanh mà
ngày nay ta gọi là „đại gia“. Điển hình cho giai cấp xì thẩu là Trần
Thành, bang trưởng Triều Châu, với hãng bột ngọt Vị Hương Tố rồi các mặt
hàng mì gói Hai Con Tôm, nước tương, tàu vị yểu đã chinh phục thị
trường miền Nam từ thập niên 60 để trở thành “ông vua không ngai trong vương quốc Chợ Lớn”. Xì
thẩu Lý Long Thân làm chủ 11 ngành sản xuất và dịch vụ, 23 hãng xưởng
lớn: hãng dệt Vinatexco, Vimytex, hãng nhuộm Vinatefinco, hãng cán sắt
Vicasa, hãng dầu ăn Nakyco, hãng bánh ngọt Lubico, Ngân Hàng Nam Việt,
Ngân Hàng Trung Nam, khách sạn Arc en Ciel, hãng tàu Rạng Đông…
Xì
thẩu Lâm Huê Hồ được nhiều người gọi là “chủ nợ của các ông chủ”. Ông
là người giữ nhiều tiền mặt nhất miền Nam, số tiền ông có tay bằng vốn
của nhiều ngân hàng tư nhân cỡ nhỏ như Nam Đô, Trung Việt gộp lại. Lâm
Huê Hồ còn nổi tiếng là vua phế liệu, chuyên thầu quân cụ và võ khí phế
thải rồi bán lại cho những doanh nhân trong ngành luyện cán sắt hay bán
lại cho Nhật Bản. Người Sài Gòn thường nói: “Trần Thành, Lý Long Thân
chỉ có Tiếng nhưng Lâm Huê Hồ lại có Miếng”.
Xì
thẩu Vương Đạo Nghĩa, chủ hãng kem Hynos, là một người có óc làm ăn cấp
tiến. Ông là người có rất nhiều sáng kiến để quảng cáo sản phẩm trên
các cửa hàng ăn uống, chợ búa, hệ thống truyền thanh và truyền hình. Ông
cũng là người đầu tiên biết vận dụng phim võ hiệp và tình báo kiểu Hồng
Kông vào quảng cáo. Người dân miền Nam không thể quên hình ảnh tài tử
Vương Vũ giải thoát các xe hàng do đoàn bảo tiêu hộ tống thoát khỏi quân
cướp: mở thùng ra chỉ toàn kem đánh răng Hynos! Có rất nhiều xì thẩu
được Sài Gòn xưa phong tặng danh hiệu Vua. Trương Vĩ Nhiên, “vua ciné”,
là chủ hãng phim Viễn Đông và gần 20 rạp ciné tại Sài Gòn – Chợ Lớn:
Eden, Đại Nam, Opéra, Oscar, Lệ Thanh, Hoàng Cung, Đại Quang, Palace,
Thủ Đô…; Lý Hoa, “vua xăng dầu”, là đại diện độc quyền các hãng Esso,
Caltex, Shell phân phối nhiên liệu cho thị trường nội địa; Đào Mậu, “vua
ngân hàng”, Tổng giám đốc Trung Hoa Ngân Hàng (một trong hai ngân hàng
châu Á lớn nhất tại Sài Gòn cùng với Thượng Hải Ngân Hàng).
Bên
cạnh đó lại có Lại Kim Dung là “nữ hoàng gạo”. Giá gạo tại miền Nam là
do công ty của bà ấn định, chính phủ đã có lúc phải hợp tác với “nữ
hoàng gạo” để ổn định giá gạo trên thị trường. Trong các buổi tiếp tân
lớn, bà Kim Dung luôn xuất hiện bên cạnh các mệnh phụ phu nhân. Tạ Vinh
là một trường hợp xì thẩu đặc biệt. Năm 1964, Tạ Vinh bị Ủy Ban Hành
Pháp Trung ương của Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ xử bắn tại pháp trường cát
trước chợ Bến Thành vì tội “gian thương, đầu cơ tích trữ gạo, gây xáo
trộn thị trường”. Dân chúng và báo chí gọi Tạ Vinh là “hạm gạo”. Ông Kỳ
muốn cảnh cáo giới tài phiệt gốc Hoa không nên quá lạm dụng tình trạng
chiến tranh để làm giàu phi pháp, ông đã tổ chức một cuộc họp kín gồm đủ
thành phần đại xì thẩu tại Sài Gòn-Chợ Lớn để cảnh cáo.
1/ tiểu sử Vương Hồng Sển
Ông
sinh ngày 27 tháng 9, 1902, tại Sóc Trăng, mang ba dòng máu Việt, Hoa,
Miên. Nguyên tên thật ông là Vương Hồng Thạnh hay Vương Hồng Thịnh, khi
làm giấy khai sinh người giữ sổ lục bộ nghi nhầm là Sển (theo cách phát
âm tiếng Hoa).
Thời
học sinh, ông học tại trường Collège Chasseloup Laubat (nay là trường
Phổ thông trung học Lê Quý Đôn). Sau khi đậu bằng Brevet Elémentaire,
ông làm công chức ngạch thư ký và phục vụ nhiều nơi từ năm 1923 đến năm
1943, trong đó có dinh Thống đốc Nam Kỳ (1939-1943). Từ năm 1948, ông
làm Quyền quản thủ Viện Bảo tàng Quốc gia Sài Gòn cho đến khi về hưu vào
năm 1964.
Ông
là người rất ham mê đọc sách và thích ghi chép tất cả những điều tai
nghe, mắt thấy. Phần lớn những tác phẩm của ông rút tỉa từ nhửng tài
liệu dưới dạng hồi ký mà ông còn giữ gìn được. Ngay từ thuở nhỏ ông đã
sớm biểu lộ sự ưa thích đồ cổ. Sau khi về hưu, ông chuyên sưu tập các
loại sứ gốm cổ, khảo cổ về hát bội, cải lương và cộng tác với đài Phát
thanh Sài Gòn với các bút hiệu: Anh Vương, Vân Đường, Đạt Cổ Trai. Ngoài
ra, ông còn khảo cứu về các trò chơi cổ truyền: đá dế, chọi gà, chọi
cá, chơi chim, trồng kiểng, nghệ thuật chơi cổ ngoạn, nghiên cứu về
chuyện tiếu lâm xưa và nay, rất sành về đồ cổ. Có thể nói ông là kho
tàng sống về các lãnh vực kể trên.
Trong
suốt cuộc đời, ông sưu tầm được hơn 800 cổ vật, trong đó nhiều nhất,
độc đáo nhất là đồ gốm men xanh trắng thế kỷ 17-19. Ông đã góp phần đáng
kể trong việc xác định niên đại và phân loại một số đồ gốm cho những
người thích sưu tầm đồ cổ. Tài sản của ông để lại cho hậu thế. Ông mất
ngày 9.12.1996 tại SÀI GÒN thọ 94 tuổi
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire