Cái thú của audio book là không cần mang kính vẫn theo dỏi được những câu chuyện dài và vừa làm được việc khác , như nấu ăn, hay lên giường tắt đèn mà có ai đó vẫn tiếp tục kể chuyện cho mình nghe qua đêm đen ...
CRTH
Vào nghe thế giới
Vòng tay Học Trò (Nguyễn Thị Hoàng)
Nguyễn Thị Hoàng (sinh 1939) là một nhà văn, nhà thơ
nữ Việt Nam.
Bà sinh ngày 11 tháng 12 năm 1939 tại Huế thuộc Liên bang Đông Dương.[1] Năm 1957, bà chuyển vào sinh sống ở Nha Trang rồi đến năm 1960 bà vào Sài Gòn học Đại học Văn khoa và Luật nhưng bà bỏ ngang, không học hết mà lên Đà Lạt dạy học. Đến năm 1966, bà chuyển sang chuyên tâm viết tiểu thuyết.[1]
Cùng với văn xuôi, Nguyễn Thị Hoàng còn tham gia sáng tác thơ và từ đó bà trở thành một người nổi tiếng trong giới văn nghệ chuyên viết về những mâu thuẫn nội tại của giới trẻ Sài Gòn trong suốt thập niên 1960.[2] Theo Phạm Chu Sa, Nguyễn Thị Hoàng là một trong những nhà văn nữ tài năng thật sự và tên tuổi đã được khẳng định ở miền Nam trước 1975. Bà có những tiểu thuyết với giọng văn trau chuốt bóng bẩy và là một trong vài tác giả có sách bán chạy nhất thời đó [3].
Bà sinh ngày 11 tháng 12 năm 1939 tại Huế thuộc Liên bang Đông Dương.[1] Năm 1957, bà chuyển vào sinh sống ở Nha Trang rồi đến năm 1960 bà vào Sài Gòn học Đại học Văn khoa và Luật nhưng bà bỏ ngang, không học hết mà lên Đà Lạt dạy học. Đến năm 1966, bà chuyển sang chuyên tâm viết tiểu thuyết.[1]
Cùng với văn xuôi, Nguyễn Thị Hoàng còn tham gia sáng tác thơ và từ đó bà trở thành một người nổi tiếng trong giới văn nghệ chuyên viết về những mâu thuẫn nội tại của giới trẻ Sài Gòn trong suốt thập niên 1960.[2] Theo Phạm Chu Sa, Nguyễn Thị Hoàng là một trong những nhà văn nữ tài năng thật sự và tên tuổi đã được khẳng định ở miền Nam trước 1975. Bà có những tiểu thuyết với giọng văn trau chuốt bóng bẩy và là một trong vài tác giả có sách bán chạy nhất thời đó [3].
Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, bà hầu như biến mất khỏi giới nghệ thuật và sống một cuộc sống yên lặng đến tận 1990, khi bà cho ra đời Nhật ký của im lặng. Vào năm 2007, bà lại xuất hiện qua một tùy bút nhan đề "Nghĩ từ thơ Thái Kim Lan" được đăng trên Tạp chí Văn hoá Phật giáo (số xuân Mậu Tí, 12.2007).
Vong Tay Hoc Tro_Nguyen Thi Hoang (12).mp3 25264
Nhà văn Nguyễn Thị Hoàng và Tiếng Chuông Gọi Người Tình Trở Về qua nét bút của họa sĩ Chóe
Trong phần giới thiệu ngắn gọn về tiểu sử nhà văn Nguyễn Thị Hoàng, trang mạng Wikipedia – Tiếng Việt, cũng ghi nhận như sau:
Nhà văn Nguyễn thị Hoàng
“…Thơ chưa in thành tập, nhưng rải rác có đăng báo. Khởi đầu năm 1960 ở Bách Khoa và từ 1961-1962 thì ở tạp chí Văn. Nhưng khi những chương đầu tiên của Vòng Tay Học Trò được in ở Bách Khoa thì tiểu thuyết là chính, thơ chỉ còn là tô điểm thêm…” (3)
(Tiếp theo và hết)
Đâu là chân dung đích thực
của tác giả tiểu thuyết “Vòng tay học trò”?
Trong sinh hoạt văn chương miền Nam 20 năm
(1955-1975), Nguyễn Thị Hoàng là một trong vài nhà văn nữ, nổi
tiếng ngay với tác phẩm văn xuôi đầu tay “Vòng Tay Học Trò”.
Nhưng, nếu Nhã Ca (ở lãnh vực văn xuôi) cũng nổi tiếng ngay với
truyện vừa “Đêm nghe tiếng đại bác”, lấy bối cảnh sinh hoạt
của một gia đình viết về chiến tranh thì, Nguyễn Thị Hoàng
lại nổi tiếng khi bà vượt qua vạch phấn cấm kỵ (taboo) của
truyền thống đạo đức xã hội Việt Nam, khi viết về lãnh vực
tình yêu và, tình dục giữa một cô giáo và học trò của mình,
theo xu hướng hiện sinh.
Nhà văn Nguyễn Thị Hoàng và Tiếng Chuông Gọi Người Tình Trở Về qua nét bút của họa sĩ Chóe
Trong phần giới thiệu ngắn gọn về tiểu sử nhà văn Nguyễn Thị Hoàng, trang mạng Wikipedia – Tiếng Việt, cũng ghi nhận như sau:
“Tác phẩm
đầu tay của bà (NTH) có nhan đề Vòng Tay Học Trò dưới bút danh Hoàng
Đông Phương. Đây là một tiểu thuyết hiện sinh mô tả vấn đề tình yêu,
tình dục giữa một cô giáo tên Tôn Nữ Quỳnh Trâm và học trò Nguyễn Duy
Minh được đăng dưới hình thức nhiều kỳ trên tạp chí Bách Khoa. Tác phẩm
trở thành một trong những tác phẩm gây tranh cãi nhất thời kỳ này, và về
sau được tái bản nhiều lần.”
Tuy nhiên, theo một vài tư liệu hiện có trên Wikipedia thì, bước chân đầu tiên tìm đến với cõi giới văn
chương của người nữ văn sĩ này, vốn là thi ca chứ không phải văn xuôi.
Trong
một cuộc phỏng vấn dành cho nhà văn Mai Ninh (hiện cư ngụ tại
Paris) năm 2003, tác giả “Vòng Tay Học Trò” cũng xác nhận rằng:
“…NTH khởi viết, trước tiểu thuyết, bằng thơ (Tạp chí Bách
Khoa 1960), và căn chất mãi mãi cũng chỉ là thơ, rất ‘dốt’ và
sợ cái gì liên quan đến khoa học…”
Thực tế cũng cho
thấy, bà không chỉ làm thơ đăng báo mà, còn có tới hai thi
phẩm đã được xuất bản. Đó là các tập thơ “Sầu riêng”, XB năm
1960 và “Kiếp đam mê” XB năm 1961. (1)
Tuy nhiên, cũng khác với Nhã Ca. Nếu tác giả “Đêm nghe
tiếng
đại bác” gây xôn xao dư luận những người yêu thơ cũng như văn
giới ngay tự những bài thơ thứ nhất của bà, đăng tải trên Tạp
chí Hiện Đại của nhà thơ Nguyên Sa thì, dường như thơ Nguyễn
Thị Hoàng lại kém may mắn hơn! Chúng không nhận được sự chào
đón hay, chú ý của dư luận quần chúng. Chính vì thế mà số
người biết nhà văn Nguyễn Thị Hoàng là một người làm thơ
trước khi viết văn không bao nhiêu - - Trừ những người có mối
quan tâm đặc biệt, muốn tìm hiểu hoặc, nghiên cứu về sự nghiệp
văn chương của bà.
Trong số những người có mối quan tâm đặc biệt tới lộ
trình chữ, nghĩa của Nguyễn Thị Hoàng, tôi trộm nghĩ, chúng ta
phải kể tới nhà văn
Nguyễn Ngọc Chính. Ông là người có nhiều bài viết nhất về
tác giả “Vòng Tay Học Trò”.
Với loạt bài nằm trong
“Hồi Ức Một Đời Người”, họ Nguyễn đã sưu tập về cõi thơ
Nguyễn Thị Hoàng và, ghi nhận:
“… Trước khi nổi tiếng trong nhóm nhà văn nữ trước 1975, Nguyễn Thị
Hoàng là một nhà thơ của xứ Huế với hai tập thơ Sầu riêng (1960) và Sau
phút đam mê (1961). (2) Nổi bật hơn cả là bài thơ Chi lạ rứa với 40 câu
thơ mang đặc những ngôn từ của miền Trung như chi lạ rứa, bởi vì răng,
bên ni bờ, đau chi mô, hiểu chi mô… (…)
“Những vần lục bát là thế mạnh trong thơ Nguyễn Thị Hoàng với những câu thơ rất da diết nhưng cũng rất tự nhiên như văn
viết:
‘Em mười sáu tuổi tơ măng
Thịt da đốt cháy thiên đường tình yêu
Thịt da đốt cháy thiên đường tình yêu
‘Trong cơn chăn gối rã rời
Im nghe từng chuyến xe đời đi qua
Im nghe từng chuyến xe đời đi qua
‘Đường về không nhịp trùng lai
Chúa ơi con sợ... ngày mai một mình
Chúa ơi con sợ... ngày mai một mình
‘Nhìn lên thành phố không đèn
Âm u còn một màn đêm cuối cùng
Âm u còn một màn đêm cuối cùng
Mắt sâu dòng lệ ngập ngừng
Mình xa nhau đến muôn trùng thời gian
Mình xa nhau đến muôn trùng thời gian
‘Lênh đênh tiếng hát kinh cầu
Ăn năn cổ thụ cúi đầu ngẩn ngơ
Ăn năn cổ thụ cúi đầu ngẩn ngơ
Trên cao tháp cũ nhà thờ
Hồi chuông tưởng niệm bây giờ còn vang’
Hồi chuông tưởng niệm bây giờ còn vang’
“Lối gieo vần trong thơ 8 chữ cũng là một thể nghiệm mới lạ của nhà thơ nữ:
‘Em đợi anh về những chiều thứ bẩy
Hiu hắt vòm trời buổi sáng thứ hai
Nhạc dạo mơ hồ trong tiếng mưa bay
Thành phố ngủ quên những ngày chủ nhật”
Hiu hắt vòm trời buổi sáng thứ hai
Nhạc dạo mơ hồ trong tiếng mưa bay
Thành phố ngủ quên những ngày chủ nhật”
‘Cho em xin một chiều vui thứ bẩy
Có nhạc phòng trà có lá me bay
Tiếng gió reo vui đêm dài xa lộ
Nửa cuộc đời còn khoác kín vòng tay’
Có nhạc phòng trà có lá me bay
Tiếng gió reo vui đêm dài xa lộ
Nửa cuộc đời còn khoác kín vòng tay’
“Và cuối cùng là những vần thơ 5 chữ trong bài Lời rêu:
‘Uống cùng nhau một giọt,
Đắng cay nào chia đôi
Chung một niềm đơn độc,
Riêng môi đời phai phôi.
Đắng cay nào chia đôi
Chung một niềm đơn độc,
Riêng môi đời phai phôi.
‘Say dùm nhau một giọt!
Chút nồng thơm cuối đời.
Vướng dùm nhau sợi tóc,
Ràng buộc trời sinh đôi’. (…)”
Chút nồng thơm cuối đời.
Vướng dùm nhau sợi tóc,
Ràng buộc trời sinh đôi’. (…)”
Và người thứ ai, theo
tôi, là nhà văn Trần Áng Sơn. Trong bài viết nhan đề “Nhà văn
Nguyễn Thị Hoàng – Người đàn bà
đẹp”, họ Trần kể, vào thời điểm tháng 4-2002, khi ông viết
bài đó, trong tay ông “…không có 1 tác phẩm nào, như một tài liệu, để
gọi nói có sách, mách có chứng. Nhưng, vì quá yêu ngòi bút của bà, khởi
đi từ chi tiết rất xa xăm – bài thơ Lạ rứa! - do 1 người bạn ở Huế chép
tặng 1957- tôi thực hiện cuộc trở về trong sương mù, viết bằng ký ức,
cảm xúc. Cũng rất có thể, tôi bị lạc lối, nhưng tấm lòng dành cho bài
thơ Lạ rứa! vẫn như xưa…”(2)
Dưới đây là nguyên văn bài thơ “Chi lạ rứa” của Nguyễn Thị Hoàng, trong ký ức của nhà văn Trần Áng Sơn:
“Chi lạ rứa, chiều ni tui muốn khóc,
Ngó chi tui đồ cỏ mọn, hoa hèn.
Nhìn chi tui hình đom đóm đêm đen,
Cho tui tủi bên ni bờ cô tịch.
Ngó chi tui đồ cỏ mọn, hoa hèn.
Nhìn chi tui hình đom đóm đêm đen,
Cho tui tủi bên ni bờ cô tịch.
“Tui ao ước có bao giờ tuyệt đích,
Tui van xin răng mà cứ làm ngơ.
Rồi ngó tui, chi lạ rứa hững hờ,
Ghét, yêu, mến, vô duyên và trơ trẽn!
Tui van xin răng mà cứ làm ngơ.
Rồi ngó tui, chi lạ rứa hững hờ,
Ghét, yêu, mến, vô duyên và trơ trẽn!
“Tui đã tắt nỗi ngại ngùng bẽn lẽn,
Bởi vì răng, ai biết được người hè.
Nhưng màu chiều đã rũ bóng lê thê,
Ni với nớ, có chi mô gần gũi!
Bởi vì răng, ai biết được người hè.
Nhưng màu chiều đã rũ bóng lê thê,
Ni với nớ, có chi mô gần gũi!
“Chi lạ rứa, răng cứ làm tui tủi?
Tàn nhẫn chi với một đứa thương đau!
Khối tình câm nên không sắc, không màu,
Và vạn thuở chẳng nên câu luyến ái!
Tàn nhẫn chi với một đứa thương đau!
Khối tình câm nên không sắc, không màu,
Và vạn thuở chẳng nên câu luyến ái!
“Chi lạ rứa, người cứ làm tui ngại,
Biết sông sâu hay cạn giữa tình đời?
Bên ni bờ vẫn trong trắng chơi vơi,
Mà bên nớ trầm ngâm mô có kể.
Biết sông sâu hay cạn giữa tình đời?
Bên ni bờ vẫn trong trắng chơi vơi,
Mà bên nớ trầm ngâm mô có kể.
“Không muốn khóc, nhưng cứ từng ngấn lệ,
Đọng làn mi ấp ủ mối tâm tình.
Bên ni bờ hoa thắm bớt tươi xanh,
Mà bên nớ huy hoàng và lộng lẫy”.
Đọng làn mi ấp ủ mối tâm tình.
Bên ni bờ hoa thắm bớt tươi xanh,
Mà bên nớ huy hoàng và lộng lẫy”.
Nguyễn Thị Hoàng.
(3)
Tuy chỉ với vài bài thơ do hai tác giả Nguyễn
Ngọc Chính và Trần Áng Sơn ghi lại, nhưng cũng đã có một số
người tự hỏi, nếu không xẩy ra cuộc tình nhiều tai tiếng giữa
tác giả Nguyễn Thị Hoàng và câu học trò tên Mai Tiến Thành và
(vẫn nếu), họ Hoàng không viết lại thành truyện thì không
biết hôm nay, người đọc sẽ có một Nguyễn Thị Hoàng thi sĩ hay,
Nguyễn Thị Hoàng văn sĩ? Nhất là khi bà từng nhấn mạnh, với bà, trước sau, căn bản vẫn là thi ca?
Du Tử Lê,
(Kỳ sau tiếp)
_________
Chú thích:
(1) Nđd. Về
nhan đề của tập thơ thứ hai, theo tư liệu của nhà văn Nguyễn Ngọc Chính thì lại có tên là “Sau phút đam mê”.
(2) , (3) Nđd.
(2) , (3) Nđd.
****************************** ****************************** ****************************** ****************************** ***********************
From: Trần Yên Hòa
Dư luận chung quanh “Vòng tay học trò” và đời thường của nhân vật chính.
(Tiếp theo)
Mặc
dù căn cứ vào cuộc phỏng vấn Nguyễn Thị Hoàng dành cho nhà
báo Tố Tâm ở tạp chí Đất Mới, số 4 bộ 2, tháng 4-1990, Việt
Nam thì, cả hai tập thơ mà trang mạng Wikipedia liệt kê trong danh
sách tác phẩm đã xuất bản, được bà nói rõ rằng:
Nhà văn Nguyễn thị Hoàng
“…Thơ chưa in thành tập, nhưng rải rác có đăng báo. Khởi đầu năm 1960 ở Bách Khoa và từ 1961-1962 thì ở tạp chí Văn. Nhưng khi những chương đầu tiên của Vòng Tay Học Trò được in ở Bách Khoa thì tiểu thuyết là chính, thơ chỉ còn là tô điểm thêm…” (3)
Nhưng, có dễ trước sau thi ca vẫn là
“cây bài chủ”, hay ngọn hải đăng tâm hồn họ Nguyễn. Nên khi bước
qua văn xuôi, ngay tự những trang viết thứ nhất của tiểu thuyết
“Vòng tay học trò”, bên cạnh sự hấp dẫn, lôi cuốn của cốt
truyện chắt, chiết từ đời thật, tác giả vẫn có những đoạn
tả cảnh,
tình ắp đầy thi tính như:
“…Một
tiếng chim hót lên đầu cành thông gần mái nhà. Trâm nhìn ra. Vòm trời
xanh mênh mông in hình nét đồi cong thoai thoải, sáng rực nắng chiều.
Một đám mây trắng sắp sửa nhô lên sau ngọn đồi thấp nhất. Hình ảnh của
những buổi chiều yên tĩnh, cuộc đời cô quạnh, buồn lãng mạn và nên thơ
thoáng qua trong trí Trâm. Nàng chợt vừa sợ vừa thích nỗi cô đơn hiện
tại (…)
Trâm đứng lên mở rộng cánh cửa kính.
Mùi thơm quen thuộc của cỏ khô và đất mới xới, lẫn với mùi dâu chín dưới
thung lũng thoảng theo gió bay lên làm Trâm tự nhiên ấm áp trong lòng,
tưởng như đang đời đời yên ổn sống
trên đất quê hương…” (Trích VTHT, chương 1)(4)
Hoặc
một đoạn khác, ở chương 2, tác giả ghi lại, những “cảm nhận”
về cậu học trò tên Minh, nhân vật sẽ sớm trở thành người yêu
của cô giáo Trâm (biến thân của chính tác giả):
“…Trâm giấu nụ cười trong bàn tay
vừa đưa lên che môi. Bây giờ, bọn học trò chăm chú vào công việc, không
nhìn lên nàng nữa. Trâm tự do, dễ chịu, tha hồ nhìn xuống, quan sát
từng đứa để “trả thù” bị nhìn lúc mới vào. Vài đôi mắt nhìn ra cửa sổ.
Trâm nghĩ, thế nào cũng có thông reo gió thổi. Có đôi mắt nhìn sững vào
khoảng không hay trên vách tường
trống trải. Có cặp mắt sáng rỡ nhìn lên như vừa bắt gặp một ý tưởng,
một hình ảnh thần tiên nào đó đang chiếu vào khoảng tâm hồn u tối. Có
cặp mặt đăm đăm nhìn xuống tờ giấy trắng như chờ mong những hàng chữ
bỗng nhiên hiện hình theo phép lạ.
“Cuối cùng, Trâm nhìn xuống chỗ Minh
ngồi. Cậu bé đang lơ đãng chống tay vào má nhìn lên phía nàng. Cây bút
xoay tròn tinh nghịch trên mấy ngón tay trắng nhỏ. Nàng mỉm cười thật
nhẹ như thầm nhắc, sao em không viết gì đi. Minh mỉm cười yên lặng. Nụ
cười nửa đầm ấm bắt gặp vẻ quen thân trong xa lạ, nửa ngại ngùng bối rối
muốn lẩn trốn, che dấu chính mình và những ý nghĩ mình trước
đôi mắt dò xét và phán đoán của kẻ khác. Rồi đôi mắt Minh cúi xuống.
Ngòi bút loay hoay trong tay, bây giờ bị cắn nhẹ giữa hai hàm răng đều
và nhỏ. Minh vò một mẩu giấy nhỏ vứt xuống đất, giở trang giấy khác,
nhưng không viết gì được. Trâm biết Minh muốn đứng lên, chạy bay ra khỏi
phòng, chạy thật xa cái nhìn xoi mói của nàng. Nhưng Trâm cứ nhìn như
kẻ đi săn nhìn con thú lúng túng tìm cách thoát thân khỏi cái bẫy của
mình… (5)
Được biết “Vòng tay học trò” của
Nguyễn Thị Hoàng trước khi in thành sách, đã được đăng nhiều
kỳ trên tạp chí Bách Khoa, Saigon, 1964. Ngay khi còn ở dạng
truyện đăng nhiều kỳ, VTHT cũng đã nhận được sự hưởng ứng
nồng
nhiệt của giới trẻ thời điểm đó. Nhưng mãi tới năm 1966, tiểu
thuyết này mới được in ra. Và đó mới là thời điểm “cơn bão
VTHT” đạt tới đỉnh điểm cao nhất của hân hoan đón nhận và,
cùng lúc cực lực lên án.
Giải thích về sự chậm trễ này, trong cuộc phỏng vấn dành cho Mai Ninh, họ Nguyễn cho biết:
“Bách
khoa in mấy kỳ, thiên hạ xôn xao. Nhưng sau đó chuyển cảnh qua chồng
con, bản thảo VTHT xếp lại. Đến 66, một nhóm tìm kiếm VTHT, xuất bản.
Tái bản 4 lần trong vòng mấy tháng. Sóng gió nổi lên từ mọi phía, vì
những lý do và động lực khác nhau. 5 tờ báo, cùng nhất loạt lên tiếng
phê phán, chỉ trích, tóm lại là chửi bới. Rất tiếc cuộc biển dâu cuốn
trôi không còn một mảnh tài liệu nào, còn trí nhớ NTH thì chỉ gạn lọc
lưu trữ những gì tốt đẹp. Hình như nhân danh hay đại diện phụ huynh học
sinh, nhà trường gì đó có lên tiếng trong một bài báo. Không có những
phản ứng trực tiếp tương tự như trong phim đối với cuốn truyện, còn gián
tiếp thì không biết.
“Khi viết, với không phải viết cái gì
đã sống, mà trên khung cảnh, sự kiện, nhân vật của khoảnh khắc thoáng
qua “trong vai” cô giáo ấy, tăng giảm biến đổi để đúng vóc dáng một câu
chuyện. Đã không tính đến chuyện viết tiểu thuyết hay hình thành một tác
phẩm với dụng ý, mục đích nào mà chỉ góp
nhặt lại những mảnh vụn của một khúc đời đã vỡ.
“Thế mà nó trở thành tác phẩm, tác giả với hàng loạt những hệ quả sinh khắc liên hồi từ ấy…” (6)
Trước đấy, cũng trong cuộc phỏng vấn của nhà báo Tố Tâm, nhà văn Nguyễn Thị Hoàng nói:
“…Riêng về Vòng Tay Học Trò, nếu bảo đó
là thực thì cũng không hẳn là thực mà bảo là không thực thì…cũng chẳng
phải là thế. Dư luận trộn lẫn tiểu thuyết của mình với đời sống thật.
Cũng vì thế mà có những tiếng ác ý lao xao về đời sống của mình. Cho nên
chỉ có cách là…phải thản
nhiên…” (7)
Tuy nhiên,
trong một bài viết được phổ biến vào cuối năm 2012, tác giả
loạt bài “Hồi Ức Một Đời Người”, Nguyễn Ngọc Chính, cũng là
bạn thân với người học trò tên Minh (tức Mai Tiến Thành ngoài
đời), đã ghi lại như sau:
“…Tác giả (NTH) xác định một cách
nửa vời về Vòng tay học trò: ‘…nếu bảo đó là thực thì cũng không hẳn là
thực mà bảo là không thực thì…cũng chẳng phải là thế’. Như đã nói,
những nhà văn nữ thường ‘tự thuật’ về cuộc đời mình và chính những kinh
nghiệm bản thân khiến tác phẩm của họ dễ đi vào lòng người đọc. Dĩ nhiên
việc ‘thêm mắm thêm muối’ còn tùy thuộc vào sự khéo léo của mỗi đầu bếp
để có một món ăn ngon hay dở.
“Vòng
tay học trò là câu chuyện có thật tại trường Trần Hưng Đạo Đà Lạt giữa
cô giáo đệ nhất cấp Nguyễn Thị Hoàng và cậu học sinh đệ nhị cấp Mai Tiến
Thành. Tôi vốn là bạn học rất thân với Thành từ năm Đệ Ngũ trên Ban Mê
Thuột nên biết rõ chuyện tình của Thành. Tuy nhiên, những gì xảy ra
ngoài đời thực có phần nào khác với Vòng tay học trò, đó là kỹ thuật
‘thêm mắm thêm muối’ của nhà văn Nguyễn Thị Hoàng. Nói khác đi, phần hư
cấu trong tiểu thuyết được giữ ở mức vừa phải, có thể
chấp nhận được.
“Hình
như để giữ cho mối tình cô giáo-học trò thi vị hơn, tác giả đã để cho
cuộc tình chấm dứt tại Sài Gòn và không đả động đến hậu quả của nó: một
đứa con đã ra đời. Đứa bé được đặt tên Mai Quỳnh Chi, giao cho gia đình
Thành nuôi nấng tại Ban Mê Thuột và ngày nay đã trở thành một thiếu nữ
sống tại nước ngoài. Mai Tiến Thành đã trở thành người thiên cổ tại Hoa
Kỳ và câu chuyện tình làm nên tác phẩm rồi cũng đi vào quên lãng…” (8)
Du Tử
Lê,
(Còn tiếp 1 kỳ)
****************************** ****************************** *****************************
Nguyễn Thị Hoàng, một biểu tượng “hồng nhan
đa truân”?
03/27/2014
Tác giả : Du Tử Lê
(Tiếp theo và hết)
Tôi
nghĩ, dù đứng ở vị trí nào, văn học hay xã hội, đời thường
hay đạo
lý, khó ai có thể phủ nhận Nguyễn Thị Hoàng là một trong
vài nhà văn nữ thực sự tài hoa của 20 năm VHNT miền Nam.
Nguyễn Thị Hoàng, năm 2007 (Ảnh của Thái Kim
Lan-chinhhoiuc blogspot.com))
Tuy
nhiên, nếu chúng ta chỉ thấy bà trong vòng phấn của cuốn
truyện “Vòng Tay Học Trò” (VTHT), vốn được nhìn như một thứ
bán hồi ký và, nhan sắc trời cho của bà, tôi cho là chúng ta
đã không công bình với họ Nguyễn. Bởi vì, ngoài VTHT, Nguyễn
Thị Hoàng còn có những sáng tác khác, cũng được nhiều người
ưa thích, như “Về trong sương mù”, “Tuổi Saigon”, hoặc “Tiếng
chuông gọi người tình trở về”…
Đó là một phần trong số lượng
hàng chục tiểu thuyết mà bà đã viết được, trong một khoảng
thời gian rất ngắn. Giải thích về sự “mắn đẻ” này, bà kể
với nhà báo Tố Tâm rằng:
“… Từ năm 1966 đến 1969, mình
viết liên tục theo những ‘đơn đặt hàng’. Trong thời gian này mình viết
rất nhanh, có khi viết hai, ba truyện cùng một lúc…rồi thì lại buồn
chán, mệt mỏi, kiệt sức và mất hoàn toàn tinh thần làm việc vì trong
suốt những năm dài liên tục mình chỉ sống với bổn phận làm vợ, làm mẹ và
gánh vác kinh tế gia đình. Cái nguồn sống riêng phải
nín lại, bị khô héo đi…” (9)
Cũng
trong cuộc phỏng vấn dành cho nhà báo Tố Tâm ở VN, Tác giả
“Tiếng chuông gọi người tình trở về” đã tiết lộ phần nào đặc
tính hay nét riêng thuộc cõi-giới tiểu thuyết của mình, như
sau:
“…Truyện mình viết thường là
truyện tình bế tắc và đi xuống. Trong đó những vai nữ bao giờ cũng khát
khao đi tìm một đời sống thật của mình, nghĩa là tìm kiếm chính mình.
Những nhân vật nữ lang thang bất định, và xa rời với phận sự gia đình.
Chất liệu lấy từ những năm bất ổn lênh đênh trong cuộc
đời đã qua của mình, đôi khi được ráp nối với những câu chuyện thời sự,
cộng với một phần tưởng tượng, phóng tác, vẽ vời…rồi ráp thành chuyện.
Không biết bên đàn ông thì sao, chứ cánh đàn bà thường mắc phải cái này
là có những nét của nhân vật hoặc chính, hoặc phụ, thế nào cũng hắt bóng
cá tính thói quen, đường nét và vóc dáng của tác giả…” (10)
Mặc dù là một nhà văn nữ
có số bán cao nhất ở thị trường tiểu thuyết miền Nam trước
đây (vì truyện của họ Nguyễn đáp ứng được những đòi hỏi, chờ
đợi của giới trẻ, cũng như tâm lý nữ giới…?) - - Nhưng bà
cũng bị
một số người cho rằng càng về sau, khuynh hướng văn chương của
bà càng mang tính “điệu đà”, có phần hơi nhiều…son, phấn.
Tiêu biểu hàng ngũ có cái nhìn tiêu cực ấy, người ta thường nhắc tới ghi nhận của nhà văn Nguyễn Ngọc Chính:
“…Có thể nói, văn phong của
Nguyễn Thị Hoàng cũng tựa như của Mai Thảo: rất ‘điệu đà’, rất ‘bay
bướm’ và rất ‘làm dáng’… đến độ nhiều khi trở thành sáo rỗng. Chẳng hạn
như trong Người yêu của Đấng Trời, một tiểu thuyết đã được viết từ hơn một chục
năm nay nhưng chưa hề xuất bản. Hợp Lưu trích đăng một chương có những đoạn viết:
‘‘
‘Tất cả đều in bóng lên nền xanh bát ngát của lòng trời, và những đôi
mắt linh hồn mãi mãi tìm nhau, vẫn dồn trút niềm yêu và nỗi đau trong
cái nhìn đáy thẳm tuyệt vời của im lặng và bóng tối.’’…
‘‘ ‘Khoác lên trái tim chưa yêu
của Chúa một vầng hoa nguyệt quế nghìn thu. Và trái tim nào đã yêu đến
tan nát cả chân như thể tánh mình, hãy lấy búa kim cương đóng lên một
chiếc đinh vàng, để dưới bóng
Chúa lung linh nến hồng thuở trước, trên tình yêu không bao giờ có thực
của chúng ta, một giọt máu trường sinh nhỏ xuống’.’’ (11)
Ở
lãnh vực văn chương, nếu tác giả VTHT được dư luận theo dõi sát
sao bao nhiêu thì ở lãnh vực tình trường của Nguyễn Thị Hoàng
cũng được dư luận đề cập tới và, cũng không kém phần chi
tiết.
Cụ thể như một “scandal” từng gây
chấn động thành phố Nha Trang, khi nhà văn Nguyễn Thị Hoàng theo
gia đình di chuyển về thành phố này năm 1957. (12) “Scandal” đó,
nổ ra trước câu chuyện tình của bà và người
học trò tên Mai Tiến Thành, đã được bà ghi lại một phần trong
truyện VTHT.
Sự việc sau đó, cũng đã được bà thẳng thắn xác nhận qua đoạn văn dưới đây:
“…Trước khi lên Đà Lạt dậy học,
gia đình Nguyễn Thị Hoàng sống tại Nha Trang. Những năm theo học tại
trường Võ Tánh, Nguyễn Thị Hoàng dính vào một scandal một thời là đề tài
nóng bỏng tại thành phố biển.
“Cô nữ sinh dan díu và có thai
với ông Cung Giũ Nguyên, giáo sư Pháp văn, hơn Nguyễn Thị Hoàng gần
ba mươi tuổi. (13) Biến cố đầy tai tiếng này được dàn xếp êm thấm giữa
hai gia đình với lời thú nhận can đảm của người trong cuộc:
“
‘Ông Cung Giũ Nguyên không có lỗi trong vụ này. Lỗi là do tôi dụ dỗ ông
ta khi theo học thêm lớp Pháp văn tại nhà, vì tôi muốn có một đứa con
thông minh xuất chúng như ông ấy!’
“Đứa con gái sinh ra được đặt tên Cung
Giũ Nguyên Hoàng (tên gọi của ông Nguyên và bà Hoàng ghép lại) và
được bà vợ chính thức của ông Nguyên nuôi dưỡng vì bà này không thể có
con. Trong ngày
tang lễ của ông Cung Giũ Nguyên (tháng 11/2008) người ta thấy Cung Giũ
Nguyên Hoàng phục tang cha, ôm bát nhang đi trước linh vị…” (14)
*
Hôm
nay, nhìn lại toàn bộ cuộc đời, sự nghiệp của nhà văn tài
hoa Nguyễn Thị Hoàng, không ít người đã có cùng một kết luận,
đại ý, phải chăng, định mệnh của tác giả “Vòng Tay Học Trò”
tiêu biểu cho những trường hợp mà chúng ta quen gọi là “hồng
nhan đa truân”?
Du Tử Lê,
(Calif. Mar. 27 – 2014)
_______
Chú thích:
(9)
Theo trang mạng Wikipedia-Mở sau truyện VTHT, xuất bản năm 1966,
thì chỉ trong vòng 4 năm (từ 1967 tới 1970), nhà văn Nguyễn Thị
Hoàng đã có tới 12 tác phẩm được xuất bản.
(10) Tố Tâm,
Nđd.
(11) Nguyễn Ngọc Chính, Nđd.
(12)
Tư liệu của Wikipedia - Tiếng Việt ghi rằng, “Nguyễn Thị Hoàng
sinh ngày 11 tháng 12 năm 1939 tại Huế. Năm 1957, bà chuyển vào sinh
sống ở Nha Trang rồi đến năm 1960 bà vào Sài Gòn học Đại học Văn khoa và
Luật nhưng bà bỏ ngang, không học hết mà lên Đà Lạt dạy học. Đến năm
1966, bà chuyển sang chuyên tâm viết tiểu thuyết…”
(13) “Cung Giũ Nguyên (28 tháng
4 năm 1909 – 7 tháng 11 năm 2008) là một nhà văn, nhà báo Việt
Nam, gốc Hoa, được biết đến với những tác phẩm tiếng Pháp. Về mặt văn
chương, tên tuổi ông được ít người Việt biết đến vì các tác phẩm của
ông được viết bằng tiếng Pháp. Tuy nhiên về mặt hoạt động xã hội, ông
là một huynh trưởng nổi bật thuộc thế hệ sáng lập ra phong trào Hướng
đạo Việt Nam. Cuối đời, ông cư ngụ tại thành phố Nha Trang, tỉnh
Khánh Hòa và mất tại đây”. (Wikipedia – Tiếng Việt).
(14) Nguyễn Ngọc Chính, Nđd.
Nhắn bà Nguyễn Thị Hoàng, tác giả “Vòng tay học trò”, về trả gấp số nợ hai cây vàng vay ngày 18 tháng 5 năm 1997. Kính nhờ các chị Thiên Kim, Thiên Hà, Thiên Nga, Thiên Phụng nhắc giùm mẹ. Xin trân trọng cảm ơn
RépondreSupprimerNgọc Châu, ĐT: 0937 955 520