ĐÔI UYÊN ƯƠNG CẢI LƯƠNG
THÀNH ĐƯỢC
VÀ ÚT BẠCH LAN
đôi uyên ương một thời lừng lẫy
Nghệ sĩ tài danh Thành Được vừa tổ chức ở
San Jose lễ kỷ niệm 50 năm hoạt động sân khấu và cũng nhân dịp nầy anh
tuyên bố giải nghệ. Chúng tôi xiin giới thiệu đôi chút tiểu sử và cuộc
đời nghệ thuật của nghệ sĩ Thành Được.
Nghệ sĩ Thành Được tên thật là Châu Văn
Được sanh năm 1938 tại huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng, cha mẹ là phú
nông, có ruộng vườn tại xã Nhơn Mỹ, Kế Sách. Thành Được học xong Tiểu
học tại huyện Kế Sách, anh theo cậu ruột của anh là bầu gánh hát cải
lương Thanh Cần, để học hát.
Gánh Thanh Cần là một gánh hát trung ban,
chuyên diễn ở các tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cần Thơ; Thành
Được nhờ có giọng ca tốt, sắc diện đẹp trai, lại được diễn trên sân khấu
nhà nên nhanh chóng trở thành kép chánh, được khán giả Hậu Giang ái mộ.
Năm 1957, khi bộ tứ Bầu gánh Kim Thanh :
Út Trà Ôn, Kim Chưởng, Thúy Nga, Thanh Tao rã phần hùng, giải tán đoàn
cải lương Kim Thanh – Út Trà Ôn, nữ nghệ sĩ Thúy Nga quy tụ một số nghệ
sĩ cũ của Kim Thanh, thành lập đoàn Thúy Nga – Phước Trọng, mời nghệ sĩ
Thành Được làm kép chánh với contrat 150.000 đồng trong hai năm.
Ðoàn cải lương Thúy Nga – Phước Trọng
Vở tuồng khai trương của đoàn cải lương
Thúy Nga Phước Trọng là vở Ngưu Lang – Chức Nữ của soạn giả Kiên Giang
Hà Huy Hà, Thành Được thủ vai Ngưu Lang, nữ nghệ sĩ Bích Sơn vai Chức
Nữ, vở tuồng chỉ đạt được sự thành công tương đối. Sau đó, đoàn Thúy Nga
– Phước Trọng trình diễn vở cải lương hương xa (Nhựt Bổn) “Khi
Hoa Anh Đào Nở” của Hà Triều Hoa Phượng, với kép chánh Thành Được trong
vai kiếm sĩ Tô Điền Sơn. Vở tuồng Khi Hoa Anh Đào Nở đã thành công lớn
về mặt nghệ thuật lẩn tài chánh.
Lúc đó, các phim hát bóng Địa Ngục Môn,
Người Phu Xe của Nhựt, đang rất được khán giả ưa thích nên sân khấu cải
lương diễn tuồng Nhựt “Khi Hoa Anh Đào Nở”, “Đợi Anh Mùa Lá Rụng”, “Cầu
Sương Thiếp Phụ Chàng”, cũng rất ăn khách vì đáp ứng được sở thích của
khán giả.
Hồi đó, trong sinh hoạt cải lương, giới
báo chí kịch trường mệnh danh sự thành công của đoàn cải lương Thúy Nga –
Phước Trọng là một ” hiện tượng ” đặc biệt đáng ghi nhớ.
Trước nhứt là hai soạn giả trẻ Hà Triều – Hoa Phượng, mới có đôi ba tác phẩm đầu tay, đã thành công rực rở với vở ” Khi Hoa Anh Đào Nở”. Hiện tượng thứ hai là sự xuất hiện của kép trẻ Thành Được, một giọng ca thiên phú, một lối diễn xuất chửng chạc, một nghệ sĩ kế thừa phong cách diễn xuất “Đẹp và Thật” của nghệ sĩ tiền phong Năm Châu.
Trước nhứt là hai soạn giả trẻ Hà Triều – Hoa Phượng, mới có đôi ba tác phẩm đầu tay, đã thành công rực rở với vở ” Khi Hoa Anh Đào Nở”. Hiện tượng thứ hai là sự xuất hiện của kép trẻ Thành Được, một giọng ca thiên phú, một lối diễn xuất chửng chạc, một nghệ sĩ kế thừa phong cách diễn xuất “Đẹp và Thật” của nghệ sĩ tiền phong Năm Châu.
Thêm nữa, những năm từ 1955 đến 1968, có
nhiều soạn giả tài danh như Hà Triều Hoa Phương, Thiếu Linh, Kiên Giang,
Nguyễn Phương, Qui Sắc, Hoàng Khâm, Thu An… Những soạn giả mới nầy khai
thác khả năng ca của các nghệ sĩ trẻ mới nổi lên, tạo ra một lớp diễn
viên mới với phong cách diễn xuất tươi mướt hơn, với lối ca vọng cổ
quyến rũ hơn lớp nghệ sĩ đàn anh trước kia.
Những nghệ sĩ trẻ thành danh từ năm 1956
đến 1968 có Hữu Phước, Thành Được, Hùng Cường, Tấn Tài, Út Hiền, Thanh
Hải, Út Nhị, Minh Tấn, Thanh Tú, Minh Vương, Minh Cảnh, Minh Phụng, Dũng
Thanh Lâm..
Phía nữ nghệ sĩ tài danh trong giai đoạn
nầy ta thấy có Út Bạch Lan, Ngọc Giàu, Thanh Nga, Lệ Thủy, Mỹ Châu, Hồng
Nga, Bạch Tuyết, Phượng Liên, Bích Sơn, Ngọc Bích, Bích Hạnh, Thanh Kim
Huệ, Hà Mỹ Xuân, Trương Ánh Loan, Kiều Phượng Loan… vân vân…
Ba diễn viên ăn khách nhất
Ba diễn viên ăn khách nhất lúc bấy giờ là
các nghệ sĩ Hữu Phước, Thành Được và Hùng Cường. Trong bộ ba Hữu Phước,
Thành Được, Hùng Cường thì Thành Được có giọng ca truyền cảm tuy kém
hơn Hữu Phước một chút nhưng hơn hẳn Hùng Cường; về sắc vóc thì Thành
Được đẹp trai hơn Hữu Phước.
Hai diễn viên có giọng ca vàng nầy đều có
khả năng hơn Hùng Cường về ca , diễn và có nhiều thuận lợi hơn vì được
nhiều soạn giả tài danh đương thời cung ứng tuồng tích, giúp cho Hữu
Phước và Thành Được nhiều cơ hội biểu dương tài ca diễn của mình. Ký giả
Nguyễn Ang Ca, tức soạn giả Ngọc Huyền Lan tặng biệt danh “Giọng ca
vàng” cho Hữu Phước và tặng biệt danh “kép hát thượng thặng” cho Thành
Được.
Sau khi rã phần hùng với gánh Kim Thanh –
Út Trà Ôn, năm 1957, bà Kim Chưởng tách riêng ra lập gánh hát Hoa Anh
Đào – Kim Chưởng, Bà bầu Kim Chưởng ký hợp đồng với nữ nghệ sĩ Út Bạch
Lan và kép chánh Thành Được.
Bà Bầu Kim Chưởng xuất thân từ gánh hát
Bầu Bòn, học nghệ có căn bản, lại là nữ diễn viên tài danh qua nhiều
đoàn hát lớn nên khi bà lập gánh hát thì bà đích thân tập luyện, chỉ dạy
cho nghệ sĩ trong đoàn của bà theo phong cách ca, diễn mà bản thân của
bà đã được học hỏi trước đó.
Thành Được, Út Bạch Lan được cái may mắn
khi mới bước chân vào nghề hát, đã được danh sư Kim Chưởng chỉ dạy. Đoàn
Kim Chưởng nổi danh là “Anh Hùng Lưu Diễn” với các diễn viên giỏi tay
nghề như Thành Được, Út Bạch Lan, Kim Nên, Mộng Thu, Trường Xuân, Nam
Hùng, Thanh Sơn, Hề Minh.
Khán
giả khó quên cặp diễn viên “thinh sắc lưởng toàn” Thành Được – Út Bạch
Lan qua các vở tuồng: Chưa Tắt Lửa Lòng, Bên Đồi Trăng Cũ, Thuyền Ra Cửa
Biển, Áo Trắng Nàng Mộng Trinh, Nữa Bản Tình Ca, Người Đẹp Thành Bát
Đa…
Cặp đôi Út Bạch Lan và Thành Được
Trên sân khấu Kim Chưởng, đôi diễn viên
tài sắc Thành Được – Út Bạch Lan yêu nhau, đưa đến cuộc hôn nhơn có hôn
thơ giá thú, cô Phùng Há, chủ hôn bên đàn trai, cô Kim Chưởng, chủ hôn
đàn gái. Đám cưới được tổ chức long trọng, hầu hết các ký giả kịch
trường đều được mời tham dự. Báo chí đăng bài phóng sự lễ cưới và các
giai thoại về cuộc tình Út Bạch Lan – Thành Được vì đây là lần đầu tiên
trong giới nghệ sĩ cải lương có một cuộc hôn nhơn có hôn thơ giá thú
đàng hoàng.
Đoàn hát Kim Chưởng nỗi danh Anh Hùng Lưu
Diễn, thường đi hát ở các tỉnh Hậu Giang, ở miền Đông, miền Trung trong
nhiều tháng liền, ít khi hát ở Saigon. Và đoàn Kim Chưởng lại chuyên
hát những tuồng loại hương xa, kiếm hiệp, trong khi đó thì khuynh hướng
của khán giả Saigon lại đang thích coi hát những vở tuồng xã hội.
Đoàn hát Thanh Minh chuyên hát những vở
tuồng xã hội, lại là một đoàn hát thường hát quanh quẫn các rạp ở Saigon
nên phù hợp với ý muốn tiến thân của Út Bạch Lan và Thành Được. Hai
nghệ sĩ nầy cũng nói rõ nguyện vọng của mình nên bà Kim Chưởng bằng lòng
cho cả hai trả lại tiền contrat đã ký với bà, để Thành Được và Út Bạch
Lan về cộng tác với đoàn Thanh Minh của bà Bầu Thơ.
Thành
Được, Út Bạch Lan sáng chói hơn hết trong hai nhân vật trung tâm của vở
tuồng. Nữa Đời Hương Phấn là nữa đời ngang trái cho thân phận đàn bà,
cho tình yêu, cho sự đi tìm bạn tri âm và cho cả sự hy sinh cam chịu sự
tan nát của nổi lòng khi Hương biết người con gái mà Tùng kết duyên lại
chính là Diệu, em ruột của Hương.
Đầu năm 1962, Út Bạch Lan và Thành Được
rời gánh hát Kim Chưởng để gia nhập gánh Thanh Minh Thanh Nga với
contrat một triệu đồng năm trăm ngàn đồng, lương hát một suất 1200 đồng.
Đoàn nầy lưu diễn miền Trung để tập vở tuồng “Nửa Đời Hương Phấn” của
Hà Triều Hoa Phượng.
Thành Được trong vai Tùng, Út Bạch Lan,
vai Hương (tên The khi ở dưới quê), Hữu Phước vai Hai Cang, người anh,
vì quan niệm lổi thời môn đăng hộ đối mà phá hủy hạnh phúc của em mình.
Ngọc Nuôi, vai Diệu, em của Hương, về sau là vợ chính thức của Tùng.
Thành Được, Út Bạch Lan sáng chói hơn hết
trong hai nhân vật trung tâm của vở tuồng. Nửa Đời Hương Phấn là nửa
đời ngang trái cho thân phận đàn bà, cho tình yêu, cho
sự đi tìm bạn tri âm và cho cả sự hy sinh cam chịu sự tan nát của nổi
lòng khi Hương biết người con gái mà Tùng kết duyên lại chính là Diệu,
em ruột của Hương. Hương – Út Bạch Lan ca bản Phụng Hoàng, lấy nước mắt
khán giả mà đến nay hơn 40 năm sau, nghe lại lớp ca Phụng Hoàng đó của
Út Bạch Lan, tôi vẩn còn bồi hồi xúc cảm như xưa… :
Năm 1961, vở tuồng Nửa Đời Hương Phấn đã
lập kỷ lục “ăn khách” nhờ tuồng hay, nhờ Thành Được, Út Bạch Lan, Hữu
Phước, Việt Hùng – Ngọc Nuôi diễn giỏi, ca hay. Ấn tượng ban đầu về
những nam diễn viên có giọng ca vàng như Thành Được, Hữu Phước là ấn
tượng sâu đậm, khó quên.
Thành Được nhờ thành công buổi ban đầu
đó, nên anh thành công dể dàng thêm qua các tuồng Con Gái Chị Hằng, Tấm
Lòng Của Biển, Bọt Biển, Chuyện Tình 17, Tình Xuân Muôn Tuổi, Rồi Ba
Mươi Năm Sau, Giấc Mộng Giữa Hoàng Lăng, Tiếng Hạc Trong Trăng… (theo : ngocanh)
Mai Trung Tín post
ÚT BẠCH LAN
MỘT GIỌNG CA
NHIỀU MỸ DANH
Trong các nghệ sĩ cải lương, nữ nghệ sĩ
Út Bạch Lan là người được trong giới và báo chí kỊch trường trước năm
1975 tôn tặng cho bà nhiều mỹ danh nhất : Nữ hoàng vọng cổ, Đệ nhất đào
thương, Nữ hoàng sầu muộn, Sầu nữ Út Bạch Lan, Sầu nữ liêu trai, Vương
nữ sương chiều… bởi bà có giọng ca vượt thời gian, dù hơn nửa thế kỷ
trôi qua, nhưng giọng ca của bà vẫn đọng lại sức truyền cảm : ngọt ngào,
sâu lắng, thấm đẵm lòng người…
Một chút riêng tư về cô Út
Út Bạch Lan tên thật là Đặng Thị Hai,
sinh ra trong một gia đình nghèo khó, tại xã Lộc Giang – huyện Đức Hòa,
tỉnh Long Anh (1935). Mẹ bà gọi bà là bé Út. Lúc bé Út 10 tuổi thì gia
đình lại neo đơn hơn. Mẹ bà lại gặp một người đồng cảnh ngộ nên kết
thành chị em, và người ấy cũng có một bé trai tên là Đinh Văn Dậm (tức
Đệ nhất danh cầm Văn Vĩ sau này). Hai bà mẹ lo tảo tần mua bán nhỏ kiếm
sống để nuôi bé Út và Dậm. Đến năm bé Út 11 tuổi, Dậm 15 tuổi thì Dậm đã
học đờn Guitar cổ nhạc khá rành và đờn rất hay. Dậm dạy cho Út ca rồi
hai anh em dắt nhau đi hát rong từ chợ Lớn đến chợ Bến Thành để kiếm
tiền phụ cho hai bà mẹ.
Sau
đó gia đình Dậm và Út gặp một người tốt bụng cho che liều ở bên hiên
nhà ông (chợ Bầu Sen), và ông gợi ý cho Dậm mở lớp dạy đờn ca Tài tử –
Cải lương, lấy nghệ danh là ”Văn Vĩ” (do một ông thầy thuốc đặt cho).
Lúc này gia đình Văn Vĩ có cuộc sống tương đối hơn; thỉnh thoảng Văn Vĩ
và cô Út được tiệc tùng mời phục vụ. Một dịp tình cờ gặp ở đám tiệc,
danh ca đương thời, cô Năm Cần Thơ gặp Út ca, và cô Năm đã có cảm tình,
nên sau đó cô Năm Cần Thơ dẫn cô Út đi ca chung ở quán cổ nhạc Họa Mi
của cô trong khu Đại Thế Giới (Trung tâm văn hóa quận 5 bây giờ), còn
Văn Vĩ cũng đờn cho quán cô Năm. Sau đó cô Năm Cần Thơ giới thiệu cô Út
ca cho Đài phát thánh Pháp Á, Văn Vĩ thì được danh ca Thành Công giới
thiệu đờn cho Đài phát thánh Pháp Á, và hai người được tham gia vào Ban
ca kịch của Đài trong thời gian này. Chính danh ca Thành Công đặt nghệ
danh cho cô Út là ”Út Bạch Lan”.
Kế đó nữ nghệ sĩ Út Bạch Lan đầu quân vào
gánh Kim Khánh của bầu Cang (1952), một thời gian nhưng cô không được
phân vai vì lúc đó gánh có nhiều nghệ sĩ như: Kim Nên, Thu Ba, Hồng Vân,
Ngọc An,…Thế rồi cô qua gánh Tơ Huệ cũng không có gì sáng sủa hơn, dù
một vai phụ cô cũng không được đóng. Cô Út trở về Sài Gòn theo nghệ sĩ
Thành Công, Sáu Thồng, Chín Sớm ca Vọng cổ cho Đài Pháp Á và Đài phát
thanh Sài Gòn.
Mấy năm sau cô trở lại gánh Kim Thanh
(của Út Trà Ôn, Thanh Tao, Kim Chưởng và Thúy Nga), cô được soạn giả
Viễn Châu viết cho cô hai câu Vọng cổ trong hai vở ”Tình vương hoa thắm”
và ”Đời cô Nga” theo kiểu ”đo ni đóng giày”, và nhờ hai câu Vọng cổ này
mà cô Út nổi tiếng (1955). Sau đó cô được một số hãng đĩa ký hợp đồng
thu dĩa hát. Cuối năm đó, cô Út rời gánh Kim Thanh qua gánh Thanh Minh,
cô được hát đào thương từ vai nhì đến vai chánh ở các vở như : Biên Thùy
nổi sóng, Cánh buồm lửa, Tình tráng sĩ, Đồ Bàn di hận, Mưa rừng, Tình
người nữ cứu thương, Cung đàn trên sông lạnh, Người đẹp Bạch Hoa Thôn,
Hoa Mộc Lan, Sơn nữ Phà Ca,…
Đến năm 1958, Út Bạch Lan về gánh Kim Chưởng hát chánh đào thương trong
các vở ”Chưa tắt lửa lòng, Bên đồi trăng cũ, Thuyền ra cửa biển, Áo
trắng nàng Mộng Trinh, Nửa bản tình ca, Người đẹp thành Bát-Đa…
Đây là giai đoạn mà báo chí kịch trường
tôn tặng cho nữ nghệ sĩ Út Bạch Lan nhiều danh hiệu nhất cùng với nhiều
bài báo có tựa đề điểm xuyế nổi bật, đại loại như : ”Một ngôi sao lạ vụt
sáng trên vòm trời sân khấu Cải lương” (ký giả Nguyễn An Ca); ”Sầu nữ
Út Bạch Lan chất giọng đồng pha thổ nghe thương cảm chơi vơi, đêm đêm
khơi nguồn lệ của hàng ngàn khán giả mộ điệi Cải lương…” (Ký giả Kiên
Giang – Hà Huy Hà); ”Út Bạch Lan một giọng ca Vọng cổ thảm sầu, bứt ruột
bứt gan người nghe” (ký giả Trần Tấn Quốc)… Năm 1961, nữ nghệ sĩ Út
Bạch Lan lập gánh ”Út Bạch Lan – Thành Được”, bà hát chánh trong các vở
Trảm mã trà, Đêm huyền diệu, Chân trời hạnh phúc, Khi rừng mới sang thu,
Bốn mùa hoa nở, Bao giờ vườn xứ mưa hoa,Tìm suối tiên, Cuối đường hoa
mộng, Thuyền về bến Ngự, Em đi trên phím nhạc, Khi hoa anh đào nở, Trăng
sương cầu chúc, Sầu qua mấy nhịp cầu duyên… sau đó gánh này rã, bà về
hát chánh cho gánh Thanh Minh – Thanh Nga. Đặc biệt giai đoạn này, Út
Bạch Lan tạo một dấu ấn sâu đậm trong lòng khán giả – thính giả mộ điệu
qua bài Vọng cổ nói về cuộc đời của bà ”Hoa Lan trắng” (của Viễn Châu).
Sau năm 1975, một thời gian nữ nghệ sĩ Út
Bạch Lan hát cho Đoàn Cải lương Sài Gòn I, rồi về tỉnh làm Phó Đoàn chỉ
đạo nghệ thuật Đoàn Cải lương Long An II. Sau năm 1990, bà về cộng tác
CLB Cải lương của Hội SKTP ở Sài Gòn được một thời gian rồi hoạt động tự
do, với hình thức hát tăng cường cho một số địa phương có yêu cầu, nhất
là bà tích cực tham gia các chương trình biểu diễn phục vụ cho công
tác từ thiện xã hội.
Một giọng ca bi cảm
Có thể nói, nữ nghệ sĩ Út Bạch Lan có một
giọng ca rất độc đáo và hiếm lạ từ khi nổi danh vào những năm đầu cảu
thập niên 50 – thế lỷ 20 mãi đến sau này. Hơi giọng ngọt ngào, mùi mẫn
với âm điệu du dương như ru người nghe vào cõi mộng. Còn âm thanh nghe
rất bi cảm, mà nhiều người trong nghề cho rằng ”màu âm” giọng ca của Út
Bạch Lan rất sầu thảm, có lẽ vì thế mà ngày trước báo chí kịch trường
tặng mỹ danh cho bà là ”Sầu nữ”… Nếu nói về kỹ thuật xử lý hơi – giọng
trong ca ngâm thì nữ nghệ sĩ Út Bạch Lan rất hạn chế luyến láy, tô
điểm, nhấn nhá, ngân rung thanh điệu bất cứ ca từ nào (dấu chữ). Bà ca
chân phương với làn hơi chất giọng thật của mình, không ém hơi hay nuốt
chữ, mà chỉ sử dụng kỹ thuật nhấn trọng âm; thỉnh thoảng chẻ nhịp; đặc
biệt là biểu đạt giọng ca bằng tâm trạng là chính.
Bất cứ Bài Vọng cổ nào hay câu nào trong
vở diễn, bà luôn tâm trạng của mình vào đó, ca như tâm sự với chính
mình; hoặc là ca với nổi niềm của một nhân vật nào đó mà bà là người
thay lời cho họ để bộc lộ tình cảm của mình. Trạng thái ấy được người ca
nói thay lời tác giả, có thể cảm nhận giọng ca đầy trăn trở trong từng
chữ từng câu mà bà đồng cảm với tác giả để cùng sẻ chia gởi đến người
nghe. Vì thế dù bà sử dụng kỹ thuật buông hơi, nhả chữ như thế nào, âm
giọng cũng nghe buồn rười rượi. Nếu nội dung bài ca tự sự, bi thương thì
giọng ca của bà trở nên sầu thảm hơn, ca mà như than vãn với tâm trạng
đầy trắc ẩn; nếu nội dung trữ tình, tươi vui thì giọng ca của bà được
biểu đạt màu âm buồn man mác…
Hầu như trong xử lý kỹ thuật luyến láy
thanh điệu, bà chỉ nhấn những ca từ mang dấu sắc, nhưng chỉ khi chữ đó
là điểm tựa để bà cất giọng. Còn thông thường bà buông hơi cùng phong
cách ca ngâm lối tự sự, tức là nghiêng về ca như nói, tiết chế làn hơi
thích ứng âm giọng buồn buồn. Bà ít luyến láy dấu sắc, nhưn khi cần
luyến thì những chữ ”có, nhớ, nơi đó, xao xuyến…” khiến âm giọng nghe
lảnh lót, làm cho người nghe không khỏi động lòng. Bởi
lẽ thiên phú cho giọng bà ”Đồng pha Thổ”: Đồng có độ âm vang, Thổ trầm
buồn; khi nhấn giọng thì cần lực ngân, chất Đồng sẽ vang lên nghe lảnh
lót, khi xuống giọng tự sự thì chất Thổ xuất hiện tạo âm giọng trầm
buồn; khi tâm trạng buồn nó càng sâu lắng hơn…, bi cảm là ở chỗ đó.
Tôi vinh hạnh được nữ nghệ sĩ Út Bạch Lan
ca của tôi hai bài Vọng cổ trên Đài TNVN và Đài TNTP, sau đó được nhiều
Đài PTTH ở một số tỉnh phát lại vào những năm 90 của thế kỷ trước.
Chính nhờ giọng ca của bà ca bằng tâm trạng mà hai bài Vọng cổ đó có một
thời được bạn nghe Đài yêu thích, yêu cầu phát lại nhiều lần. đó là
bài: ”Quê ngoại một góc trời thương nhớ” (Út Bạch Lan ca chung với nghệ
sĩ Tuyết Ngân) và bài ”Về thăm Vĩnh Hựu” (Út Bạch Lan ca chung với nghệ
sĩ Ngọc Phượng). Bà ca với tâm trạng như người trong cuộc, người xa quê
lâu không có dịp về thăm nên lòng luôn nhớ thương nơi chôn nhao, cắt rốn
da diếc, nhớ từng kỷ niệm của tuổi thơ, con đường làng nhỏ, bờ sông bến
nước,… Bà buông hơi chậm rải, những câu ca buồn thì bà hạ giọng nói
theo tự sự, ngân nhẹ một vài chỗ rất bi cảm, rồi chẻ nhịp, nhất là những
song lang chánh bà lướt qua, chẻ nhịp sau song lang rất tuyệt vời, mà
người trong nghề gọi là ca quá điệu nghệ.
Nữ nghệ sĩ Út Bạch Lan có một số học trò
và con tinh thần (con nuôi) vì mến mộ và ảnh hưởng kỹ thuật ca ngâm
Vọng cổ của bà, nhưng vẫn chưa có người nào có thể kế thừa một cách
tương đối, dù mỗi người có nét hay riêng. Đến bây giờ tuổi của bà đã cận
kề bát tuần, nhưng phong cách ca ngâm của bà với xứng đáng với các mỹ
danh trước đây, tuy hơi lực có yếu là do tuổi cao là điều tất yếu. Nhân
dịp này chúng tôi cầu chúc cho bà thọ lâu thêm nữa. (theo Đỗ Dũng)
Lan caysu post
NGHỆ SĨ VIỆT HÙNG
CUỘC ĐỜI & SỰ NGHIỆP
Trong những thập niên 50, 60, 70, đôi nghệ sĩ uyên ương Việt Hùng & Ngọc Nuôi lừng danh trong hàng ngũ những ngôi sao sân khấu cải lương. Anh Việt Hùng tên thật là Nguyễn Việt Hùng, sanh năm 1921 tại Đà Lạt.
Cha mất sớm, anh và chị anh theo mẹ dời
về Sài Gòn. Năm 1946, anh Hùng làm tài xế lái xe cho quận trưởng ở Tòa
hành chánh Gia Định. Anh có giọng tốt, là ca sĩ tân nhạc hợp tác với
nhạc sĩ Mạnh Phát và nữ ca sĩ Minh Diệu trong ban tân nhạc Mạnh Phát
trên đài phát thanh Pháp Á. Anh Hùng làm quen với ca sĩ cổ nhạc Thành
Công nên được ca sĩ Thành Công với nhạc sĩ Bảy Quới, Hai Khuê, Tư Hiệu
dạy cho ca nhiều bài bản cổ nhạc.
Năm 1946, Việt Hùng nổi danh là ca sĩ tân
và cổ nhạc đồng thời với các danh ca Chín Sớm, Chiêu Anh, Thành Công,
Văn Chung, Sáu Thoàn, cô Ngọc Ánh, cô Năm Cần Thơ. Năm 1948, lúc hát ở
rạp hát Thành Xương (sau này là rạp Diên Hồng),, gánh hát Thỉ Phát Huê
có 2 cô đào xuân sắc : Kim Nên (thân mẫu của ca sĩ tân nhạc Thái Châu)
và Ngọc Nuôi. Kim Nên là em ruột của cô Năm Cần Thơ nên cô Năm Cần Thơ
đưa các bạn ca sĩ cùng làm chung ở đài phát thanh Pháp Á đến xem hát.
Dịp này ca sĩ Chiêu Anh si mê đào Kim
Nên, ca sĩ Việt Hùng si mê đào Ngọc Nuôi. Khi gánh hát Thỉ Phát Huê hết
hát ở rạp hát Thành Xương, dọn đi hát ở các tỉnh thì Việt Hùng bỏ sở làm
ở Tòa hành chánh Gia Định. Chiêu
Anh là phát thanh viên của đài Pháp Á cũng bỏ sở làm. Hai anh bị tiếng
sét ái tình nên mới bỏ tất cả để theo gánh hát Thỉ Phát Huê bắt đầu làm
một cuộc đời mới. Kết quả là Kim Nên sánh duyên cùng ca sĩ Chiêu Anh.
Chiêu Anh không trở thành kép hát mặc dầu anh cao ráo đẹp trai và ca
vọng cổ rất mùi. Chiêu Anh trở thành soạn giả, viết nhiều bài ca cổ nhạc
cho đài phát thanh Pháp Á và đài quốc gia. Anh cũng viết nhiều bài vọng
cổ thu dĩa cho các hãng dĩa Asia, Hoành Sơn.
Còn Việt Hùng, sau khi thành hôn với Ngọc
Nuôi, được Ngọc Nuôi hướng dẫn anh từng bước biểu diễn, từng kỹ thuật
hóa trang, anh trở thành kép chánh của đoàn hát Thỉ Phát Huê. Sau đó
Việt Hùng và Ngọc Nuôi về hát chánh cho đoàn Tân Thiếu Niên. Năm 1952
nghệ sĩ Bảy Cao thành lập đoàn hát Hoa Sen với thành phần diễn viên Bảy
Cao, Việt Hùng, Bửu Tài, Ba Khuê. Giàn đào có các cô Kim Luông, Ngọc
Nuôi, Ái Hữu, Cẩm Vân, Lệ Út. Đoàn Hoa Sen ăn khách nhất nhờ các tuồng
Đàn Chim Sắt, Nợ Núi Sông, Mộng Hòa Bình, Vàng Rơi Song Lệ, Chiếc Áo Mùa
Đông.
Việt Hùng cao lớn, lực lưỡng nên khi thủ
các vai sĩ quan trên chiến trường máu lửa thì trông rất là oai phong.
Anh ca vọng cổ tiếng rất khỏe, nhứt là câu vọng cổ anh ca ngân đổ hột
khiến cho khán giả thích thú khi khám phá ra một lối ca nói, khác hẳn
lối ca ngọt mùi của các danh ca Bảy Cao và Năm Nghĩa. Năm 1954, có nhiều
gánh hát mới được thành lập nên các ông bầu gánh bỏ ra bạc triệu ký
hợp đồng để tranh bắt đào kép giỏi về cho đoàn hát của mình
Bầu Sinh, môn đệ của soạn giả Mộng Vân,
lập gánh hát Tân Hương Hoa mời Việt Hùng Ngọc Nuôi về hát với số tiền
công tra và lương lớn hơn gấp đôi số tiền lương cũ ở đoàn Hoa Sen. Việt Hùng Ngọc Nuôi về hát cho đoàn Tân Hương Hoa những tuồng chiến tranh như Khúc Nhạc Ly Hương, Việt Kiều Trên Đất Khách.
Bà Ba Khan, chủ nợ của bầu Sinh và là chị
ruột của hai diễn viên Hương Sắc và Hương Huyền muốn tạo cơ hội cho hai
em thăng tiến trên đường nghệ thuật nên xuất vốn lập gánh hát lấy bảng
hiệu là gánh Việt Hùng – Minh Chí. Gánh hát Việt Hùng – Minh Chí từ bỏ
tuồng chiến tranh để hát những vở tuồng tình sử Việt Nam “Đường Lên Xứ
Thái” của soạn giả Mộc Linh, lời văn chải chuốt, cốt truyện trữ tình,
một hình thức sân khấu thi, ca, vũ, nhạc mới lạ nên sức thu hút khán giả
rất là mãnh liệt. Việt Hùng trong vai người chiến sĩ Việt Nam, bị
thương, lạc trong một khu rừng già của xứ Thái, được một sơn nữ (do Ngọc
Nuôi thủ diễn) cứu trị và đưa về bản làng nương náo. Mối tình giữa
người Kinh và người sơn nữ thơ mộng, đẹp tình, đẹp ý, gợi lại những cuộc
tình dang dở trong chiến tranh, đã làm cho khán giả phải rơi lệ.
Vở tuồng thứ hai Người Đẹp Bán Tơ của thi
sĩ Kiên Giang Hà Huy Hà ghi thêm sự thành công cho Việt Hùng và Ngọc
Nuôi. Nghệ sĩ Việt Hùng có nhiều vai hát rất hay được khán giả và báo
chí ngợi khen, nhưng chỉ có vai hát cậu ấm Thân trong tuồng Đoạn Tuyệt
của Duy Lân được coi là vai hát để đời của anh. Trong thập niên 1955 đến
năm 1965, đoàn Thanh Minh Thanh Nga tập trung được nhiều diễn viên
thượng thặng của sân khấu cải lương và nhiều soạn giả thường trực nên
đoàn có nhiều tuồng tích hay lạ. Về diễn viên tài danh có kép Út Trà Ôn,
Hữu Phước, Thành Được, Việt Hùng, Hoàng Giang, Văn Ngà, Ba Xây, Minh
Tấn, Minh Điển, hề Kim Quang.
Có Năm Châu, Kim Cúc, Ba Vân, Phùng Há về
cộng tác với đoàn trong vài năm. Về phía đào có Út Bạch Lan, Thu Ba,
Ngọc Giàu, Ngọc Nuôi, Kim Giác, Thanh Nga, Hoàng Vân, Thanh Hiền, Thanh
Lệ, Ngọc Chúng. Giữa những diễn viên tên tuổi lẩy lừng đó, Việt Hùng
Ngọc Nuôi thật sự có tài nghệ khác thường mới đứng vững nổi trong đoàn.
Việt Hùng nhờ vóc to lớn, vẻ hào hoa
phong nhã nên thành công dễ dàng qua các vai dũng sĩ trong tuồng dã sử
như Biên Thùy Nổi Sóng, Tình Tráng Sĩ, Người Về Từ Cửa Biển, Nẻo Tắt
Hoành Sơn, Áo Gấm Khôi Nguyên. Nhưng vai để đời của Việt Hùng lại trái
với hình tượng mà lâu nay khán giả nghĩ về tài danh sân khấu này, đó là
vai Thân trong tuồng Đoạn Tuyệt. Việt Hùng thường đóng vai tráng sĩ,
dũng tướng, đẹp trai thì nay vào vai Thân, Việt Hùng thể hiện một cách
xuất sắc một cậu ấm ngốc nghếch, ngu si, sợ vợ. Vai Thân được Việt Hùng
biểu diễn với hình thức đi đứng chậm chạp, nói năng nhầy nhựa, sợ vợ
không dám nhìn thẳng vào mặt Loan, dù Loan rất dịu hiền. Thật là lối
diễn xuất hoàn toàn khác với cung cách xưa nay của Việt Hùng. Không ngờ
cách ca diễn như vậy lại đạt được
sự thành công quá sức tưởng tượng. Nhờ cách diễn đó mà tăng thêm phần
quái ác của bà mẹ chồng, bà Phán Lợi do bà Năm Sa Đéc diễn và cô em
chồng đanh đá do Ngọc Nuôi diễn.
Năm 1975, Việt Hùng cùng các con : Tài,
Năng, Ngọc Quý và Ngọc Châu trong Ban nhạc Crazy Dogs biểu diễn ở một
club Mỹ trong sân bay Tân Sơn Nhất, được phi cơ Mỹ bốc qua Mỹ. Anh không
thể về đón Ngọc Nuôi và hai con. Đến Hoa Kỳ sau khi ổn định cuộc sống,
Việt Hùng và nhạc sĩ Tám Trí chủ trương chương trình Thanh Âm Trìu Mến
tại đài Little Saigon đào tạo các thế hệ diễn viên trẻ Thu Hồng, Minh
Kiệt, Thanh Huyền.
Khi các diễn viên cải lương như Kim
Tuyến, Ngọc Đan Thanh, Linh Tuấn, Hương Huyền, Thành Được, Dũng Thanh
Lâm sang Mỹ thì Việt Hùng và các nhạc sĩ Chí Tâm, Văn Hoàng, Tám Trí hợp
với các nghệ sĩ mới đến Hoa Kỳ làm cho sân khấu cải lương vùng nam bắc
Cali thêm phần hứng khởi.
Việt Hùng đã thực hiện băng video cải
lương Tiếng Hạc Trong Trăng, Nửa Đời Hương Phấn, Lan và Điệp, và anh ca
vọng cổ hát cải lương trong các cuộc họp của cộng đồng Việt Nam định cư ở
hải ngoại. Ngày 27/7/2001, Việt Hùng kỷ niệm 80 tuổi đời, 60 năm tuổi
nghề. Nguyễn Phương từ Montreal qua dự, nghe Việt Hùng phát biểu và ca
hai câu vọng cổ. Tiếng hát của Việt Hùng vẫn còn sang sảng, làn hơi vọng
cổ vẫn còn âm hưởng của những ngày thuở thanh xuân. Nhưng ngày
31/12/2001, Việt Hùng từ giả cõi đời để về thiên trúc với pháp danh Minh
Chánh, đệ tử của hòa thượng Thích Giác Nhiên. (theo SG Nguyễn Phương)
Mai Trung Tín post
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire