Họa sĩ Nguyễn Gia Trí (1908 - 1993) sinh tại xã Trường Yên, huyện Chương Mỹ, Hà Tây.
Năm 1924, Trường Mỹ Thuật Đông Dương được thành lập tại Hà Nội, chỉ
trong một thời gian ngắn khoảng hơn mười năm, trường MTĐD đã đặt nền
tảng cho một nền nghệ thuật mới hình thành và phát triển ở Việt Nam.
Nguyễn Gia Trí vào học Trường Mỹ Thuật Đông Dương khóa 5, nhưng bỏ học nửa chừng, sau đó nghe theo lời khuyến
khích của họa sĩ người Pháp Victor Tardieu, ông trở lại Trường, theo
học khóa 7 vào năm 1931 và tốt nghiệp trường Cao Đẳng Mỹ thuật Đông
Dương năm 1936. Chỉ vài năm sau đó, Nguyễn Gia Trí đã trở thành một họa
sĩ nổi bật của trên đất Hà thành thời thập niên 40-50. Lúc đó đã có lời
truyền tụng trong ngành hội họa: nhất Trí, nhì Lân, tam Vân, tứ Cẩn
(Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Tường Lân, Tô Ngọc Vân, và Trần Văn Cẩn). Năm
1954, ông và di cư vào Nam.
Ở Sài Gòn, ông tiếp tục sáng tác và
đã để lại một sự nghiệp hội họa to lớn. Năm 1975, thấy sự thay đổi ở
Miền Nam quá phũ phàng, Nguyễn Gia Trí dường như không còn muốn sáng tác
nữa và ông sống ẩn cư cho đến lúc mất vào năm 1993.
(Ảnh: Bức tranh khắc gỗ “Kẻ khó không lo ba ngày Tết” in trên giấy dó, phụ bản Giai Phẩm Đời Nay, 1943)
Ad DTT
Nguyễn Gia Trí | |
---|---|
Họa sĩ Nguyễn Gia Trí |
|
Tên khai sinh | Nguyễn Gia Trí |
Sinh | 1908 Chương Mỹ, Hà Tây |
Mất | 20 tháng 6 năm 1993 Thành phố Hồ Chí Minh |
Quốc tịch | Việt Nam |
Lĩnh vực hoạt động | Hội họa, sơn mài |
Tác phẩm | Dọc mùng Thiếu nữ trong vườn Vườn xuân Trung Nam Bắc |
Miên man về sáng tạo – Nguyễn Gia Trí về Sáng tạo & Mỹ thuật
Xin
giới thiệu đến bạn đọc bút ký của “Hai chân dung lớn của nền mỹ thuật
Việt Nam với những suy nghĩ về Sáng Tạo và Công việc sáng tạo nghệ
thuật”
“Người ta không làm nghệ thuật
bằng sự thông minh” Trích Họa sĩ Nguyễn Gia Trí nói về sáng tạo – Nguyễn
Xuân Việt ghi – NXB Văn học, 1998
01.06.1975
Cứ vẽ, gặp cái gì vẽ cái đấy. Vẽ cho
nhanh, cho kịp cảm xúc của mình. Phải luyện mắt để nhìn, để thấy cái
đẹp. Vẽ làm sao phải tạo được cuộc sống, cuộc sống xanh tươi như hoa cỏ.
Nếu tự mình không cảm xúc, không sáng tạo, thì không ai có thể giúp
mình sáng tạo được.
05.01.1976
Đứng trước thiên nhiên và con người phải
xua đuổi mọi lý thuyết, giao cảm trực tiếp với con người và thiên nhiên
mình vẽ. Nên tạo sự thông cảm giữa giấy, mực, bút, chất liệu để làm nên
tác phẩm. Mỗi chất liệu có tiếng nói riêng, phải hiểu chất liệu của
tiếng nói ấy. Tính dân tộc không phải là lý thuyết, định kiến, nó từ
tình cảm và cuộc sống của mỗi người, mỗi dân tộc tạo nên.Bản chất và
tính cách của mỗi người họa sĩ hiện lên trên tác phẩm như thô bạo, trong
sáng hoặc khỏe khoắn, yếu ớt… Vẽ nhiều chất liệu, thể loại để mở mang
đầu óc.
28.03.1976
Cái chính là hướng vẽ đúng. Kỹ thuật
cũng giống như xe đạp anh dùng để đi. Chú ý nhiều đến xe thì sẽ trở
thành thợ máy. Phải có xe riêng của mình, tất cả kỹ thuật đều chỉ là
phương tiện. Khi vẽ phải vứt bỏ mọi thành kiến. Thành kiến đầy rồi thì
rót gì vào cũng chỉ tràn ra. Mỗi chất liệu có sở trường, sở đoản riêng.
Phải biết tận dụng nó. Người nghệ sĩ có sáng tạo, thì để tay vào cái gì,
cái ấy thành nghệ thuật.Hãy cứ đi mãi, làm việc mãi, đừng nghĩ đến
đích. Chỉ riêng tìm thấy chút cái đẹp mong manh, cũng là cả một quá
trình mệt nhọc của người nghệ sĩ. Khi vẽ là chúng ta sử dụng cái hữu
hình để nói cái vô hình. Sa lầy vào lý luận, cảm xúc văn học, là rất
nguy hiểm. Nhìn hình phải rõ hơn. Vẽ thế nào để người ta thấy: cây này
khác cây kia. Chủ yếu là do con mắt, nhìn hình chắc thì nét vẽ chắc, màu
chắc.
15.06.1976
Giữ tâm linh trong sáng. Đừng để nó bị
mờ đi vì tiền tài danh vọng. Tâm linh người nghệ sĩ là ngọn lửa nuôi
sống nghệ thuật, nuôi sống con người. Mỗi nghệ sĩ có bước đi riêng, và
phải là bước đi thực sự. Phải sống thực thì cuộc sống mới phát triển.
Những cây có hoa thơm, trái ngọt, là những cây thực sự sống. Sống mãnh
liệt, sống vui tươi. Nó có biết đâu từ khi nó nhỏ xíu, cho đến lúc nó ra
hoa, ra quả…điều phải đến sẽ đến, nếu anh biết sống và làm việc đúng
cách, dám đặt ra những cái lớn, để đi sâu vào, đi đến đích. Phải có đề
cao với mọi cám dỗ của tiền bạc, danh vọng. Tiền là cái để mình sống và
làm việc thuận tiện hơn, khi tạm đủ rồi thì phải hết sức xa rời nó. Đừng
bao giờ đem so sánh việc mình làm với người khác. Đi sâu vào thiên
hướng mình để tìm ra cái đẹp của riêng mình. Rất ít người có thể sống
trong hiện tại. Thường thì người ta sống vì quá khứ hoặc vì tương lai.
Người nghệ sĩ làm nghệ thuật, trong lúc làm, đó là họ đang sống hiện tại
với cái nghĩa đúng nhất. Làm nghệ sĩ phải chấp nhận đói rách, thiếu
thốn. Sáng tạo là mình phải vượt lên mình để tìm cái mới. Bắt chước mình
hôm qua là chết.
20.02.1977
Tìm tòi và sáng tạo với tất cả linh
tính. Không phải sáng tạo bằng mắt, bằng tay. Mà như người mù sờ soạng,
mò mẫm trong đêm tối, để tìm cái đẹp. Như người mẹ mang thai, không thể
bắt con mình là trai hay gái, đẹp hay xấu. Mà cầu mong ở con người mình,
ở chính phúc đức và chính thể chất của mình sẽ sinh ra đứa con lành lặn
và đẹp đẽ. Người nghệ sĩ không thể quyết định được tất cả. Nhưng người
nghệ sĩ có trong mình niềm tin là sẽ sáng tạo ra cái đẹp.
30.07.1977
Không nên áp đặt theo ý muốn, không nên
làm trái tự nhiên. Phải có bản lĩnh, phát triển hết sức sáng tạo của
mình. Không có vẽ giỏi, vẽ khéo, mà chỉ có vẽ bằng tâm huyết, không làm
xiếc. Trong nghệ thuật cũng như trong cuộc sống, có những người sống
trong tù quen rồi. Do đó họ không buồn, không băn khoăn vì sự mất tự do
của mình. Vẽ là phải cảm thấy tự do, trên tất cả các chất liệu mình sử
dụng. Học tập người khác, học để hiểu cái ý vì sao học vẽ như vậy? Còn
học hình, màu, cái nhìn thấy, là bắt chước cái vỏ của họ. Vẽ hiện đại là
vẽ từ thiên nhiên, từ con người mà ra. Còn những cái mình cho là hiện
đại bằng cách nghĩ ra, thì đã cũ rồi vì những cái ấy đã có. Cách làm
việc: cứ phát triển theo khả năng của mình. Như cây cỏ lớn lên, tuổi cây
có thọ, yểu: cây chuối vài tháng, cây mít năm mười năm. Con người cũng
vậy, phát triển chậm nhanh là ở mỗi người. Khi vẽ mình không cần ai
khen, không sợ ai chê, không cần bán. Mình làm với lương tâm và ý muốn
của mình. Tất cả là ở cái đầu mà ra. Không nên phân biệt trang trí với
hội họa.
26.11.1977
Người ta không thể truyền tình cảm của
mình vào tranh. “Hữu xạ tự nhiên hương”. Tự trong mình có cái gì thì sẽ
truyền ra như thế. Nghệ thuật là tạo sự thăng bằng. Tình cảm thăng bằng,
bố cục thăng bằng. Những tình cảm khác trong cuộc sống thì nên tiết
chế. Làm nghệ thuật là để tránh cái ngu xuẩn. Nghệ thuật là tìm tòi. Nếu
người ta biết hết cái đẹp rồi thì cần gì phải tìm tòi, cần gì phải vẽ
nữa.
22.06.1978
Tình cảm như dầu xăng, cho vào máy thì
máy chạy, nếu đổ ra đất thì chỉ là nước. Phải biết điều khiển, điều hòa
nó. Học nghệ thuật là phải tự học lấy. Mỗi người có một linh tính. Phải
theo sự hướng dẫn của linh tính. Lý luận chỉ bó hẹp trong phạm vi nào
đó. Còn linh tính thoát khỏi mọi thứ. Đi học phải biết chọn thầy, chọn
bạn. Phải biết bảo vệ linh tính của mình. Không để ai đụng chạm đến linh
tính. Một ông thầy đụng chạm đến sáng tạo linh tính của học trò là một
ông thầy dốt. Việc chọn lựa dù theo chất liệu nào phải tự mình nghĩ lấy.
Thứ nào hợp với mình thì mình theo, không nghe ai cả. Ở nước mình sơn
dầu hay bị mốc. Tranh trừu tượng là một ngôn ngữ mới, có làm mới hiểu.
Nếu định mười năm nữa sẽ vẽ trừu tượng thì không được đâu. Cái ấy do làm
việc mà dẫn đến. Người nghệ sĩ làm việc theo linh tính chứ không theo
lý luận. Làm việc càng nhiều thì linh tính càng bén nhạy. Việc tiến đến
những cái lớn như người nhen ngọn lửa, lúc đầu nhỏ sau lớn dần. Những
bức tranh đã làm xong không quan trọng. Quan trọng là lúc đang làm. Sau
khi làm xong nó như bài tập đã hoàn thành. Phải hướng đến cái khác.
Trước kia, “Manet” đi tìm hứng khởi ở tranh Nhật Bản, Picasso đi tìm
hứng khởi ở tượng da đen. Mỗi cái mình nhìn, mình xem đều học được một
cái gì đó. Mỗi họa sĩ có con đường đi riêng, không ai giống ai, Picasso
mà vẽ lại Picasso cũng là trang giả của Picasso. Giữa xã hội và nghệ sĩ
như cây với đất, hai thứ ấy nuôi sống lẫn nhau. Giữa tranh cổ điển và
tranh trừu tượng, thứ đi bằng chân, thứ đi bằng đầu. Một thứ là ngôn ngữ
phổ biến. Một thứ là ngôn ngữ mới nảy sinh. Với ngôn ngữ thông thường
nói với nhau còn khó hiểu, huống chi nói bằng ngôn ngữ hội họa. Với
người học vẽ đến cao đẳng, thầy dạy đã là một thứ vướng víu. Chọn thầy
mình thích và tranh mình thích và xem.
26.11.1978
Nghệ thuật là đi tìm cái thực. Con người
mình như thế nào thì nó hiện ra như thế. Không giấu diếm làm giả mạo
được. Lúc nào cũng là người đi học. Mỗi tranh làm ra chỉ là phương tiện
để mình học, làm việc. Từ công việc mà suy nghĩ, tìm tòi hướng phát
triển. Bạn bè, thầy giáo giúp đỡ chỉ là thứ yếu. Tự mình đi là chính.
Như cây mọc lên. Từ cái mọc của nó mà rút ra kinh nghiệm. Xem tranh, học
ở tranh người khác, phải có trình độ thì mới hiểu được, thấy được vấn
đề. Xem nhiều có cái ảnh hưởng lớn cái không đẹp của người ta. Nói chung
phải làm việc nhiều. Sử dụng chất liệu này chán, thì chuyển sang chất
liệu khác. Người ta không làm nghệ thuật bằng sự thông minh.
(Bút kí được đăng lại với sự cho phép của họa sĩ Nguyễn Xuân Việt )
Ngày 28/6 vừa qua, Bảo tàng Mỹ thuật TP.HCM (97A Phó Đức Chính, Q.1) đã khai mạc triển lãm Những phác thảo của họa sĩ Nguyễn Gia Trí trong sưu tập Bảo tàng Mỹ thuật, gồm 73 bức - phần nào phác họa được diện mạo và sức làm việc bền bỉ của danh họa này. Bên cạnh sự kì công và niềm hân hoan mà triển lãm đã mang lại cho công chúng, thì vẫn còn đó những băn khoăn, không chỉ cho bảo tàng, mà cho cả nền nghệ thuật hiện đại Việt Nam. Đơn cử như câu hỏi: Di sản nghệ thuật của Nguyễn Gia Trí rất đồ sộ, vậy bây giờ có thể xem ở đâu?
Nhiều tư liệu để lại cho thấy những năm 1970, tài sản của Nguyễn Gia Trí là hàng ngàn cây vàng, nhưng ông đã dành gần như toàn bộ cho sáng tạo sơn mài, đến khi ra đi, ông chỉ còn vài tấm tranh cùng phác thảo và căn nhà dột mưa ở TP.HCM. Chi tiết này cho ta thấy tài sản sơn mài của ông là không ít, nhưng hiện nay tại Việt Nam không còn nhiều, qua lại chỉ khoảng 5-7 tranh khổ lớn, 15-20 bức khổ nhỏ, phần lớn những bộ tranh 3 tấm, 4 tấm, 5 tấm, 6 tấm tiêu biểu của đời ông đã ở nước ngoài.
Từ cuối thập niên 1980, tranh của Nguyễn Gia Trí đã được xem là di sản quốc gia, cấm mang ra khỏi Việt Nam, nhưng đây đó vẫn có những móc nối để giao dịch. Nhìn mặt tiêu cực thì việc này cho thấy hiện tượng chảy máu nghệ thuật vẫn liên tục, nhưng nhìn ở khía cạnh khác, cho thấy tác phẩm của Nguyễn Gia Trí vẫn đầy hấp lực trên thị trường. Nếu không nhờ thị trường nhanh chóng săn đón (từ thập niên 1940), chắc chắn vị thế của Nguyễn Gia Trí trong biểu đồ nghệ thuật quốc tế và lịch sử nghệ thuật Việt Nam sẽ không lớn lao như ngày nay.
Danh họa Nguyễn Gia Trí. Ảnh NC
Triển lãm Những phác thảo của họa sĩ Nguyễn Gia Trí trong sưu tập Bảo tàng Mỹ thuật là một nỗ lực đáng khen ngợi của Bảo tàng Mỹ thuật TP.HCM, khi mà họ đã chứng tỏ được hai điều: Cố gắng sưu tập và cố gắng quảng bá. Bên cạnh 73 phác thảo, mà nhiều bức có thể đứng độc lập như một tác phẩm, triển lãm còn giới thiệu lại những tư liệu, bài viết, hình ảnh… để người xem hiểu hơn về danh họa. Tuy nhiên phần lớn những phác thảo này không có tên và không ghi năm hay giai đoạn sáng tác, một chi tiết gần như bắt buộc để hiểu về con đường nghệ thuật của Nguyễn Gia Trí.
Thiếu sót này cho thấy bản thân danh họa cũng không chú trọng việc ghi chú; mà Việt Nam lại đang thiếu những nhà nghiên cứu lịch sử mỹ thuật để xác định thời gian, danh tính. Cho nên, khi sưu tập xong, bảo tàng chỉ còn biết “để nguyên hiện trạng” mà trưng bày, không thể tự tiện thêm bớt.
Về phong cách, Nguyễn Gia Trí chịu ảnh hưởng từ chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa ấn tượng của châu Âu cho tới phong cách thủy mặc, dân gian, truyền thống mỹ nghệ của châu Á và Việt Nam. Thập niên cuối đời, ông còn đi sâu vào chủ nghĩa trừu tượng, một phong cách mà ông từng thể nghiệm qua vài tác phẩm từ sau năm 1954. Vì không xác định được thời gian của phác thảo, nên triển lãm chấp nhận phân loại tàm tạm, đôi khi lộn xộn, để trưng bày; có phòng gồm cả phong cách hiện thực và trừu tượng.
Tác phẩm Vườn Xuân Trung Nam Bắc tại Bảo tàng Mỹ thuật TP.HCM
Chính vì vậy, đi giữa một không gian trưng bày bề thế, với đa số các phác thảo còn lành lặn, vậy mà vẫn cảm thấy bơ vơ. Bơ vơ vì nó chỉ giúp người xem hình dung một phần về thẩm mỹ của tác giả, mà chưa giúp định hình được quá trình và lịch sử sáng tác. Điểm này rất cần sự tiếp tay bổ túc của nhiều nhà nghiên cứu và cả những người như Nguyễn Xuân Việt, được xem là học trò cuối cùng của Nguyễn Gia Trí (?).
Tác phẩm Giáng sinh tại tu viện Mai khôi
Chưa có một con số chính xác về số tác phẩm mà Nguyễn Gia Trí đã sáng tác, nhưng có một ước đoán: phần lớn tác phẩm của ông đang được lưu trữ ở nước ngoài.
Một số tranh sơn mài đáng chú ý của Nguyễn Gia Trí trong giai đoạn 1938 đến trước 1945 là: Chợ Bờ, Dọc mùng, Bên hồ Gươm, Đêm Bồ Tùng Linh, Khỏa thân, Cảnh thiên thai, Chùa Thầy, Đèn Trung thu, Thiếu nữ bên hồ sen, Giáng sinh… Đặc biệt bức Thiếu nữ trong vườn, gồm 6 tấm, tổng cộng 12m2, bán cho ông Giám đốc Sở Điện - Nước miền Bắc Đông Dương.
Nếu bạn ở TP.HCM, thì có thể xem một số tác phẩm nổi tiếng của ông. Đầu tiên là mua vé vào Bảo tàng Mỹ thuật TP.HCM, nơi trưng bày bức Vườn Xuân Trung Nam Bắc (200 x 540cm), gồm 9 tấm, từng được bảo tàng này mua với giá 600 triệu đồng, tương đương 100 ngàn USD hồi 1991.
Theo nhà thơ Hoàng Hưng: “Lúc tranh (Vườn Xuân Trung Nam Bắc) đang làm dở, có người trả 14 lượng vàng ông không chịu bán. Mãi cho đến năm 1990, khi UBND TP.HCM quyết định mua tác phẩm, nó vẫn chưa hoàn chỉnh như ý đồ của họa sĩ. Một phần vì khó khăn về nguyên liệu (bà Trí phải bán dần vóc và son để mua từng thếp vàng cho tranh). Phần quan trọng là vì họa sĩ bắt đầu lâm bệnh: trận tai biến mạch máu não đầu tiên xảy ra vào năm 1988, sau đó còn hai lần nữa trước khi ông qua đời. Do đó khâu làm vàng mặt tranh ông phải giao phó cho học trò là Nguyễn Xuân Việt”, trích từ bài Nguyễn Gia Trí, bậc đạo sư của sơn mài nghệ thuật. “Dấu ấn” của Nguyễn Xuân Việt và vài chỗ chưa hoàn chỉnh trong tác phẩm hiện vẫn còn nhìn thấy, ví dụ như áo dài mất màu của thiếu nữ trong tấm thứ 4, hay của cây đàn tranh trong tấm thứ 5, từ trái sang. Tuy vậy, tác phẩm này vẫn xứng đáng là kiệt tác của sơn mài Việt Nam.
Tác phẩm nổi tiếng Thiếu nữ bên cây phù dung tại Bảo tàng Đức Minh
Nếu
không nhờ thị trường nhanh chóng săn đón, chắc chắn vị thế của Nguyễn
Gia Trí trong biểu đồ nghệ thuật quốc tế và lịch sử nghệ thuật Việt Nam
sẽ không lớn lao như ngày nay
|
Một tác phẩm nổi tiếng khác là Thiếu nữ bên cây phù dung (129 x 176cm, 1944), hiện được nhà sưu tập Bùi Quốc Chí treo ở Bảo tàng Đức Minh (31C Lê Quý Đôn, Q.3, TP.HCM).
Ngoài ra, Nguyễn Gia Trí còn có một số tác phẩm tiêu biểu sau năm 1954 như Hai Bà Trưng, Trận Bạch Đằng, Địa linh hoán tượng, Ba Vua… Nguyễn Gia Trí còn là nhà biếm họa sắc sảo, nhà đồ họa quan trọng trong lịch sử mỹ thuật Việt Nam
“Thầy” của Nguyễn Gia Trí
Họ
là Joseph Inguimberty (1898 -1971) và Alix Ayme (1894-1989), những
giảng viên đầu tiên của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Thử hỏi,
nếu ban giám đốc trường không thông qua và những họa sĩ như Joseph
Inguimberty, và đặc biệt là Alix Ayme, không có quyết tâm nghiên cứu,
giảng dạy sơn mài, liệu Nguyễn Gia Trí có nhanh chóng đưa sơn mài mỹ
nghệ thành sơn mài nghệ thuật không? Chắc là không!
Trong cuốn Mỹ thuật hiện đại Việt Nam
(NXB Mỹ thuật, 1996), trang 23, họa sĩ Quang Phòng viết: “Trong sự phát
triển sơn mài, Joseph Inguimberty là người có công rất lớn. Ông nghiên
cứu sâu sắc về chất “sơn An Nam” (laqued’Annam) và sành sỏi không kém gì
bác Phó Thành (tức nghệ nhân sơn mài Ðinh Văn Thành 1898–1977), người
mà ông gần gũi trong suốt 20 năm dạy học ở Hà Nội. Nguyên là giảng viên
chính môn sơn dầu, ông chểnh mảng nhiệm vụ để chỉ say sưa triền miên
theo dõi các sáng tác sơn mài của sinh viên, hướng dẫn họ các giải pháp
hiệu quả nhất trong việc thể hiện những cảnh người gồng gánh qua đình,
qua quán, qua cầu, trên đồng ruộng, những đề tài mà ông thích thú thể
hiện bằng sơn dầu...”.
Alix Aymé đang làm sơn mài
Người
có ảnh hưởng (nhất là về cảm hứng sơn mài) đến Nguyễn Gia Trí là Alix
Ayme, đương thời nữ họa sĩ này sáng tác nhiều tranh sơn mài. Bà giảng
dạy trong các năm 1934-1939, còn năm mà Nguyễn Gia Trí tốt nghiệp là
1936. Cũng xin nói thêm, Nguyễn Gia Trí học Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
hai lần: khóa 4 (1928 - 1933), nhưng nghỉ nửa chừng, sau đó học lại
khóa 7 (1931 - 1936), tốt nghiệp bằng một tác phẩm lụa.
Trong cuốn L’Indochine: Un Lieu D’écharge Culturel? Les Peintures Française Et Indochinois (Đông
Dương: nơi giao lưu văn hóa? Những họa sĩ Pháp và chuyến du hành sang
Đông Dương) xuất bản tại Paris năm 1997, trang 164, nhà nghiên cứu
Nadine Andre-Pallois cho biết: ngoài việc vẽ sơn mài, Alix Ayme còn viết
rất nhiều bài nghiên cứu lịch sử và kỹ thuật sơn mài ở Trung Quốc, Hàn
Quốc, Nhật Bản, An Nam, in trên các tạp chí chuyên ngành ở Pháp và để
giảng dạy cho sinh viên.
|
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire