Caroline Thanh Hương
Nhà Thơ Đi Lính
Phạm Tín An Ninh
(Để tưởng nhớ Y-Broc Niê và Lại Trọng Hà)
Tôi không biết làm thơ. Chính xác hơn là tôi dốt đặc về thơ. Nhưng có
điều tôi rất mê thơ. Thời mới vào trung học, tôi đã từng nắn nót chép
những bài thơ của mấy ông Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Lưu Trọng Lư, Đinh
Hùng, Thâm Tâm… vào những tập giấy pelure đủ màu xanh đỏ, đóng bìa cứng
với cái tựa mạ vàng. Tôi còn thuộc lòng hết mấy bài thơ tình của TTKH.
Biết ai làm thơ hay, có đôi bài đăng trên Tiểu Thuyết Thứ Năm, Phổ
Thông, Phụ Nữ Diễn Đàn hay Văn Nghệ Tiền Phong là tôi xem như thần
tượng, gởi thư cho tòa soạn xin địa chỉ viết vài dòng làm quen, dù rất
hiếm khi nhận được hồi âm. Lớn lên, vào lính, ngoài hành trang ba lô
súng đạn, tôi luôn mang theo hồn thơ lai láng. Khi ấy tôi cũng vừa khám
phá ra điều thú vị: người lính, đời lính và tình yêu của lính chính là
đề tài lớn nhất cho các nhà thơ, nhạc sĩ sáng tác. Những chiều dừng
quân, nghe tiếng gió rừng hòa tiếng suối reo, hay những lúc băng qua
cánh rừng đầy hoa sim tím, tôi lại buột miệng thì thầm vài câu thơ quen
thuộc. Nàng thơ lúc nào cũng ngự trị trong tôi, theo tôi đến mọi chân
trời góc biển.
Đơn vị tôi là một tiểu đoàn tác chiến lưu động, có mặt trên hầu hết các
địa danh Vùng 2 Chiến Thuật, rày đây mai đó. Có khi buổi tối còn đóng
quân trong núi rừng Quảng Đức, Lâm Đồng, chiều hôm sau lại có mặt ở bờ
biển Tuy Hòa, Phan Thiết. Tôi nhận trung đội với chỉ 25 người lính,
Thượng nhiều hơn Kinh. Trong đó có một anh trung sĩ, tên Y- Broc Niê, có
học hành, tư cách và kỷ luật. Đặc biệt anh có đôi mắt đẹp, mơ màng.
Không biết gia đình giàu có thế nào, nhưng nghe nói anh được học trường
Tây, nói tiếng Pháp còn giỏi hơn tiếng Việt. Trong ba lô của anh lúc nào
cũng có cuốn Le Petit Larousse rất cũ kỹ và vài cuốn truyện tiếng Pháp.
Anh được tất cả lính Thượng trong đơn vị kính nể, bảo điều gì cũng nghe
răm rắp. Ngược lại anh cũng luôn quan tâm lo lắng đến đời sống và tranh
đấu cho quyền lợi của họ. Xin cho được đi phép và cam kết họ sẽ trở lại
đơn vị (vì thời ấy đa số lính Thượng khi về buôn bản, họ không muốn ra
đi, bỏ lại nương rẫy vợ con nữa). Rất may là anh ta rất quí mến tôi.
Hai thằng trở thành bạn thân khi tôi biết anh cũng rất thích thơ và biết
làm thơ. Những ngày đóng quân trong rừng, anh thường ngồi đọc cho tôi
nghe mấy bài thơ tình lãng mạn của các ông Jacques Brévert, Lamartine.
Anh còn cho tôi nghe những bài thơ được anh dịch ra tiếng Thượng, và dạy
cho tôi nói một vài tiếng Ê-đê. Anh hãnh diện khoe với tôi, anh là cháu
ruột của nhân sĩ trí thức Y-Yut, người đã tìm hiểu mẫu tự La Tinh và
vần Ê-đê để đặt ra bộ chữ viết Ê-đê ngày nay. Đôi lúc tôi thắc mắc và
thầm tiếc là tại sao một người sắc tôc có trình độ như anh mà chỉ làm
trung sĩ tiểu đội trưởng tác chiến, tại sao chính phủ không xử dụng anh ở
những vai trò khác hữu ích hơn? Nhưng rồi lại thấy nhờ may mắn có anh
mà đời lính của tôi vui và thi vị hơn.
Một hôm, sau cuộc hành quân tại vùng Đa Ngư Phú Lạc, một khu núi đá nằm
gần Vũng Rô-Đá Bia, đơn vị tôi thắng lớn, tịch thu cả một kho vũ khí của
địch, được lệnh kéo về Tuy Hòa làm lễ khao quân và tái bổ sung quân số,
quân trang đạn dược. Trung đội tôi được nhận thêm sáu tân binh. Trong
số đó có một trung sĩ và một hạ sĩ, mà trông mặt mày tôi đoán biết cũng
chỉ vừa mới rời ghế nhà trường để “đi vào nơi gió cát”. Có điều khác là
chàng trung sĩ trẻ thì vui vẻ, năng động, kỷ luật còn anh hạ sĩ thì hơi
có vẻ lè phè, tóc tai để dài, có cả hàm râu mép, rất ít nói, thường trả
lời chỉ bằng một cái gật đầu mỉm cười, lơ đãng. Tôi thường thấy anh ngồi
một mình tư lự, đôi khi nhắm mắt nhìn trời miệng thầm thì những điều gì
không ai hiểu được. Cái tên cũng đẹp: Lại Trọng Hà. Trùng họ và chữ lót
với một thằng bạn khá thân của tôi thời trung học, Lại Trọng San. Mới
đầu tôi nghĩ có thể là anh em vì hai chữ San-Hà, nhưng anh ta cho biết
là không có bà con dây dưa rễ má gì với thằng bạn của tôi cả. Sau này,
tôi biết anh đã bị đánh rớt trong một khóa Hạ Sĩ Quan Đồng Đế. Thay vì
bạn bè ra trường với cấp bậc trung sĩ, chỉ duy nhất có anh là hạ sĩ.
Tôi vừa thấy tội nghiệp, nhưng cũng vừa có một chút thành kiến, nghĩ anh
ta chắc cũng thuộc loại ba gai, bất cần đời, khó trị. Không khéo sẽ gây
ảnh hưởng xấu cho đám binh sĩ khi tôi chỉ là thằng trung đội trưởng còn
non choẹt, chưa có một chút kinh nghiệm chỉ huy cũng như chiến trường.
Dù vậy, lúc nào tôi cũng tỏ ra thân thiện và giúp đỡ mặc dù anh không hề
có bất cứ yêu cầu nào. Với một chút tâm lý, tôi không đưa anh ra tiểu
đội, mà giữ anh lại ban chỉ huy trung đội, mang khẩu phóng lựu M-79.
(Thời ấy loại súng M-79 mới được trang bị, còn rất hiếm, nên mỗi trung
đội chỉ có một khẩu, và người lính nào mang M-79 được đi theo trung đội
trưởng).
Không ngờ anh ta cũng rất thích thơ và thuộc rất nhiều thơ. Và dường như
những bài thơ là sợi dây màu nhiệm buộc bọn tôi lại với nhau. Chỉ một
thời gian, anh trung sĩ Y- Broc, hạ sĩ Hà và tôi trở nên rất thân tình.
Ngoài tình đồng đội, chúng tôi xem nhau như là bạn, là anh em. Nhưng ông
tiểu đoàn trưởng của tôi thì không ưa chàng hạ sĩ này. Mỗi lần bắt gặp,
ông luôn quát: “Ông tướng này phải cắt tóc tai cho đàng hoàng, cạo râu
đi nghe chưa. Lè phè là không được với tôi đâu!” Tôi bảo nhỏ anh ta
“thấy đại bàng phải né đi chứ!” Anh chỉ cười trừ rồi đâu cũng vào đấy.
Đúng lúc ông trung sĩ 1 trung đội phó của tôi lên thượng sĩ, được chuyển
về làm thường vụ tiểu đoàn, tôi xin rút trung sĩ Y-Broc về làm trung
đôi phó. Ba thằng chúng tôi ở gần nhau hơn. Ăn cơm chung và nằm cạnh
nhau dưới các giao thông hào. Y-Broc có biệt tài mưu sinh. Những lúc
đóng quân giữa núi rừng, anh thường làm bẫy bắt thú rừng hay hái về
những loại trái cây, rau rừng ăn được, những bữa cơm lính trở nên “thịnh
soạn” hơn. Còn anh chàng hạ sĩ thì chỉ mang về các cụm lan rừng hay đôi
cành hoa sim tím treo lủng lẳng trên đầu võng hay trước các giao thông
hào. Những chiều đóng quân, nếu không đụng địch, anh nằm đu đưa trên
võng, đọc cho bọn tôi nghe vài bài thơ hay. Không ngờ những bài thơ đã
làm cho bọn tôi thấy đời lính đẹp hơn, lãng mạn hơn, mà quên bớt phần
nào nhọc nhằn, nguy hiểm.
Cuối tháng, trung đội nhận được tờ báo Chiến Sĩ Cộng Hòa do ban Tâm Lý
Chiến tiểu đoàn phân phối, luân phiên trong đại đội. Theo thói quen, tôi
mở đọc trang Thơ trước, và rất ngạc nhiên khi thấy một bài thơ đề tặng
mình, có ghi rõ đơn vị nữa. Bài thơ dài chiếm cả nửa trang giấy, thật
hào sảng mà cảm động, có cả những địa danh mà đơn vị tôi vừa mới đi qua.
Tác giả là một cái tên khá quen: Mây Cao Nguyên. Trước đây tôi đã đọc
nhiều bài thơ của nhà thơ này và thường gật đầu tâm đắc. Nhưng tôi đâu
có vinh dự gặp gỡ quen biết mà anh làm thơ tặng tôi. Và làm sao anh ta
biết đơn vị tôi đã từng đi qua những địa danh xa lạ, những vùng núi
rừng, hoặc làng mạc nghèo nàn, xác xơ heo hút, mà qua bài thơ bỗng trở
nên thơ mộng và đẹp đẽ đến không ngờ?
Tôi đem bài thơ ra khoe với anh trung sĩ Y-Broc và hạ sĩ Hà, và hỏi có
phải một trong hai người là thi sĩ Mây Cao Nguyên. Cả hai lắc đầu. Hà
bảo Mây Cao Nguyên không phải con trai, là một cô bạn gái của anh, có lẽ
đọc mấy lá thư của anh gởi về tả cảnh hành quân và ông trung đội trưởng
trẻ tuổi dễ thương, nên cảm tác bài thơ ấy. Anh bảo có dịp anh sẽ giới
thiệu bọn tôi với nhà thơ nữ này. Y-Broc dịch bài thơ ra tiếng Thượng
đọc cho đám lính Thượng nghe. Tôi chẳng hiểu gì ngoài những tiếng vỗ tay
của những người lính rất đỗi chân chất hồn nhiên ấy.
Một lần trung đội đang ăn cơm để chuẩn bị đóng quân đêm, bỗng ông đại
đội trưởng đến tận nơi ra lệnh trung đội nghỉ ngơi một lúc chờ trời tối
sẽ di chuyển đến một địa điểm để phục kích. Tin tức cho biết có một mũi
công tác VC vừa xâm nhập vào khu làng nhỏ bên cạnh nhận tiếp tế, đến
khuya hoặc trời gần sáng bọn họ sẽ rút trở lại lên núi. Trung đội được
tăng cường thêm một tổ trung liên, có nhiệm vụ phục kích để tiêu diệt
trên đường địch rút ra. Địa điểm phục kích là một ngã ba nằm phía sau
làng, cách chân núi vài trăm thước. Ông đại đội trưởng đưa cho tôi tấm
bản đồ, chỉ cho tôi cái ngã ba, hướng dẫn cách bố trí quân và vài điểm
tác xạ tiên liệu Pháo Binh ông đã chấm sẵn. Tôi lấy hướng trên địa bàn
và tính khoảng cách từ điểm xuất phát đến mục tiêu khoảng bốn cây số, di
chuyển trên con hương lộ nhỏ. Tất cả chỉ mang theo vũ khí và đạn dược,
balô gởi lại cho đại đội. Đúng 8 giờ xuất phát. Trời cuối tháng nên tối
như mực. Tôi lo ngại có thể thất lạc hoặc bị lọt ổ phục kích. Y-Broc
tình nguyện dẫn tiểu đội đi đầu. Những người lính Thượng rất có kinh
nghiệm đi đêm trong rừng. Đôi mắt của họ như là những ngọn đèn thần.
Chưa tới ba mươi phút, đã đến ngã ba. Tôi nắm tay từng anh tiểu đội
trưởng đến địa điểm chỉ cách bố trí, và gài mìn Claymore phía trước
tuyến phục kích. Hai cây trung liên Bar được đặc trên hai mô đất cao có
xạ trường tốt nhất hướng về phía con đường làng, nơi địch sẽ rút ra.
Y-Broc xin theo tiểu đội người Thượng được tăng cường tổ trung liên, nằm
riêng tại địa điểm trọng yếu, bên kia ngã ba đường, nơi địch sẽ xuất
hiện trước nhất. Anh cẩn thận gài một quả mìn Claymore ở phía sau tuyến
đề phòng bất trắc. Tôi ra lệnh luân phiên canh gác và nghỉ ngơi, đến 12
giờ đêm tất cả đều phải thức để sẵn sàng tác chiến. Khi nào địch di
chuyển đến giữa ngả ba, tôi sẽ đích thân bấm trái mìn Claymore tại đây
thay cho lệnh khai hỏa, tuyến quân của Y- Broc là nỗ lực chính tấn công
và chốt địch phía sau. Kiểm soát các tiểu đội xong, tôi trở về vị trí,
dựa lưng vào một mô đất duỗi đôi chân ra nghỉ.
Khoảng hơn nửa giờ sau, có tiếng vài con chim lạ, dấu hiệu có người. Tôi
đang nghe ngóng và phân vân không biết mấy con chim này thấy ta hay
địch thì giật mình bởi tiếng mìn Claymore nổ chát chúa ngay hướng trước
mặt, bên kia đường, sau tuyến của Y-Broc, cùng những tiếng la hét thất
thanh. Nhiều tràng đạn khai hỏa từ cánh quân của Y-Broc. Rồi tiếng súng
địch nổ khắp nơi, có cả tiếng trung liên, đại liên và B.40. Những vệt
đạn lửa đan xéo trên đầu, trong màn đêm tĩnh mịch. Hỏa lực địch tập
trung vào vị trí tiểu đội của Y-Broc. Tôi nghe tiếng hô xung phong của
địch và biết lực lượng địch ít nhất cấp đại đội, nên không thể liều
lĩnh. Hơn nữa tôi chưa nắm vững đựợc tình hình và vị trí địch. Tiểu đội
Y-Broc chống trả mãnh liệt.
Nhờ nằm dưới một con mương khô, bám được vị trí che chắn tốt, và những
tràng đạn trung liên cùng những quả lựu đạn M-26 liên tục tung ra hiệu
quả nên cánh quân của Y-Broc giữ vững được phòng tuyến. Sợ địch phát
giác, nên lợi dụng khi có tiếng súng và lựu đạn nổ, tôi báo cáo vắn tắt
cho ông đại đội trưởng, xin tiếp ứng và Pháo Binh. Nhưng không thể cận
yểm được vì địch với ta quá gần nhau, nên tôi chỉ xin tác xạ vào các
điểm tiên liệu ngay sau lưng địch, vừa uy hiếp vừa dồn chúng lại, để
chúng tôi đánh bằng lựu đạn. Hai tiểu đội còn lại bên này đường đã nhanh
chóng dàn mỏng đội hình dọc theo con lộ tạo thành một tuyến hình chữ L
để đánh bên sườn địch. Cây trung liên cùng với khẩu M-79 của hạ sĩ Hà di
chuyển liên tục khai hỏa vào bên hông địch, để vừa không lộ vị trí vừa
nghi binh để bọn chúng nghĩ là lực lượng chúng tôi đông đảo hơn chứ
không phải chỉ một trung đội.
Địch không còn tập trung áp đảo tiểu đội của Y-Broc mà bung ra hướng tôi
đối phó. Khẩu đại liên của chúng chuyển hướng, liên tục khạc đạn vào
chúng tôi trong một khoảng cách thật gần với tầm rất thấp, làm chúng tôi
không ngóc đầu hay di chuyển được. May mắn là có một con mương nhỏ dọc
theo lề đường tương đối an toàn để chúng tôi ẩn nấp.
Tôi gọi xin Pháo Binh bắn hai quả soi sáng. Khi trái sáng được bắn lên,
tôi thấy vị trí khẩu đại liên của chúng được đặt trên miệng một cái hố
lớn bên kia đường, có xạ trường tốt. Rất khó khăn và nguy hiểm để chúng
tôi có thể băng qua con đường đất, tiếp cứu tiểu đội Y-Broc. Bỗng có
người đập nhẹ vào vai, quay lại tôi nhận ra Hà. Anh ta dúi khẩu M-79 đã
hết đạn cho tôi và bảo cho anh xin thêm hai quả lựu đạn “để triệt khẩu
đại liên ác ôn của tụi nó” (Lúc ấy mỗi người lính đều được trang bị 2
quả lựu đạn M-26). Tôi chưa kịp hỏi gì thì Hà biến mất. Cầm chân được
chúng tôi, địch lại tập trung áp đảo và bao vây tiểu đội Y-Broc. Tiếng
địch la hét hô “xung phong”nhằm uy hiếp tinh thần.
Bỗng tôi nghe ba tiếng lựu đạn nổ liên tiếp cùng những tiếng la hốt
hoảng và tiếng chân của quân địch chạy. Tôi nghĩ ngay đó là lựu đạn của
Hà. Khẩu đại liên của địch im tiếng. Chúng tôi nhanh chóng băng qua
đường và đồng loạt tập kích bên cạnh sườn địch bằng một loạt những quả
lựu đạn tung ra cùng môt lúc. Trên 20 trái lựu đạn tạo thành tiếng nổ
kinh hồn, như rung chuyển cả cánh rừng và mặt đất. Bọn đich tháo chạy
dưới những tràng đạn Pháo Binh của ta bắn chặn. Chúng tôi có lệnh không
truy kích, vì chưa kiểm soát được tổn thất và bắt tay với cánh quân của
Y-Broc.
Tôi lên tiếng gọi Y-Broc, bảo ngưng mọi tác xạ và tránh ngộ nhận, tôi sẽ
đến gặp. Khi tôi vừa bắt tay Y-Broc thì Hà cũng vừa chạy đến. May mắn
cả hai đều không thương tích. Tôi bảo lần này nhờ vào sự can đảm liều
lĩnh của Hà, diệt được khẩu đại liên địch, mới kịp tăng cường cứu nguy
cho Y-Broc. Ba thằng vội vã ôm choàng lấy nhau. Y- Broc bảo vừa đánh
địch phía trước vừa phải đề phòng sau lưng, vì sợ mũi công tác của VC từ
trong làng kéo ra. Tôi bảo Y-Broc để một bán tiểu đội và tổ trung liên
nằm tại chỗ, đề phòng phía sau. Pháo Binh tiếp tục bắn trái sáng để
chúng tôi bung ra lục soát. Rất may mắn như một điều kỳ diệu,, bên ta
chỉ có hai binh sĩ Thượng bị thương, đều thuộc tiểu đội bên cánh của
Y-Broc. Địch bỏ lại 9 xác chết và 12 vũ khí đủ loại, trong đó có một đại
liên bị hư hại và một khẩu K-54. Hai tên bị thương nặng, chúng tôi bắt
sống. Đa số địch chết vì lựu đạn và mìn Claymore. Năm tên banh xác dưới
cái hố lớn nơi đặt khẩu đại liên, bị hạ sĩ Hà tiêu diệt. Đây cái hố
trũng do dân làng đào lấy đất đắp đường để lại.
Khi đại đội (-) tiếp ứng đến nơi, tình hình đã hoàn toàn yên tỉnh. Ông
đại đội trưởng ôm lấy chúng tôi mừng rỡ. Cả đại đội được lệnh vừa di
chuyển về vị trí tiểu đoàn vừa an ninh lộ trình để xe tản thương đến đưa
thương binh về bệnh xá, kể cả hai tên địch.
Sáng hôm sau, chúng tôi được ông Tiểu Đoàn Trưởng và ông Tiểu Khu Phó
đến thăm, bắt tay khen ngợi, bảo là tin tức tình báo không chính xác.
Đám VC vừa tao ngộ chiến với chúng tôi không phải là mũi công tác như
được cho biết là đã xâm nhập vào làng từ lúc chạng vạng tối. Thực ra đây
là đại đội địa phương của chúng đã hạ sơn trễ, mục đích chiếm ngôi làng
này và tấn công quấy rối vào vị trí đóng quân của tiểu đoàn, may mà
chúng tôi phát giác và phản ứng kịp thời. Tôi gọi hạ sĩ Hà đến và kể lại
thành tích bất ngờ nhưng hào hùng của anh. Hai ông cười, bắt tay Hà
khen ngợi.
Chiến công bất ngờ lần ấy, trung đội tôi được tưởng thưởng 5 anh dũng
bội tinh. Một ngôi sao vàng và 4 ngôi sao bạc. Điều vui hơn, là từ hôm
đó, ông tiểu đoàn trưởng đã nhìn Hà bằng cặp mắt khác. Có nhiều thiện
cảm hơn.
Khoảng hai tháng sau, trung đội được lệnh đi tiền đồn, bố trí quân trên
một ngọn đồi có nhiểu tảng đá lớn che chắn, một bên là núi, phía dưới là
biển rì rào, trên trời thì trăng sao vằng vặc. Khung cảnh thật thơ
mộng, nên trời đã khuya mà ba thằng chưa ngủ, nằm cạnh nhau bên hốc đá
tán gẫu chuyện thơ văn. Đang ngâm nga mấy bài thơ của thi sĩ Đinh Hùng
thì VC pháo kích mấy quả 80 ly rồi từ bên kia núi bắn sang nhiều loạt AK
và hô xung phong. Tôi nghĩ chúng chỉ hù dọa vì khoảng cách khá xa. Hơn
nữa ngọn đồi chúng tôi đóng quân khá kiên cố. Ba thằng vội bò dậy, hạ sĩ
Hà lấy cây M-79 thọt sang mấy quả, còn tôi thì điều chỉnh pháo binh tác
xạ mấy tràng. Yên lặng.
Trở lại hốc đá, Hà và tôi không thấy Y-Broc đâu cả. Vài phút sau nghe
tiếng lựu đạn nổ phía sau, cả trung đội báo động. Tôi chưa biết chuyện
gì xảy ra, thì Y-Broc chạy tới, bảo là có đặc công đôt nhập từ hướng
biển, nơi mà chúng tôi không ngờ. Thì ra bọn địch chơi trò dương đông
kích tây. Y-Broc có kinh nghiệm và đã nhanh trí trước mưu đồ của chúng,
nên kịp phát giác. Tôi xin Pháo Binh bắn soi sáng. Và nhờ đã chuẫn bị
các dấu hiệu nhận nhau cột trên cánh tay và mật khẩu, chúng tôi dễ dàng
kiểm soát tình hình. Một tên địch bị banh xác bởi trái lựu đạn của
Y-Broc. Hai tên khác bị lộ, nấp dưới một hố nhỏ, tôi cho ném lựu đạn cay
và bắt được chúng.
Thêm một lần nữa trung đội lập được chiến công, nhưng cũng không phải
nhờ tài năng hay đảm lược gì của tôi, anh chàng trung đội trưởng.
Không ngờ một anh hạ sĩ bị đánh rớt từ quân trường Đồng Đế, và một anh
trung sĩ người Thượng hiền lành, đều là hai nhà thơ lãng mạn, chuyên
khóc gió thương mây, mà lập được những chiến công hiển hách, cứu tôi và
cả trung đội hai lần thoát khỏi tình huống hiểm nguy. Riêng tôi đã học
thêm được một số kinh nghiệm chiến trường.
Sáu tháng sau, tiểu đoàn được tăng phái dài hạn một Chi Đoàn Thiết Quân
Vận M-113, xuống tàu Hải quân di chuyển vào Phan Thiết, để mở lại con
đường QL-1 từ Phan Thiết đến Phan Rang, đặc biệt giải tỏa khu vực dọc
theo Mật khu Lê Hồng Phong bị địch làm chủ tình hình hơn hai tháng nay.
Đồng thời giữ an ninh cho Công Binh thiết lập căn cứ Nora và Mara nằm
bên quốc lộ. Cuộc hành quân kết thúc tốt đẹp. Chúng tôi nhận lệnh bàn
giao các căn cứ và vị trí cho các đơn vị địa phương quân của TK Bình
Thuân, di chuyển đến phi trường quân sự Sông Mao để được không vận khẩn
cấp bằng các phi cơ Caribou lên Quảng Đức. Mục tiêu cuộc hành quân lần
này mới lạ và phức tạp hơn: trấn áp những cuộc nổi loạn của người
Thượng, sau khi có tin một số sĩ quan người Kinh tại một căn cứ hay quận
lỵ nào đó bị giết chết.
Tôi thực sự khó xử khi trong đơn vị có khá nhiều người Thượng và đặc
biệt trung sĩ Y-Broc là người mà tôi thương yêu quí mến. Nếu phải tấn
công vào lực lượng người Thượng phản loạn, tôi không biết phải ăn nói
làm sao, và liệu phản ứng của Y-Broc và các binh sĩ Thượng trong đơn vị
sẽ như thế nào? Cuối cùng, không phải chỉ có tôi mà ông tiểu đoàn trưởng
đã phải trông nhờ vào trung sĩ Y-Broc. Ông muốn anh về làm việc với bộ
chỉ huy tiểu đoàn, nhưng anh một mực xin được tiếp tục ở lại trung đội
với tôi và sẽ thi hành tất cả những gì vị Tiểu Đoàn Trưởng cần đến. Anh
hứa sẽ giải thích cho tất cả anh em binh sĩ Thượng trong đơn vị hiểu và
cũng tình nguyện làm trung gian hòa giải giữa đơn vị tôi và lực lượng
người Thượng nổi loạn ở Quảng Đức. Anh tin tưởng cuộc hòa giải sẽ thành
công để tránh những cuộc đụng độ giữa hai sắc tộc anh em Kinh-Thượng.
Rất may, khi đến Quảng Đức, tình hình đã lắng dịu. Sau đó khi đơn vị
hành quân qua các vùng có đông đúc người Thượng, trung sĩ Y-Broc trở
thành một cán bộ Tâm Lý Chiến tài ba, đã cảm hóa được hầu hết những quân
nhân và dân chúng Thượng trong vùng.
Quảng Đức là một tỉnh nhỏ, nằm heo hút giữa biên giới Lào-Việt, được
Tổng Thống Ngô Đình Diệm sáng lập với vài khu dinh điền, để định cư một
số người Bắc di cư năm 54 và tạo thành một trọng điểm chiến lược. Có lẽ
không một địa danh nào làm cho những người lính buồn chán bằng Quảng
Đức. Vậy mà tiểu đoàn tôi được lệnh ở lại đây gần một năm, giữ an ninh
cho khu dinh điền Đạo Nghĩa và thường xuyên hành quân tảo thanh dọc theo
biên giới.
Hơn mười tháng sau, ngay sau khi nhận lãnh chức vụ đại đội trưởng, tôi
được ông tiểu đoàn trưởng chỉ định dắt đại đội solo xuống núi, tăng
cường cho TK Lâm Đồng, giữ an ninh cho Công Binh tái thiết mấy cây cầu
trên QL-20 bị VC giật sập. Tôi kéo Y-Broc và Hà về ban chỉ huy đại đội.
Chúng tôi đóng quân trên một đồi trà mà ông chủ là một người Pháp. Nhờ
Y-Broc giỏi tiếng Pháp, nên ông chủ có cảm tình đặc biệt với bọn tôi,
thường đãi bọn tôi những bữa ăn với rượu Tây và thỉnh thoảng lấy xe chở
bọn tôi lên thành phố Đà Lạt rong chơi. Cà phê Tùng và quán Thủy Tạ trên
hồ Xuân Hương là nơi mà bọn tôi thường có mặt.
Hơn một tháng sau, đại đội được trả về tiểu đoàn, vừa di chuyển đến Di
Linh, tham dự một cuộc hành quân khẩn cấp, tiếp viện Tiểu Đoàn 22 BĐQ.
Đơn vị thiện chiến này vừa trải qua một cuộc hành quân dài hạn tại một
mật khu nằm giữa ranh giới ba tỉnh Bình Thuận – Ninh Thuân - Lâm Đồng,
tiêu diệt một số đơn vị địa phương và phá hủy một số kho lương thực của
địch. Trên đường rút quân về Lâm Đồng thỉ bị một đơn vị địch khác vừa
mới được điều động từ Vùng 3 đến làm nút chặn, bao vây. Địch đã tổ chức
trận địa sẵn, đặt nhiều cái chốt với súng đại liên và cả đại bác trên
các cao điểm. Tiểu Đoàn BĐQ chiến đấu dũng cảm trong một địa thế khá cam
go. Nhưng điều bất lợi là đạn dược sắp cạn mà không thể nhận tiếp tế
được.
Từ tuyến xuất phát đến mục tiêu khá xa, khoảng mười lăm cây số đường
chim bay. Lúc ấy phương tiện còn eo hẹp, trực thăng H-34 đổ quân rất
hiếm hoi, cả tiểu đoàn phải hành quân bằng đường bộ. Để di chuyển nhanh,
binh sĩ chỉ trang bị súng đạn và lương khô. Ngoài ra còn phải mang theo
thêm một cấp số đạn để tiếp tế khẩn cấp cho BĐQ. Tiểu đoàn chia làm ba
cánh, hổ trợ nhau. Vừa di chuyển thật nhanh theo lộ trình ngắn nhất, vừa
tung các toán tiền thám ra phía trước và hai bên đề phòng phục kích.
Đại đội tôi đi chung với BCH Tiểu Đoàn và đại đội chỉ huy yểm trợ. Hơn
hai phần ba lộ trình, cả đơn vị dừng lại nghỉ vài phút, ăn cơm, chuẩn bị
súng ống đạn dược cũng như tinh thần để tiến vào mục tiêu.
Khi có lệnh di chuyển, Y-Broc cho tôi biết hạ sĩ Hà tự dưng bị đau bụng
khá nặng, không thể đi được. Tôi cho y tá đại đội đi mời anh sĩ quan trợ
y tiểu đoàn đến khám. Hà mặt mày xanh mét, mắt nhắm lại vì đau đớn, mồ
hôi đổ đầy trên trán. Anh sĩ quan trợ y gốc cán sự y tế nhiều kinh
nghiệm, cho biết hạ sĩ Hà bị sưng ruột thừa cấp tính. Anh cho Hà uống
thuốc, nhưng bảo thuốc chỉ có thể giảm đau chốc lát, nhưng cần phải tải
thương về quân y viện để giải phẩu. Nếu kéo dài ruột thừa có thể bị vỡ
ra, nguy hiểm đến tính mạng. Tôi đi gặp ông tiểu đoàn trưởng trình bày
sự việc. Ông đi theo tôi đến tận nơi quan sát. Thấy ông đến nói chuyện
với anh cố vấn Mỹ, nhưng sau khi gọi máy liên lạc với ai đó, anh ta lắc
đầu. Sau một hồi suy nghĩ ông quyết định đem Hà giấu trong hốc núi, để
lại cho anh ta một ít thuốc uống giảm đau, lương khô và bốn trái lựu
đạn. Khi nào thanh toán xong mục tiêu, đơn vị sẽ quay trở lại đón anh.
Vì không thể tải thương và cũng không thể khiêng anh vào mục tiêu trong
lúc này được. Nhìn nét măt đăm chiêu khổ sở của ông tiểu đoàn trưởng,
tôi biết rất khó khăn để ông đưa ra quyết định này. Không thể vì một
người mà gây trở ngại cho cả một đơn vị, nhất là trong tình trạng đặc
biệt khẩn cấp. Tôi nhìn Hà đau đớn mà đứt ruột.
Ông tiểu đoàn trưởng vừa bước chân đi, tôi vội chạy theo đề nghị xin cho
tôi cử một tiểu đội, gồm những binh sĩ giỏi, nhanh nhẹn, võng hạ sĩ Hà
ngược ra điểm xuất phát sáng nay để xe tiểu đoàn đến đón đưa đi bệnh
viện. Tôi xin nhận lãnh mọi trách nhiệm được giao phó cho đại đội khi
vào mục tiêu phía trước. Ông ngần ngừ, bảo rất nguy hiểm, theo kinh
nghiệm, chắc chắn có vài toán thám sát của địch đã bám theo tiểu đoàn.
Y-Broc nghe tôi trình bày vội vàng chạy tới, đứng nghiêm chào, xin tình
nguyện tổ chức và chỉ huy tiểu đội đặc biệt đưa hạ sĩ Hà ra khỏi vùng
hành quân. Ông tiểu đoàn trưởng gật đầu, vỗ vai bảo Y-Broc phải hết sức
cẩn thận. Y-Broc chọn tám người lính Thượng khỏe mạnh, nhanh nhẹn, và
rất sở trường việc di chuyển trong rừng. Sau khi sắp xếp cho việc tải
thương hạ sĩ Hà xong, cả đơn vị tiếp tục di chuyển về hướng mục tiêu.
Tôi cảm thấy lo âu, vừa cho sự an toàn của họ vừa thiếu mất một anh
trung sĩ và mấy anh lính Thượng can đảm, giàu kinh nghiệm chiến đấu, khi
đại đội sắp phải đánh vào một mục tiêu gay go trước mặt. Nhưng rồi lại
thấy vui trong lòng, khi nghĩ đến hạ sĩ Hà sẽ được bình an, cứu chữa.
Sau gần một tiếng đồng hồ, đơn vị đến mục tiêu. Không khí yên lặng nặng
nề. Khi cho đại đội bung rộng ra thăm dò tình hình, tôi bỗng nghe nhiều
tiếng súng nổ xa xa phía sau lưng. Tôi nghĩ có lẽ tiểu đội đặc biệt của
Y-Broc đã đụng địch. Chưa kịp lo lắng cho số phận của anh em, nhất là hạ
sĩ Hà đang trong tình trạng ốm đau không chiến đấu tự vệ được, thì địch
bắt đầu nổ súng tấn công đại đội. Tôi phát giác khẩu đại liên của địch
trong hốc đá trên triền núi, sẽ là mối đe dọa cho đại đội. Cho binh sĩ
tản vào các gốc cây và tảng đá tạm thời ẩn nấp, tôi xin tiểu đoàn tăng
cường khẩu đại bác SKZ 75 ly, tác xạ liên tiếp 2 quả vào vị trí đại liên
của địch, đồng thời cho trung đội đi một cánh riêng trên triền núi, bò
lên ném tiếp mấy quả lựu đạn. Khẩu đại liên im tiếng. Tiểu Đoàn ồ ạt tấn
công phía sau lưng địch. Khi thấy thêm vài ổ súng khác của địch trên
triền núi, nhằm cầm chân đơn vị ta, anh sĩ quan đề-lô rất năng nổ của
tiểu đoàn thay vì gọi Pháo binh tác xạ, đã trực tiếp hướng dẫn phi công
L-19, đánh dấu chính xác địa điểm các ổ đại liên và ống phóng hỏa tiễn
của địch. Hai phi tuần khu trục thi nhau oanh kích.
Tiểu Đoàn 22 BĐQ biết có đơn vị bạn tiếp viện, đã anh dũng đánh ra. Địch
quân bất ngờ bị kẹt trong thế gọng kềm, bung ra chạy thoát thân, nhiều
tên bị các tay súng của ta đốn ngã. Tiếng anh phi công L-19 la hét vui
mừng trên tần số, gọi các phi tuần tiếp tục rãi bom xuống đầu địch. Khi
đại đội tôi tiến lên bắt tay cánh quân Biệt Động Quân, rất bất ngờ và
cảm động khi nhận ra anh đại đội trưởng BĐQ đi đầu lại là người bạn học
cùng quê và cùng khóa Thủ Đức: thiếu úy Trương Tấn Anh. Anh bị thương
nhẹ, trên cánh tay còn tấm băng rỉ máu, nhưng vẫn điều động đại đội phản
công quyết liệt với số đạn ít oi còn lại sau một cuộc hành quân dài
hạn, đã vậy còn phải mang theo một số thương binh, tử sĩ. Chia đạn cho
anh em BĐQ xong, chúng tôi cùng tiếp tục truy kích, thu nhặt nhiều chiến
lợi phẩm. Xác địch nằm la liệt trên trận địa.
Khi có lệnh tạm bố trí nghỉ ngơi, tôi sực nhớ tới Y-Broc cùng toán lính
đưa hạ sĩ Hà ra lại Di Linh, lòng bồn chồn, không biết họ ra sao. Mấy
đợt súng nổ tôi nghe được trước khi tấn công mục tiêu có phải là họ đã
phải chiến đấu với địch? Tôi cố gắng liên lạc, nhưng chỉ nghe tiếng rè
rè của chiếc máy PRC- 10 (thời ấy chưa có PRC-25).
Mãi đến khi rút quân ra hơn nửa đường, tôi mới nghe tiếng ông thượng sĩ
chỉ huy tiền trạm báo cáo trên hệ thống vô tuyến: Toán của trung sĩ Y
Kroc đã chiến đấu rất dũng cảm để tiêu diệt đám VC chặn đánh, cứu hạ sĩ
Hà khỏi bị bắt. Tuy nhiên bên ta có trung sĩ Y-Broc và hai binh sĩ bị
thương nhẹ. Riêng hạ sĩ Hà bị thương nặng, đã được tải thương về QYV
Nguyễn Huệ - Nha Trang.
Vừa về đến Di Linh, ông tiểu đoàn trưởng và tôi chạy đến thăm Y- Broc
tại bệnh xá của huyện. Anh bị một viên vào cánh tay trái, may mắn là
không vào xương. Anh kể lại khi bị VC tấn công, tất cả đều quyết liệt
phản công. Hà lại bị thương ngay loạt đạn đầu tiên của đich, dù không di
chuyển được, vẫn nằm môt chỗ chiến đấu. Tôi nghiệp, hai anh lính võng
hạ sĩ Hà, vì phải nằm lại bảo vệ Hà, nên đã trúng đạn địch. Nhưng chính
nhờ hai anh lính này, mà Y-Broc và sáu khinh binh còn lại đã quật ngã
đám địch. Anh chỉ lo cho Hà vừa bị trọng bệnh lại vừa bị trọng thương
nên tính mạng rất mong manh.
Sau trận ấy, Y-Broc được chuyển về tiểu đoàn làm phụ tá SQ Tâm Lý Chiến.
Nhưng chỉ một tháng sau, khi có lệnh cho các hạ sĩ quan gốc thiểu số
được ưu tiên theo học khóa sĩ quan. Y-Broc rời đơn vị, nhập học một khóa
sĩ quan ở trường Thủ Đức. Nhờ có sức khỏe và khả năng Anh, Pháp ngữ,
anh được tuyển sang Không Quân, ngành phi công trực thăng. Ra trường
được bổ nhậm về một phi đoàn thuộc Vùng 3. Sau đó một vài năm tôi mất
liên lạc với anh.
Năm 1985, chỉ mấy tháng sau khi ra tù, tôi cùng vợ con vượt biển. Được
tàu Na-uy cứu vớt trước khi một cơn bão ập đến. Chúng tôi được đưa vào
trại tị nạn Singapore và sau đó chuyển tiếp sang trại Bataan ở Phi Luật
Tân. Trại Bataan lúc ấy gồm có mười Vùng. Gia đình tôi ở Vùng 1 là nơi
dành riêng cho những người được tàu Na-uy vớt, được học ngôn ngữ Na-uy
từ 6 đến 8 tháng trước khi đi định cư ở đất nước Bắc Âu lạnh lẽo nhưng
rất giàu lòng nhân đạo này.
Tôi tham gia vào Hội Cựu Quân Nhân do vị đại tá trại phó, người Phi, hỗ
trợ mọi mặt. Ông đã từng có một thời gian phục vụ ở Việt nam trong lực
lượng đồng minh và hết lòng ca ngợi QLVNCH, cũng như rất đau đớn khi
nghe tin miền Nam VN thất thủ. Ông đã bàn giao lại cho Hội Cựu Quân Nhân
chúng tôi lá quốc kỳ của Tòa Đại Sứ VNCH tại Manila. Hội Cựu Quân Nhân
hỗ trợ các ban đại diện Vùng giải quyết các vấn đề an ninh trong trại.
Một hôm, một cô gái người Thượng đi tắm suối bị ba người lạ mặt bắt đưa
vào rừng hãm hiếp. Địa điểm này lại nằm gần Vùng 1, nên mọi nghi ngờ đểu
đổ dồn về Vùng 1 chúng tôi. Người Thượng tị nạn lúc ấy có khoảng 70
người, ở Vùng 2, tập trung kéo đến với gậy gộc, hò hét, đòi tập trung
tất cả người Vùng 1 để cô gái kia nhận diện, tuyên bố là nếu tìm ra thủ
phạm, họ sẽ tự giải quyết mà không cần đến ban chỉ huy trại.
Thấy tình hình quá căng thẳng, có thể nguy hiểm khôn lường, tôi nhờ anh
Cảnh sát Phi, có trạm gác phía sau Vùng 1, liên lạc yêu cầu Đại Tá Trại
Phó đến gặp tôi. Ông đại tá cho điều động cảnh sát võ trang, nhưng chỉ
chia nhau ẩn trong các dãy nhà, ngại người Thượng có thể liều lĩnh tai
hại. Ông yêu cầu người Thượng đề cử một ban đại diện không quá 5 người
vào trạm cảnh sát nằm sau Vùng 1 gặp một số đại diện người Kinh. Tôi nằm
trong ban đại diện người Kinh ấy. Chúng tôi vào trạm trước ngồi chờ.
Khi nhóm đại diện người Thượng bước vào, và anh trưởng nhóm chào ông đại
tá và chúng tôi, tôi há hốc miệng khi nhận ra người ấy chính là Y-Broc,
người bạn đồng đội thân thiết rất dễ thương từng sống chết với tôi ngày
trước, tôi gọi lớn tên anh:
- Có phải Y-Broc Niê ở tiểu đoàn Hải Ưng ngày xưa đây không?
Y-Broc ngước mắt nhìn rồi bước tới ôm chầm lấy tôi, trước sự ngỡ ngàng
của tất cả mọi người. Anh quay lại nói với những người Thượng một tràng
tiếng Thượng. Tôi không hiểu gì nhưng nhận ra nét mặt của họ đột nhiên
dịu lại. Tôi kể cho ông đại tá về sự quen biết giữa chúng tôi, ông bắt
tay hớn hở. Tôi nói với Y-Broc là chúng tôi sẽ phối họp với an ninh
trại, cho điều tra thật nhanh chóng sự việc đáng buồn này. Kết quả thế
nào tôi sẽ báo cho Y-Broc biết, để cùng tìm một giải pháp. Tránh để xảy
ra trường hợp thù hận giữa hai sắc tộc như năm nào ở Quảng Đức mà chính
Y-Broc từng là vị sứ giả hòa bình. Y- Broc gật đầu cám ơn mọi người rồi
dắt tay tôi ra chỗ những người Thượng đang tập trung chờ đợi phía trước,
Anh ôm vai tôi, nói một hồi, toàn tiếng Thượng.
Không hiểu gì, nhưng tôi nhận ra cái giọng rất cảm động, có chút nghẹn
ngào. Thì ra anh ta vẫn có uy tín rất lớn với những người cùng sắc tộc.
Những lời nói của anh đã nhanh chóng thuyết phục được họ. Tất cả im lặng
kéo nhau về Vùng 2. Y-Broc mời ông đại tá trại phó và kéo tôi ra cái
quán ở trước Vùng 5 uống bia, với sự cho phép đặc biệt của ông trại phó
(người tị nạn không được phép uống bia rượu trong trại). Anh kể qua cho
tôi nghe quãng đời binh nghiệp của anh sau này. Đặc biệt từ đầu năm 1971
anh được biệt phái giữ một chức vụ khá lớn trong Bộ Phát Triển Sắc Tộc.
Tuy nhiên, lòng tôi chưa hết ưu tư, vì nếu thủ phạm vụ hiếp dâm cô gái
Thượng là người ở Vùng 1, liệu tôi sẽ phải ăn nói thế nào với anh và
những đồng hương đang tin tưởng kính mến anh. Rất may, trời thương chúng
tôi. Chỉ hai hôm sau, cảnh sát Phi đã bắt được thủ phạm, là ba thanh
niên người Phi, thợ mộc được trại thuê vào làm việc.
Khi Y-Broc tìm đến găp tôi để cho biết tin này, chúng tôi có dịp ngồi
bên nhau lâu hơn, ôn lại chuyện xưa. Y-Broc cho biết là anh vẫn còn độc
thân. Khi làm việc ở Sài gòn, anh bất ngờ gặp lại hạ sĩ Lại Trọng Hà.
Nhờ đọc được mấy bài thơ của tác giả Mây Cao Nguyên, trong đó có nhắc
lại nhiều kỷ niêm ở đơn vị cũ. Cảm động nhất là bài thơ kể lại lần nhà
thơ thoát chết khi được những đồng đội dũng cảm người Thượng võng ra
khỏi vùng chiến trận. Anh không chết nhưng trở thành tàn phế. Y-Broc
liên lạc với tòa soạn của tờ tuần san có đăng mấy bài thơ để hỏi thăm
tin tức và địa chỉ của tác giả Mây Cao Nguyên.
Khi tìm đến căn nhà sàn nhỏ nằm cuối con hẻm bên bờ sông Thị Nghè,
Y-Broc đã gặp lại Hà. Anh sống với vợ chồng bà chị. Y-Broc bật khóc khi
nhìn thấy cả hai chân của Hà đã bị cưa tới đầu gối. Hai người bạn vừa
làm thơ vừa chiến đấu ngày xưa ôm lấy nhau mà không nói được lời nào. Họ
uống rượu, đọc thơ, rồi khóc cho đến lúc say mèm nằm lăn ra ngủ lúc nào
không biết.
Vài hôm sau, trên một tờ tuần san văn nghệ, Y-Broc đọc được bài thơ của
Mây Cao Nguyên, đề tặng anh. Bài thơ khá dài, Y-Broc chỉ còn nhớ vài
câu:
Sao lại là ta đến nỗi này
là Mây mà chẳng thấy mây bay
gặp mi ta nhớ rừng núi cũ
một thưở làm thơ giữa đạn thù
...
là Mây mà chẳng thấy mây bay
gặp mi ta nhớ rừng núi cũ
một thưở làm thơ giữa đạn thù
...
Thôi kể làm chi chuyện mất còn
ném đôi nạng gỗ xuống dòng sông
còn dăm bầu rượu chia nhau cạn
gõ nhịp mà ca thiên nhất phương...
ném đôi nạng gỗ xuống dòng sông
còn dăm bầu rượu chia nhau cạn
gõ nhịp mà ca thiên nhất phương...
Năm 1978, khi trốn thoát khỏi trại tù Gia Trung - Pleiku, Y-Broc không
dám trở về quê Ban Mê Thuột, vì có rất nhiều người biết anh. Anh chạy
thẳng vào Sài gòn, nhờ người mua được giấy tờ giả, với một cái tên giả.
Có lần anh trở lại con hẻm bên bờ sông xưa tìm thăm Hà, nhưng căn nhà ấy
không còn, đã được phá đi để cất lên một ngôi nhà mới, và người chủ nhà
cũng như những láng giềng không ai biết Hà, cũng như chưa bao giờ nghe
nói có một nhà thơ Mây Cao Nguyên nào từng ở trong con hẻm nhỏ này.
Điều bất ngờ thú vị là sau đó Y- Broc cũng đến định cư ở Na-uy, vì có cô
em gái đã đến đây trước, làm hồ sơ bảo lãnh cho anh. Tôi định cư sau
anh năm tháng. Khi còn ở Bataan tôi có nhận của anh một ít tiền và mấy
lá thư, chỉ cho một vài kinh nghiệm hội nhập và dặn dò đôi điều cần
thiết khi đến Na-uy. Một tháng sau khi đến Na-uy tôi tìm thăm anh.
Y-Broc ở một thành phố phía Nam, cách xa thủ đô Oslo, nơi gia đình tôi ở
khoảng 500 cây số. Anh xin được chỗ làm tốt trong Công ty dầu hỏa
Na-uy. Vừa làm vừa học thêm. Ba năm sau anh làm đám cưới với một cô giáo
người Na-uy. Vợ chồng tôi dự đám cưới, được vinh dự ngồi chung bàn cùng
cô dâu chú rể.
Trong tiệc cưới tôi được anh mời lên kể cho thực khách nghe về những kỷ
niệm của chúng tôi khi còn là lính chiến ở Việt nam. Tôi cũng không quên
nhắc lại chuyện tôi bất ngờ gặp lại anh ở trại tị nạn Bataan, và chuyện
một người bạn thương binh của chúng tôi, làm thơ rất hay, đánh giặc rất
liều, có thể còn sống ở đâu đó tại quê nhà mà chúng tôi rất nhớ. Sau
đó, bận rộn chuyện học hành, lo cho con cái hội nhập vào quê hương mới,
chúng tôi chỉ thỉnh thoảng gọi phôn thăm, đôi lúc nhận được vài bài thơ
của anh làm, được dịch ra tiếng Na-uy.
Năm sau, chị vợ sinh cho anh một cô con gái. Trông tấm ảnh. Cô bé lai
khá xinh. Ngày cháu tròn ba tuổi, vợ chồng tôi có ý định xuống thăm và
mừng sinh nhật cháu. Tôi nghĩ người Thượng theo chế độ mẫu hệ, nên được
con gái đầu lòng chắc Y-Broc vui mừng lắm. Nhưng gọi mấy lần không gặp
anh, chỉ nói chuyện với cô vợ. Lần cuối cùng cô sụt sùi cho biết là
Y-Broc đã biến mất. Người em của anh cho biết là anh đã cùng vài người
bạn cùng buôn bản lúc xưa, định cư ở North Carolina bên Mỹ, tìm đường
trở về biên giới Việt nam, tổ chức cho những người Thượng nổi dậy chống
chính quyền CS và cứu một số bạn bè chiến hữu người Thượng bị truy bắt,
phải vượt qua biên giới còn đang ẩn trốn ở đâu đó. Cho mãi đến bây giờ
vẫn không ai biêt tin tức của Y-Broc. Chắc chắn là anh đã chết.
Tôi thẫn thờ cả mấy ngày, như vừa mới mất đi một người thân, một người
bạn chí tình, khí khái và có tâm hồn, nghĩa hiệp. Tôi cũng nhớ tới Lại
Trọng Hà, nhà thơ Mây Cao Nguyên. Không biết giờ này anh đang ở đâu, và
với đôi chân tàn phế ấy, anh sẽ phải sống như thế nào trong một xã hội
mà kẻ thù đang ngự trị. Lúc trước anh còn có thể xoa dịu vết thương cùng
nỗi bất hạnh bằng những bài thơ viết với trái tim mình, nhắc nhớ kỷ
niệm chiến trường cùng những đồng đội yêu thương. Giờ thì ôm bao nỗi đau
trong lòng mà chẳng biết chia sẻ cùng ai. Một vài lần bán sách góp vào
quỹ các tổ chức cứu trợ thương phế binh, tôi có nhờ các vị trong những
tổ chức nhân đạo này, nhưng không ai tìm thấy tên Lại Trọng Hà trong các
hồ sơ hoặc danh sách thương phế binh xin trợ giúp..
Trong những giấc mơ đôi lúc tôi thấy ba thằng chúng tôi nằm bên nhau,
ngâm nga thơ phú trên ngọn đồi có nhiều tảng đá, một bên lá núi một bên
là biển, giữa bầu trời vằng vặc trăng sao, trong tiếng đạn pháo và tiếng
hô xung phong của đám quân thù. Giật mình tỉnh giấc, tôi có cảm giác
như đang chơi vơi lơ lửng trong một khoảng không bao la nào đó.
Trích từ bietdongquan.com
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire