Chân Dung
Việt Nam Sau Ngày 2-9-1945
(Tiếp
theo – Bài 3)
GS Bút
Xuân Trần Đình Ngọc
Những vụ tàn sát các chiến sĩ Quốc gia
do ông HCM và đảng VM chủ trương thì phải nói xẩy ra suốt hơn nửa thế kỷ kể từ
ngày ông HCM tuân lệnh Quốc tế CS (Comintern) thành lập đảng CS Đông Dương ngày
3-2-1930 kéo dài cho đến sau ngày cưỡng chiếm được Sàigòn, 30-4-1975 và sau đó
cả vài, ba chục năm, đến nay cũng vẫn còn những tù nhân chính trị như Đại Úy
Nguyễn hữu Cầu, tù nhân lương tâm đã ở trong tù CS gần 40 năm, mắt đã gần mù và
thân thể chỉ còn thoi thóp, nhưng vẫn chưa được thả.
Người ta nhớ lại, cuộc chính biến tháng
10 năm 1917 (chứ không thể gọi là cuộc cách mạng, một sự lạm dụng từ ngữ) tại
Nga Sô lật đổ Nga hoàng (czar) và nền quân chủ phong kiến, một tay đồ tể Stalin
đã giết hơn 20 triệu dân Nga không theo y. Ở Hoa lục, số nạn nhân CS lên đến
trên 65 triệu, những cuộc thảm sát hàng loạt vô cùng kinh hãi vì quá dã man. Một
nước rất nhỏ như Căm bốt, Khmer Rouge, Khờ Me Đỏ do Pol Pot và Ieng Sari, Dutch
v.v…cũng giết gần 2 triệu dân Căm bốt, 1/6 hay 1/7 tổng dân số. Còn Hồ chí
Minh, báo Ba Lan xếp hạng ông ta vào những đồ tể có nợ máu với nhân dân thế giới:
HCM đã giết 1.7 triệu người Việt chưa kể quân lính ngoại quốc như Mỹ, trên
58,000 và cả quân Tàu Cộng hàng nhiều chục ngàn khi sang đánh hôi cho CS Bắc Việt
với số quân đổ vào là 320,500 người theo như báo chí Trung quốc tự khai cùng với
nhiều chục tỉ Mỹ kim quân viện cho Bắc Việt. Tuy nhiên tổng số nạn nhân của HCM
cả thảy là 10 triệu người bị giết trong 4 cuộc chiến (có 800,000 chết biển và rừng)
do HCM gây ra chứ khg chỉ là con số 1.7 triệu do báo chí Ba lan hài ra như
trên.
Ở Bắc Việt những năm từ 1945 trở về sau,
chỉ xin nêu tượng trưng những cái tên như vụ VM tấn công bất thình lình và giết
người QG ở phố Ôn như Hầu Hà Nội, các lãnh tụ Trương tử Anh, Lý Đông A và nhiều
chiến sĩ VNQDĐ, Đại Việt và nhiều đảng phái khác bị giết không kịp trở tay. VM
cũng thanh toán các đảng viên đệ tứ CS (Trotskyst) như Hồ văn Ngà, Phan văn
Hùm, Trần văn Thạch v.v…và nhất là vụ thủ tiêu Đức Thày Huỳnh Phú Sổ, vị Giáo
chủ và sáng lập đạo Hòa Hảo tại vùng Hậu Giang Nam Phần.
Vụ Quỳnh Lưu khởi nghĩa, VM cho cả Sư
đoàn do Văn tiến Dũng làm tư lệnh, bao vây giết sạch cả ông bà già và con nít;
vụ tín đồ Cao đài ở Quảng Ngãi bị tàn sát cả ngàn người, vụ Thanh Bồ - Đức Lợi,
vụ Tết Mậu Thân (1968) 7 ngàn dân vô tội tại Huế bị giết rồi đẩy xuống hố chôn
tập thể v.v…Ngày nay, ngày Tết Nguyên đán vẫn là ngày thân nhân đội khăn tang,
kêu khóc trước bàn thờ những người đã bị giết oan (thợ mộc, thợ hồ, con nít,
ông già bà cả, thanh niên xứ đạo CG, Linh mục, GS ngoại quốc đang dạy Đại học
Huế v.v…)
Trong thập niên 50 không có những vụ tàn
sát tập thể tại miền Bắc (ngoại trừ Quỳnh Lưu, Nghệ An 1956) nhưng những người
làm việc cho CP Quốc gia như Xã trưởng, Trưởng Ấp, Cảnh sát, Cán bộ nông thôn,
Trùm, Trưởng người CG, Linh mục, Thầy giảng v.v…đã bị giết hại rất nhiều. Xã
T.B bên cạnh làng tôi chỉ vài tháng VM thủ tiêu hai Xã trưởng QG, người này chết,
người khác lên thế cũng bị giết luôn. Thật quá dã man và vô nhân đạo! Nhiều Xã,
thôn khác tại Bắc Việt, ngay cả huyện, phủ cũng bị những cuộc sát hại đó vì Việt
cộng chỉ muốn độc quyền cai trị và độc quyền “yêu nước”, không muốn bất cứ ai
ngoài họ được tham dự vào việc nước. Với họ, chẳng thà họ dùng bọn ngu si thất
học hay bọn du thủ du thực cong lưng theo họ, bảo gì nghe nấy, cho làm chức việc
làng xã, ngay cả phủ huyện còn hơn là để cho người có học, có tư cách, thương
yêu dân làm, mà lại là người có tinh thần QG và nhất là chống lại họ. Đó là cái
chính sách sai lầm và thiệt thòi vô cùng tận cho nước Việt và con dân Việt.
Chính bởi cái lòng dạ hẹp hòi này mà tới nay, Việt Nam vẫn còn là một trong 10
nước nghèo và lạc hậu nhất hành tinh. Xã hội VN tha hóa, tham nhũng, dốt nát,
dân chúng nghèo đói cực khổ, chưa biết bao giờ thoát ra khỏi cảnh lầm than cơ cực.
Sự hi sinh của quân, dân hai miền Nam, Bắc từ gần nửa thế kỷ nay trôi ra sông
ra biển ngay cả những cái chết vì bom đạn của gần 10 triệu dân Việt trong 4 cuộc
chiến thảm khốc cũng trở nên vô nghĩa!
Các
Phòng Thông Tin Tuyên Truyền Sau Tổng Khởi Nghĩa
Sau ngày 19-8-1945, tôi đã đi coi nhiều phòng
triển lãm tại Hà Nội và cảng Hải Phòng của chính phủ Việt Minh. Các phòng triển lãm này chủ yếu trưng
ra tội ác do thực dân Pháp và quân phiệt Nhật gây ra cho đồng bào ta.
Hình
ảnh đầu tiên đập ngay vào mắt người coi là nạn đói Ất Dậu, cao điểm là tháng Ba
năm 1945 với 2 triệu người chết đói. La liệt những bộ xương người thật, đầu lâu
trơ sọ, cảnh chụp các thây người chết đói phu hốt rác thảy lên các xe rác thành
phố đem đi chôn tập thể. Hình vẽ lớn cảnh các người mẹ nằm chết, chuột bọ đang
rúc rỉa trong khi đứa con dăm tháng còn cố day vú mẹ. Hình chụp hàng đoàn người
gầy trơ xương, y như những bộ xương cách trí biết đi, mặt mày nhăn nhúm, quần
áo rách nát đi lang thang trên đường về nơi vô định, theo sau là những đứa trẻ
chậm chạp, gầy gò có lẽ chỉ một lát nữa là gục xuống đường vì đã quá mệt vì
đói. Hình chụp những ngôi làng vắng hoe, chẳng còn người, chó mèo cũng không và
vài cái bộ xương cách trí còn đi được đang ngất ngưởng loạng choạng đi kiếm xem
có còn gì bỏ vào bụng may ra kéo dài thêm vài ngày nữa kiếp sống. Dân thành phố
có một số may mắn chưa trải qua cơn đói thập tử nhất sinh đó nhưng bất cứ ai, kể
cả người ngoại quốc nhìn những hình ảnh thực này cũng phải lạnh xương sống. Những
phụ nữ yếu bóng vía như chị tôi thì chỉ nhìn thoáng rồi tránh xa dù đó chỉ là
hình ảnh được ghi lại. Vì sao? Vì nó tang thương, đau đớn quá, không bút mực
nào tả xiết và nhìn lâu ắt phải khóc vì họ cũng là người như mình, đồng bào ruột
thịt, họ phải trải qua cái đói thảm thiết chưa từng bao giờ thấy. Bạn đọc qua
những con số thống kê này là biết:
Trích:
Hồi Ký Tháng Ba Đói (cùng tác giả
TĐN)
…Nhật cũng ép Pháp phải
ký một thỏa ước thương mại với Nhật, ngoài những ưu tiên Nhật được khai thác
như mỏ than, thủy điện v.v...Pháp còn phải cung cấp cho Nhật:
Năm 1941 700,000 Tấn gạo (T) Pháp chỉ giao được 585,000T
1942
1,050,000T
“ 973,908T
1943 1,125,000T “ 1,023,470T
1944 900,000
T
“ 500,000T
Cộng chung, số gạo Pháp giao cho Nhật là 3,081,378T
Ðể có hơn 3 triệu tấn gạo
này, nông dân Việt phải sản xuất hơn 6 triệu tấn thóc, chưa kể thóc ăn để làm
mùa và làm giống, tức phải có trên 10 triệu tấn thóc trong 4 năm. Với một số
dân nhỏ nhoi lúc đó, nông cụ thô sơ, làm thế nào để có được số thóc như Nhật và
Pháp qui định cho khỏi tù tội, tịch biên gia sản? Nông dân miền Bắc chết đói là
lẽ đương nhiên. Gia đình nào có 40 tạ
thóc chẳng hạn, phải bán cho Pháp 30 tạ tức ¾ số thu hoạch, nếu không đủ phải
mua ngoài để bù vào, với giá 200 đồng/tạ trong khi Pháp chỉ trả 25đ/tạ.
Về giá cả, do áp lực của Nhật và cũng do Pháp thiếu tiền để
mua vì Nhật bắt cung cấp “chùa” mà không trả tiền, Pháp đã ép giá nông dân Việt
cả về gạo, thóc và đay gai.
Giá thị trường lúc đó khoảng 200 đồng Ðông Dương một tạ
(100kg) thóc; nhưng như trên đã nói, Pháp chỉ trả nông dân ta 25 đồng trong khi
giá vốn đã 80 đồng.
Sưu
cao thuế nặng, dân Việt è cổ ra đóng cho Pháp, Pháp lấy tiền đó mua gạo hối lộ
cho Nhật để được yên thân. Khi Nhật chưa đến Ðông Dương (1939), Việt Nam chỉ
đóng 44,308,000 đồng tiền các thứ thuế; đến năm 1944 thuế tăng hơn gấp đôi:
98,072,000 đồng.
Dù vậy, Pháp vẫn phải in thêm tiền Ðông Dương để cung ứng cho
các nhu cầu của quân đội Nhật. In thêm tiền có nghĩa lạm phát. Năm 1943, số tiền
lưu hành là 723 triệu, gấp 7 lần Ngân sách Ðông dương 4 năm trước đó và đến
1944 lên đến 1 tỉ 52 triệu đồng. Vì vậy vật giá tăng cao, người dân Việt sống
trong thời kì gạo châu, củi quế. Người dân quê lúc đó có câu đồng dao:
Ba đồng, gạo tẻ một
thưng
Mẹ con chết đói vì chưng không tiền.
Lạm phát, tiền nhiều trong tay thực dân
và quân phiệt, đâu có đến tay nông dân nghèo khó Việt nên chỉ 3 đồng một thưng,
một đấu gạo mà mẹ con vẫn chết đói.
Ngoài gạo, Nhật cũng đòi Pháp phải cung cấp ngô (bắp) để nuôi
ngựa, lừa Nhật dùng để thồ chiến cụ.
Năm
1942: Pháp giao 124,923 tấn ngô; 1943: 98,700 tấn; 1944: 18,263 tấn; đầu năm
1945: 12,134 tấn.
Theo tài liệu của Toàn quyền Decoux, làng Thượng Cẩm, huyện
Thái Ninh, Thái Bình có 4000 người chết còn 2,000, trong đó có 900 suất đinh
(trai tráng) chết còn 400. Sau tết Ất Dậu (1945), có ngày 20,000 người chết
trong lúc đó, lừa ngựa Nhật vẫn được no đủ.
Cũng theo tài liệu của Toàn quyền Decoux:
tỉnh Thái Bình
dân số 700,200 chết 260,000
Vựa thóc Nam Ðịnh 680,000 “
229,650
tỉnh Ninh Bình 200,000 “
37,936
tỉnh Hà Nam 400,000 “
50,383
Văn phòng Toàn quyền
Decoux tổng kết 1 triệu người Bắc Việt chết đói nhưng con số thực phải cao hơn
nhiều.
Cũng nói thêm, vừa phần trong Nam không có chương trình cứu
đói ngoài Bắc vì Pháp, Nhật lơ là đã đành, Chính phủ Nam triều do vua Bảo Ðại cầm
đầu cũng để mặc dân chết đói. Hai triệu người chết, không lẽ hoàng đế đang nắm
quyền cai trị không biết. Cho dù ông ở Huế,
quan Khâm sai đại thần, quan Tổng
trấn Bắc kỳ lại không báo cáo hằng ngày cho ông thảm cảnh người chết đói la liệt
ở Hà nội, Hải phòng, Nam định, Thái bình, Hà Nam, Phủ lý và ở mọi vùng thôn quê
trên đất Bắc và Bắc Trung Việt như Thanh hóa, Nghệ an, Hà tĩnh vv... Nếu ông không
biết, ông đắc tội với Dân tộc, nếu ông biết mà ngồi nhìn cho thần dân của ông
chết đói, ông vừa là một ông vua bù nhìn vừa đắc tội với thần dân của ông. Hết trích
Các Phòng Triển lãm của
VM khai thác tối đa về nạn đói làm đồng bào ta chết gần 2 triệu người. VM lên
án Pháp, Nhật và vua Bảo Đại cũng như chính phủ Trần trọng Kim đã để dân chết
trong khi chính VM cũng góp tay trong việc tịch thu nhiều tấn thóc của nông dân
dùng để ăn cầm cự và làm mùa. VM dùng thóc này để nuôi quân vì cũng có nhiều
người dân cùng đường đành phải xung phong theo VM kiếm cái ăn cho đỡ chết, chờ
thời, nhưng khi đã vào thì rất khó ra vì đó là qui luật của đảng để giữ đảng
viên trong lúc VM đang cần rất nhiều nhân lực để đánh Pháp với vũ khí tối tân
và nhiều hơn gấp bội.
Kế đến các Phòng Triển Lãm kể tội ác của thực
dân Pháp trong việc đánh sưu cao thuế nặng, thuế thân, thuế ruộng, thuế điền thổ,
thuế chợ, thuế nhà, làm xâu, bắt lính v.v... Rồi chính sách ngu dân làm dân tộc
ta mù chữ, lạc hậu, thụt lùi, con cái nông dân không được đi học, đành chịu dốt
nát kéo dài kiếp nô lệ hết thế hệ này sang thế hệ khác. Căm giận thay! Rồi nạn
cường hào ác bá tham nhũng thối nát đục khoét dân lành, xách nhiễu người dân đến
từng lon gạo, mớ khoai, điếu thuốc mỗi khi phải đi xin chúng chứng nhận giấy tờ,
sổ gia đình v.v.... Ác nhất là bọn Mật thám, Sen đầm Pháp mà VM gọi là bọn chó
săn, bọn Việt gian theo Tây liếm gót giầy Tây
rình rập, theo dõi ngày đêm, để ý từng cử động nhỏ nhặt của dân, bắt bớ
những nhà hoạt động cách mạng như đảng trưởng Nguyễn Thái học và 12 liệt sĩ Yên
Bái, như ông Phan bội Châu, Phan chu Trinh, Hồ chí Minh, ông Nguyễn hải Thần,
các đồng chí trong đảng VM v.v...(được ca tụng nhiều nhất trong khi họ nói rất
ít về VNQDĐ và các đảng QG). Rồi bọn thực dân và chó săn tra tấn dã man các nhà
cách mạng của ta, treo ngược lên xà nhà, thủ tiêu, tù đầy Sơn La, Lai châu, Lao
Bảo, Hỏa lò Hà Nội...không có ngày ra!
Guồng máy cai trị của Pháp thì tham nhũng thối
nát, xách nhiễu dân lành, bất công xã hội đầy dẫy khắp mọi nơi khiến dân chúng
nghèo nàn cơ cực mà chỉ làm giầu cho một bọn tham quan ô lại làm việc cho Pháp
và đi sát hoặc buôn bán với Pháp.
Những
phòng triển lãm này có mặt ở khắp các thành phố lớn như Hà Nội, Hà Đông, Hải
Phòng, Nam Định, Thái Bình, Hưng Yên, Hải dương v.v... Đã sẵn căm thù Pháp thực dân bóc lột tận
xương tuỷ, nay lại được nhìn chính những hình ảnh dã man của chúng vì thế lòng
dân oán giận, thề phải phanh thây uống máu giặc Pháp mới hả... Và vì thế Tổng
Khởi Nghĩa bùng lên, Cách Mạng ra đời dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ chí Minh
và đảng Việt Minh để mang lại cho toàn dân Việt một cuộc sống no ấm, yên vui,
công bằng xã hội, xoá đi cảnh giầu nghèo quá cách biệt người ăn không hết người
lần không ra, xoá đi cảnh người trù dập, hà hiếp, bắt nạt người, xoá đi những
tàn tích xấu xa của thực dân phong kiến để nâng cao dân trí, thực thi Dân chủ,
sống đời Tự do vì Hồ Chủ Tịch tuyên bố: “Không gì quí bằng Độc lập và Tự Do”.
Những
phòng Thông Tin này mở cửa sáng đêm và hiện diện tại các thành phố cả 6 tháng
cho đến 1 năm khi không còn người vào xem. Rập khuôn theo các nước CS đàn anh,
VM làm công tác thông tin tuyên truyền y hệt như các nước đó và họ đã thành
công mỹ mãn dù có nhiều điều không bắt nguồn từ Sự Thật nếu Sự Thật có hại hay
làm giảm uy tín của “cách mạng”!
Ở thôn
quê ban thông tin tuyên truyền Xã, Thôn v.v…làm những cái chòi cao cả chục mét,
có thang để trèo lên. Cứ mỗi tối, khoảng 7 giờ chẳng hạn, ban thông tin lên đó
đọc tin tức và những bài bình luận hay lệnh lạc từ cấp trên cho cả thôn, cả
xóm, cả làng cùng nghe. Xen giữa những bài đọc là các ca khúc mà ai cũng thuộc
lòng:
Bao chiến
sĩ anh hùng…, Người người đều mong du kích quân, du kích quân….Một mùa thu năm
xưa cách mạng tiến ra đất Việt….
Phát
thanh như vậy cho đến khuya lắc khuya lơ mới thôi. Vì mỗi tối đều có nhiều bài,
theo chỉ thị, được nhắc đi nhắc lại cho mọi người hiểu rõ nghĩa vụ công dân
trong một nước Độc lập như ngày nay. Nó hoàn toàn không giống một chút nào với
những công dân nô lệ như trong thời Pháp thuộc (mới thoát ra khỏi ít lâu nay
thôi).
(còn tiếp)
GS Bút Xuân Trần Đình
Ngọc
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire