23
tháng chạp đưa ông Táo về trời, ở miền Bắc cỗ cúng gồm 3 mũ ông công,
cá chép vàng. Người miền Trung cúng thêm con ngựa giấy, trong khi miền
Nam chỉ cần mũ, áo ông công là đủ.
Không khí Tết bắt đầu nhộn nhịp kể từ ngày tiễn Táo quân về chầu trời vào 23 tháng chạp. Đồ cúng gồm bánh, kẹo và nước trà. Lễ vật cúng Táo công thường có 3 chiếc mũ ông công (2 mũ đàn ông và 1 mũ đàn bà). Những đồ vàng mã này sẽ được đốt đi sau lễ cúng ông Táo.
Ngoài ra, để ông Táo có phương tiện về chầu trời, người miền Bắc hay cúng một con cá chép (hay cá vàng) còn sống thả trong chậu nước. Sau đó, cá sẽ được phóng sinh ra ao hồ hay ra sông. Tuy nhiên, tục phóng sinh ngày nay cũng bị lạm dụng, nhiều người mua hàng trăm con cá để phóng sinh, thậm chí phóng sinh tôm, cua, ếch, nhái, rùa với số lượng lớn. Tôm cá chết gây ô nhiễm môi trường.
Nguời Việt có quan niệm cúng cá chép hoặc cá vàng
ngày Tết ông Táo. Ảnh: Phan Dương.
ngày Tết ông Táo. Ảnh: Phan Dương.
Theo tục xưa, những nhà có trẻ con còn cúng Táo quân một con gà luộc. Gà luộc này phải là gà trống mới tập gáy (tức gà mới lớn), ngụ ý nhờ Táo quân xin với Ngọc Hoàng cho đứa trẻ sau này lớn lên có nhiều nghị lực và sinh khí hiên ngang như con gà cồ.
Ở miền Trung, người dân hay cúng một con ngựa bằng giấy với yên, cương đầy đủ. Còn miền Nam, các nhà chỉ cúng mũ, áo và đôi khi bằng giấy là đủ.
Khi khấn, đa phần không cầu xin phú quý, cũng không cầu xin no đủ, mà chỉ xin Táo công bẩm báo điều tốt, bớt nói điều không hay. Từ 30 Tết đến mùng 5 Tết, các nhà lại dán ảnh Táo quân để mời ngài quay trở lại.
Phương pháp đặt bàn thờ Táo quân:
Người Việt quan niệm ba vị thần Táo định đoạt phúc đức cho gia đình. Phúc đức này do việc làm đúng đạo lý của gia chủ và những người trong nhà. Tuy vậy, ngoài Bắc có xu hướng thờ chung là thổ địa, thổ công.
Trên thực tế, bếp là nơi nấu nướng phục vụ ăn uống, nếu không chú ý thì khả năng "Bệnh tòng khẩu nhập" khó đảm bảo bình an cho gia đình. Bếp là nguồn nuôi sống con người, vạn vật sống được là nhờ ăn uống, vì thế rất coi trọng bếp nấu.
Một số điều kiêng kỵ trong khu bếp:
- Bếp không quay ra cửa chính (có nghĩa là người nấu không quay lưng ra cửa).
- Cửa bếp không hướng ra cửa, tránh tà khí xông thẳng vào.
- Phía sau bếp phải là tường kín, không nên đặt ở cửa sổ.
- Đặt bếp tránh "Thủy hỏa xung khắc", không đối diện vòi nước hay tủ lạnh.
- Cửa bếp không đối diện phòng ngủ, bếp không gần phòng ngủ đặc biệt là đặt giường gần bếp.
- Cửa bếp không đối diện khu vệ sinh.
Quan niệm xưa cho rằng thần Táo cai quản việc bếp núc. Công việc chủ yếu của Táo quân là thay trời giám sát việc thiện ác tại mỗi gia đình, hàng năm vào dịp 23 tháng chạp ông Táo về thiên đình để báo cáo với Ngọc Hoàng mọi việc. Ngoài ra Táo quân còn là Thần hộ trạch (giữ nhà), không cho tà ma vào nhà gây rối cho gia đình.
Vị trí đặt bàn thờ Táo quân
Đặt bàn thờ Táo quân thường là ở bên trên bếp nấu (gọi là trang thờ), trên vách bàn thờ có câu liễn "Định phúc Táo quân".
Việc bài trí, sắp xếp của khu bếp ngăn nắp, đúng phong thủy sẽ làm cho chất lượng cuộc sống nâng cao. Khu bếp trong một gia đình phản ánh toàn bộ sinh hoạt, văn hóa của ngôi nhà đó, nhìn vào khu bếp ta có thể đánh giá được tính cách của chủ nhân. Dù việc bài trí có như thế nào, có đúng phong thủy hay không, thì làm đẹp cho khu bếp phản ánh nhu cầu ngày càng phát triển của xã hội hiện đại.
Có người thờ cúng nhưng để khu vực nhà bếp quá dơ bẩn cũng không tốt, vì chỗ nấu ăn là nơi rất cần sự sạch sẽ, an toàn vệ sinh thực phẩm.
(sưutầm)
NHÂN DỊP TẾT , TA HÃY TƯỞNG VỀ NĂM XƯA, TRONG GIA DINH, CHA MẸ ĐẦY ĐỦ VỚI MÂM CỖ TRONG NGÀY TẾT...XA XĂM QÚA....
Mâm cỗ Tết của người miền Bắc không chỉ đa dạng về món mà còn chú trọng đến hình thức, màu sắc với mong muốn một năm mới nhiều may mắn cho cả gia đình. Trong đời sống tinh thần của người Việt, Tết Nguyên Đán là khởi đầu cho một năm mới, vận hội mới của gia đình, cộng đồng và cả dân tộc. Thế nên gia đình dù còn khó khăn, người ta vẫn gắng sắm sửa mâm cỗ Tết thịnh soạn để tưởng nhớ ông bà, Tổ tiên, mong Tổ tiên phù hộ cho con cháu sức khỏe, học hành
tấn tới, làm ăn phát tài phát lộc.
Mâm cỗ truyền thống của người miền Bắc.
Ai đó, nếu đã biết qua về mâm
cỗ cổ truyền hẳn sẽ thấy mâm cỗ miền Bắc, đặc biệt là mâm cỗ Tết của người Hà Nội thường rất bài bản theo đúng nét cổ truyền của dân tộc. Mâm cỗ Tết miền Bắc thường có 4 bát, 4 đĩa tượng trưng cho tứ trụ, bốn mùa và bốn phương.
Cỗ lớn thì 6 bát 6 đĩa hoặc 8 bát 8 đĩa
tượng trưng cho phát lộc, phát tài. Có khi mâm cỗ lớn phải xếp cao đến 2, 3 tầng. Cỗ ngày xưa phải bày lên mâm gỗ hoặc mâm đồng, đi cùng với bát chiết yêu và đĩa cây mai.
Số lượng món ăn trên mâm thường mang ý nghĩa tượng trưng cho sự may mắn, đầy đủ .
>th
Bốn bát gồm một bát chân giò lợn hầm măng lưỡi, một bát bóng thả, một bát miến và một bát mọc nấm thả. Ngoài ra, nhiều gia đình còn chuẩn bị thêm một bát su hào thái chỉ ninh kỹ, một bát chim hầm để nguyên cả con, một bát gà tần hay nhiều gia đình giàu có xưa còn bày thêm bào ngư, vi cá để mâm cỗ thêm đầy đặn, sang trọng.
Bốn đĩa gồm một đĩa thịt gà, một đĩa thịt lợn, một đĩa giò lụa, một đĩa chả quế. Thậm chí nhiều gia đình còn bày thêm đĩa thịt đông - món ăn đặc trưng cho những ngày lạnh miền Bắc, đĩa giò thủ, đĩa xào hạnh nhân, đĩa cá kho riềng, đĩa nộm su hào hoặc nộm rau cần và nem rán. Món tráng miệng có mứt sen, mứt quất, mứt gừng, chè kho... Tuy là nhiều món nhưng mỗi món chỉ bày vào một bát hay đĩa nhỏ nên mâm cỗ Tết vừa đa dạng, hài hòa, lại đẹp mắt.
Cỗ Tết tuy nhiều món nhưng được bài trí gọn gàng, đẹp mắt vào những chiếc bát, đĩa nhỏ.
>th
Ngoài ra, mâm cỗ Tết đầy đủ không thể thiếu được bánh chưng, xôi gấc và đĩa dưa hành nén. Chính vì thế nên mỗi
độ Tết đến xuân về lòng người lại xốn xang rạo rực với:
“ Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ
Cây nêu, tràng pháo bánh chưng xanh”
>
Bánh chưng, dưa hành là cặp đôi không thể thiếu trong ngày Tết.
>th
Ngày nay do cuộc sống bận rộn, phần lớn các gia đình đều làm giản tiện, rất ít người nấu đủ mâm cỗ như xưa. Tuỳ theo mỗi gia đình mà người ta chuẩn bị những món khác nhau, nhưng không thể thiếu các món chính như: bánh chưng, dưa hành, giò lụa, giò thủ, nem, nộm su hào, canh bóng bì, canh măng chân giò, miến nấu và một đĩa xào… để mâm cỗ ngày Tết luôn trọn vẹn ý nghĩa đoàn viên, may mắn.
(theo Đỗ Linh)
--
2014 vừa đến thì Giáp Ngọ cũng phi nước đại vào. Mỗi năm, người Á Đông chúng ta được ăn Tết hai lần. Trong dịp này, tôi bỗng cần "ôn" lại phong tục tập quán ngày Tết ta và nhân thể nhắc qua ngày Tết "Tây" ở những quê-hương thứ hai của mình, nhân thể khai bút luôn.
Ngày đầu năm là một ngày lễ đã được ăn mừng từ lâu năm, lần đầu tiên hình như đã hơn bốn ngàn năm tại Babylone (hiện thuộc nước Iraq).
Thuở nguyên thuỷ, lúc kinh-tế dựa trên canh nông, người ta thường đánh dấu năm mới vào đầu mùa xuân, lúc vạn-vật bắt đầu sống lại và người nông dân bắt đầu gieo hạt đầu mùa. Dần dần, năm mới được "đồng hoá" vào ngày 1 tháng 1 đầu năm trong tất cả các loại lịch (âm-lịch hay dương-lịch).
1. Âm lịch - Dương lịch
Ngày Tết của người Tây phương được tính theo dương lịch (do Giáo-Hoàng Gregorio XIII lập nên). Ngày, tháng, năm được tính theo vị tri của quả đất chuyển động chung quanh mặt trời (do đó gọi là dương lịch): 365,5 ngày một năm (365 ngày hoặc 366 ngày những năm nhuận, mỗi 4 năm).
Ngày Tết ta thì được tính theo âm lịch, nghĩa là tháng được tính theo chu kỳ vận-hành của mặt trăng chung quanh quả đất: ngày đầu tháng là tháng mới (new moon / nouvelle lune) và ngày thứ 15 là trăng tròn (full moon / pleine lune) và 1 năm chỉ có 354 (29,5 x 12) ngày.
Trên thực tế, các loại lịch này phải được gọi là âm-dương lịch vì tháng được tính theo mặt trăng nhưng năm thì lại tính theo mặt trời để trùng khớp với mùa màng, cho nên cứ 2 (hoặc 3) năm phải thêm vào 1 tháng để 1 năm có đủ 365,5 ngày..
Ngày nay, dương lịch đã trở thành lịch quốc-tế, âm-dương lịch chỉ còn dùng cho những ngày lễ cổ-truyền hay tôn giáo (ngày Tết, Trung Thu, lễ Vu Lan...) hay trong thiên văn, tử vi.
2. Tết Tây
Hết năm cũ, sang năm mới là một cơ-hội để ăn mừng trên toàn thế-giới và ngày mồng 1 tháng giêng dương-lịch đã trở thành ngày lễ mừng năm mới trên (gần như) toàn cầu.
Nếu Giáng Sinh được xem như một ngày lễ trong gia-đình và ở nhà thì người ta thường ăn mừng năm mới với bạn bè ở ngoài (tiệm ăn, vũ trường, ...).
Và đã gọi là sang năm mới thì năm cũ phải kết-thúc, cho nên thời-điểm quan-trọng phải là lúc chuyển-tiếp, nghĩa là ngày 31 tháng 12 (dương-lịch), và đặc biệt là lúc 12 giờ khuya, trước khi bước qua năm sau.
Giao thừa bên Pháp gọi là "Réveillon de la Saint Sylvestre". Người Pháp thường đón giao-thừa bằng một bữa ăn thịnh soạn với gan ngỗng (foie gras) và champagne, rồi nhảy đầm; đến 12 giờ đêm thì hôn má và chúc mừng năm mới nhau dưới một cành tầm gửi (gui). Ở Paris, thì mọi người hay tụ tập nơi tháp Eiffel hay trên đại-lộ Champs Elysées.
Mừng năm mới thường chấm dứt vào ngày lễ Hiển Linh (Épiphanie) ngày 6 tháng 1 và hôm đó mọi người chia nhau ăn "bánh vua" (galette des rois).
Bên Mỹ, đặc biệt là ngày New Year's Eve (giao thừa), ở Nữu Ước (New York City), mọi người tụ tập ở 1, Time Square để xem quả cầu pha-lê (to 2 thước đường kính, nặng 500 ký) được từ từ hạ xuống, một phút trước 12 giờ đêm.
Một tục-lệ khác là gửi nhau thiệp chúc mừng năm mới, nhưng thời buổi Internet, thiệp giấy dần dần bị thay thế bằng thiệp điện-tử (email, text messages, ...).
Đầu năm, người Tây-phương còn có một tục-lệ có ý nghĩa là "ý định cương quyết" (tôi thật không biết phải dịch chữ "resolutions / résolutions" như thế nào?) : "Năm nay, tôi cương quyết sẽ... bỏ hút thuốc, xuống 10 ký-lô, đi học đàn/nhảy/nấu bếp..., bớt làm việc và dành nhiều giờ với gia-đình hơn, ...''
Tinh thần của những "nghị quyết" này là mượn dịp năm mới để sống lại (rebirth / renaissance), để làm lại từ đầu (starting fresh / repartir du bon pied), là không phó mặc cho số phận mà nhất quyết làm chủ đời mình. Làm được hay không lại là chuyện khác...
Đấy, tham khảo đó đây đại khái chỉ bấy nhiêu, ăn Tết kiểu Tây phương chỉ giản-dị vậy, đến khi vào Wikipedia xem "Tết Nguyên Đán" thì sơ sơ cũng hơn chục trang.
3. Tết Nguyên Đán
(phỏng theo Wikipedia)
Tết Nguyên Đán (hay còn gọi là Tết Cả, Tết Ta, Tết Âm lịch, Tết Cổ truyền hay chỉ đơn giản Tết) là dịp lễ quan trọng nhất của Việt-Nam.
Chữ "Tết" do chữ "Tiết" (節) mà thành. Hai chữ "Nguyên đán" (元旦) có gốc chữ Hán: "nguyên" có nghĩa là sự khởi đầu hay sơ khai và "đán" có nghĩa là buổi sáng sớm, cho nên đọc đúng phiên âm phải là "Tiết Nguyên Đán".
Phong-tục, tập quán của người Á-Đông chung quanh ngày Tết thì thật phức-tạp, có thể nói là "rườm rà" nên, nhất là thời buổi này, ít có gia-đình nào, trong hay ngoài nước, áp dụng hoàn toàn được. Chúng ta cũng nên duyệt sơ qua, gọi là ôn lại chút ít truyền-thống văn-hoá của dân-tộc mình.
3.1 Những giai-đoạn chính:
Sự khác biệt giữa âm lịch và âm-dương lịch khiến cho ngày Tết ta muộn hơn Tết tây và thường rơi vào giữa ngày 21 tháng 1 (dương lịch) và ngày 19 tháng 2 (dương lịch).
"Tháng giêng là tháng ăn chơi,
tháng hai trồng đậu, tháng ba trồng cà..."
Bài ca dao này muốn nói người ta ăn Tết không phải chỉ một ngày mồng một.
Nói đúng hơn nữa, không khí Tết đã bắt đầu từ ngày 23 tháng chạp là ngày mà người Việt cúng ông Táo (Táo Quân). Ông Táo vừa là thần bếp trong nhà vừa là người ghi chép tất cả những việc làm tốt xấu mà gia chủ đã làm trong năm cũ và báo cáo về Ngọc Hoàng.
Một số gia đình ở nông thôn vẫn còn gìn giữ phong tục dựng cây nêu để chống lại quỷ dữ và những điềm gở.
Ngày Tất niên (trước Tết) có thể là ngày 30 tháng chạp (nếu là năm đủ) hoặc 29 tháng Chạp (nếu là năm thiếu).
Buổi tối ngày này, gia đình sum họp lại với nhau để ăn cỗ cúng Giao thừa, là lễ cúng để đem bỏ hết đi những điều xấu của năm cũ sắp qua để đón những điều tốt đẹp của năm mới sắp đến. Giữa ngày 30 (hoặc 29) tháng Chạp và ngày mồng 1 tháng giêng (từ 23 giờ hôm trước đến 1 giờ hôm sau), giờ Tý là thời khắc quan trọng nhất của dịp Tết. Nó đánh dấu sự chuyển giao giữa năm cũ và năm mới và được gọi là Giao thừa.
Trong thời khắc giao thừa mọi người trong gia đình thường dành cho nhau những lời chúc tốt đẹp nhất.
đúng theo truyền-thống
Xông đất (hay đạp đất, mở hàng) là tục lệ đã có lâu đời ở Việt-nam. Với quan niệm ngày mồng Một "khai trương" một năm mới, vào ngày này, nếu mọi việc diễn ra suông sẻ, may mắn, cả năm cũng sẽ được tốt lành, thuận lợi. Ngay sau thời khắc giao thừa, bất cứ người nào bước từ ngoài vào nhà với lời chúc năm mới được coi là đã xông đất cho gia chủ. Người khách đến thăm nhà đầu tiên trong một năm cũng vì thế mà quan trọng. Cho nên cứ cuối năm, mọi người cố ý tìm xem những người trong bà con hay láng giềng có tính vui vẻ, linh hoạt, đạo đức và thành công để nhờ sang thăm. Nếu không tìm được người "lý tưởng" thì gia chủ tự xông đất bằng cách ra khỏi nhà rồi bước vào trở lại.
Hoá vàng: Ngày mồng 4 tháng Giêng theo lịch cổ là ngày con nước. Trong ngày này (hoặc ngày mồng 5), người Việt làm lễ cúng tổ tiên đã về ăn Tết với con cháu và đốt nhiều vàng mã để tiền nhân về cõi âm có thêm tiền vốn đầu năm, mà phù hộ độ trì cho con cháu hậu thế làm ăn phát đạt. Tại nhiều vùng ở Đồng bằng Bắc Bộ, người Việt có tục hát chèo đò đưa tổ tiên trở lại thế giới bên kia.
ThienMusic
Chúc các bạn một năm Giáp Ngọ 2014
An Khang và Thịnh Vượng.
***
PARIS Đón Tết.
Paris, la saison du nouvel an Tết.
Lời : Thanh Vân.
Nhạc : Quách Vĩnh Thiện.
Tiếng hát : Quang Minh.
Tết Paris, có nhánh mai vàng,
Tết Paris, có mứt gừng kẹo dẻo,
Tết Paris, trời giá lạnh tuyết rơi rơi,
Tết Paris, cầu chúc mọi người vui tươi.
Mừng Xuân người tha hương đón Tết,
Bày bàn thờ, chào năm mới, đón tổ tiên,
Dưa giá thịt kho, bánh chưng bánh tét,
Nén hương thơm cầu nguyện bình an.
*
Đám trẻ con được lì xì bao thơ đỏ,
Đoàn Lân Tàu biểu diển, trống liên hồi,
Người tha hương bổng nhớ Tết năm xưa,
Lòng nao nao hướng về quê hương.
Tết Paris, có nhánh mai vàng,
Tết Paris, có mứt gừng kẹo dẻo,
Tết Paris, trời giá lạnh tuyết rơi rơi,
Tết Paris, cầu chúc mọi người vui tươi.
Nhớ kỹ niệm ngày Xuân xưa đầm ấm,
Bên Mẹ Cha chờ náo nức đêm Xuân,
Tiếng pháo giao thừa, bàn thờ thiên lộ,
Quê hương ơi xa cách dạt dào thương.
*
Chợ Tết rộn ràng, khách chen lấn vui Xuân,
Tiếng nói cười, chúc mừng năm mới đẹp,
Vạn sự lành, cùng hạnh phúc tốt tươi,
Thịnh Vượng, Thanh Bình, Sức Khỏe, An Vui,
Dù xa xứ, vẫn không quên mừng đón Tết,
Dù xa xứ, vẫn không quên mừng đón Tết.
Voyages en Image et en musique :
Quách Vĩnh Thiện
http://www.thienmusic.com
Président
ACTV
Association Culturelle Traditionnelle Vietnamienne
( Hội Văn Hóa Cổ Truyền Việt Nam )
Tết Tây - Tết Ta
2014 vừa đến thì Giáp Ngọ cũng phi nước đại vào. Mỗi năm, người Á Đông chúng ta được ăn Tết hai lần. Trong dịp này, tôi bỗng cần "ôn" lại phong tục tập quán ngày Tết ta và nhân thể nhắc qua ngày Tết "Tây" ở những quê-hương thứ hai của mình, nhân thể khai bút luôn.
Ngày đầu năm là một ngày lễ đã được ăn mừng từ lâu năm, lần đầu tiên hình như đã hơn bốn ngàn năm tại Babylone (hiện thuộc nước Iraq).
Thuở nguyên thuỷ, lúc kinh-tế dựa trên canh nông, người ta thường đánh dấu năm mới vào đầu mùa xuân, lúc vạn-vật bắt đầu sống lại và người nông dân bắt đầu gieo hạt đầu mùa. Dần dần, năm mới được "đồng hoá" vào ngày 1 tháng 1 đầu năm trong tất cả các loại lịch (âm-lịch hay dương-lịch).
1. Âm lịch - Dương lịch
Ngày Tết của người Tây phương được tính theo dương lịch (do Giáo-Hoàng Gregorio XIII lập nên). Ngày, tháng, năm được tính theo vị tri của quả đất chuyển động chung quanh mặt trời (do đó gọi là dương lịch): 365,5 ngày một năm (365 ngày hoặc 366 ngày những năm nhuận, mỗi 4 năm).
Ngày Tết ta thì được tính theo âm lịch, nghĩa là tháng được tính theo chu kỳ vận-hành của mặt trăng chung quanh quả đất: ngày đầu tháng là tháng mới (new moon / nouvelle lune) và ngày thứ 15 là trăng tròn (full moon / pleine lune) và 1 năm chỉ có 354 (29,5 x 12) ngày.
Trên thực tế, các loại lịch này phải được gọi là âm-dương lịch vì tháng được tính theo mặt trăng nhưng năm thì lại tính theo mặt trời để trùng khớp với mùa màng, cho nên cứ 2 (hoặc 3) năm phải thêm vào 1 tháng để 1 năm có đủ 365,5 ngày..
Ngày nay, dương lịch đã trở thành lịch quốc-tế, âm-dương lịch chỉ còn dùng cho những ngày lễ cổ-truyền hay tôn giáo (ngày Tết, Trung Thu, lễ Vu Lan...) hay trong thiên văn, tử vi.
2. Tết Tây
Hết năm cũ, sang năm mới là một cơ-hội để ăn mừng trên toàn thế-giới và ngày mồng 1 tháng giêng dương-lịch đã trở thành ngày lễ mừng năm mới trên (gần như) toàn cầu.
Nếu Giáng Sinh được xem như một ngày lễ trong gia-đình và ở nhà thì người ta thường ăn mừng năm mới với bạn bè ở ngoài (tiệm ăn, vũ trường, ...).
Và đã gọi là sang năm mới thì năm cũ phải kết-thúc, cho nên thời-điểm quan-trọng phải là lúc chuyển-tiếp, nghĩa là ngày 31 tháng 12 (dương-lịch), và đặc biệt là lúc 12 giờ khuya, trước khi bước qua năm sau.
Giao thừa bên Pháp gọi là "Réveillon de la Saint Sylvestre". Người Pháp thường đón giao-thừa bằng một bữa ăn thịnh soạn với gan ngỗng (foie gras) và champagne, rồi nhảy đầm; đến 12 giờ đêm thì hôn má và chúc mừng năm mới nhau dưới một cành tầm gửi (gui). Ở Paris, thì mọi người hay tụ tập nơi tháp Eiffel hay trên đại-lộ Champs Elysées.
Mừng năm mới thường chấm dứt vào ngày lễ Hiển Linh (Épiphanie) ngày 6 tháng 1 và hôm đó mọi người chia nhau ăn "bánh vua" (galette des rois).
Bên Mỹ, đặc biệt là ngày New Year's Eve (giao thừa), ở Nữu Ước (New York City), mọi người tụ tập ở 1, Time Square để xem quả cầu pha-lê (to 2 thước đường kính, nặng 500 ký) được từ từ hạ xuống, một phút trước 12 giờ đêm.
Một tục-lệ khác là gửi nhau thiệp chúc mừng năm mới, nhưng thời buổi Internet, thiệp giấy dần dần bị thay thế bằng thiệp điện-tử (email, text messages, ...).
Đầu năm, người Tây-phương còn có một tục-lệ có ý nghĩa là "ý định cương quyết" (tôi thật không biết phải dịch chữ "resolutions / résolutions" như thế nào?) : "Năm nay, tôi cương quyết sẽ... bỏ hút thuốc, xuống 10 ký-lô, đi học đàn/nhảy/nấu bếp..., bớt làm việc và dành nhiều giờ với gia-đình hơn, ...''
Tinh thần của những "nghị quyết" này là mượn dịp năm mới để sống lại (rebirth / renaissance), để làm lại từ đầu (starting fresh / repartir du bon pied), là không phó mặc cho số phận mà nhất quyết làm chủ đời mình. Làm được hay không lại là chuyện khác...
Đấy, tham khảo đó đây đại khái chỉ bấy nhiêu, ăn Tết kiểu Tây phương chỉ giản-dị vậy, đến khi vào Wikipedia xem "Tết Nguyên Đán" thì sơ sơ cũng hơn chục trang.
3. Tết Nguyên Đán
(phỏng theo Wikipedia)
Tết Nguyên Đán (hay còn gọi là Tết Cả, Tết Ta, Tết Âm lịch, Tết Cổ truyền hay chỉ đơn giản Tết) là dịp lễ quan trọng nhất của Việt-Nam.
Chữ "Tết" do chữ "Tiết" (節) mà thành. Hai chữ "Nguyên đán" (元旦) có gốc chữ Hán: "nguyên" có nghĩa là sự khởi đầu hay sơ khai và "đán" có nghĩa là buổi sáng sớm, cho nên đọc đúng phiên âm phải là "Tiết Nguyên Đán".
Phong-tục, tập quán của người Á-Đông chung quanh ngày Tết thì thật phức-tạp, có thể nói là "rườm rà" nên, nhất là thời buổi này, ít có gia-đình nào, trong hay ngoài nước, áp dụng hoàn toàn được. Chúng ta cũng nên duyệt sơ qua, gọi là ôn lại chút ít truyền-thống văn-hoá của dân-tộc mình.
3.1 Những giai-đoạn chính:
Sự khác biệt giữa âm lịch và âm-dương lịch khiến cho ngày Tết ta muộn hơn Tết tây và thường rơi vào giữa ngày 21 tháng 1 (dương lịch) và ngày 19 tháng 2 (dương lịch).
"Tháng giêng là tháng ăn chơi,
tháng hai trồng đậu, tháng ba trồng cà..."
Bài ca dao này muốn nói người ta ăn Tết không phải chỉ một ngày mồng một.
Nói đúng hơn nữa, không khí Tết đã bắt đầu từ ngày 23 tháng chạp là ngày mà người Việt cúng ông Táo (Táo Quân). Ông Táo vừa là thần bếp trong nhà vừa là người ghi chép tất cả những việc làm tốt xấu mà gia chủ đã làm trong năm cũ và báo cáo về Ngọc Hoàng.
Một số gia đình ở nông thôn vẫn còn gìn giữ phong tục dựng cây nêu để chống lại quỷ dữ và những điềm gở.
Ngày Tất niên (trước Tết) có thể là ngày 30 tháng chạp (nếu là năm đủ) hoặc 29 tháng Chạp (nếu là năm thiếu).
Buổi tối ngày này, gia đình sum họp lại với nhau để ăn cỗ cúng Giao thừa, là lễ cúng để đem bỏ hết đi những điều xấu của năm cũ sắp qua để đón những điều tốt đẹp của năm mới sắp đến. Giữa ngày 30 (hoặc 29) tháng Chạp và ngày mồng 1 tháng giêng (từ 23 giờ hôm trước đến 1 giờ hôm sau), giờ Tý là thời khắc quan trọng nhất của dịp Tết. Nó đánh dấu sự chuyển giao giữa năm cũ và năm mới và được gọi là Giao thừa.
Trong thời khắc giao thừa mọi người trong gia đình thường dành cho nhau những lời chúc tốt đẹp nhất.
Qua ngày mồng 1, chúng ta bước vào Tân niên (năm mới, sau Tết) và ăn Tết 7 ngày.
Ngày mồng Một tháng
Giêng (còn gọi
là ngày Chính đán) là ngày Tân niên đầu tiên và được
coi là ngày quan trọng nhất trong toàn bộ dịp Tết. Không kể những người tốt số,
hợp tuổi được mời đi xông đất vào sáng sớm ngày này, người Việt cổ thường không
ra khỏi nhà, chỉ bày cỗ cúng Tân niên, ăn tiệc và chúc tụng nhau trong nội bộ
gia đình.
Đối với những gia đình đã tách khỏi cha mẹ và cha mẹ vẫn
còn sống, họ đến chúc tết các ông bố
theo tục: Mồng Một Tết cha.
Cứ năm mới tới, mỗi người tăng lên
một tuổi, bởi vậy ngày mồng Một Tết là ngày con cháu "chúc thọ" ông
bà và các bậc cao niên.
Ngược lại, người lớn thường tặng trẻ em tiền bỏ trong một bao giấy đỏ, hay "hồng bao", gọi là "lì xì" với những lời chúc mừng ăn no, chóng lớn. Theo cổ tích Trung Quốc thì trong "hồng bao" có 8 đồng tiền (là Bát Tiên hóa thân) được đặt dưới gối đứa trẻ để xua đuổi quỷ đến quấy nhiễu, vì ma sẽ sợ giấy màu đỏ. Tiền mừng tuổi nhận được trong ngày Tết gọi là "Tiền mở hàng".
Ngược lại, người lớn thường tặng trẻ em tiền bỏ trong một bao giấy đỏ, hay "hồng bao", gọi là "lì xì" với những lời chúc mừng ăn no, chóng lớn. Theo cổ tích Trung Quốc thì trong "hồng bao" có 8 đồng tiền (là Bát Tiên hóa thân) được đặt dưới gối đứa trẻ để xua đuổi quỷ đến quấy nhiễu, vì ma sẽ sợ giấy màu đỏ. Tiền mừng tuổi nhận được trong ngày Tết gọi là "Tiền mở hàng".
Ngày mồng Hai là ngày có những hoạt
động cúng lễ tại gia vào sáng sớm. Sau đó, nguời ta chúc tết các bà mẹ theo tục
Mồng Hai Tết mẹ. Riêng đàn ông chuẩn bị lập gia đình còn phải đến nhà cha mẹ vợ
tương lai (nhạc gia) để chúc Tết theo tục "Đi sêu".
Ngày mồng Ba là ngày sau khi cúng cơm tại gia theo lệ cúng ít nhất đủ ba ngày Tết,
các học trò thường đến chúc Tết thầy dạy học theo tục Mồng Ba Tết thầy,đúng theo truyền-thống
Mùng Một thì ở nhà cha,
Mùng Hai nhà vợ, Mùng Ba nhà thầy
hay nói cách khác
Mùng Một tết cha,
Mùng Hai tết mẹ,
Mùng Ba tết thầy.
Xông đất (hay đạp đất, mở hàng) là tục lệ đã có lâu đời ở Việt-nam. Với quan niệm ngày mồng Một "khai trương" một năm mới, vào ngày này, nếu mọi việc diễn ra suông sẻ, may mắn, cả năm cũng sẽ được tốt lành, thuận lợi. Ngay sau thời khắc giao thừa, bất cứ người nào bước từ ngoài vào nhà với lời chúc năm mới được coi là đã xông đất cho gia chủ. Người khách đến thăm nhà đầu tiên trong một năm cũng vì thế mà quan trọng. Cho nên cứ cuối năm, mọi người cố ý tìm xem những người trong bà con hay láng giềng có tính vui vẻ, linh hoạt, đạo đức và thành công để nhờ sang thăm. Nếu không tìm được người "lý tưởng" thì gia chủ tự xông đất bằng cách ra khỏi nhà rồi bước vào trở lại.
Hoá vàng: Ngày mồng 4 tháng Giêng theo lịch cổ là ngày con nước. Trong ngày này (hoặc ngày mồng 5), người Việt làm lễ cúng tổ tiên đã về ăn Tết với con cháu và đốt nhiều vàng mã để tiền nhân về cõi âm có thêm tiền vốn đầu năm, mà phù hộ độ trì cho con cháu hậu thế làm ăn phát đạt. Tại nhiều vùng ở Đồng bằng Bắc Bộ, người Việt có tục hát chèo đò đưa tổ tiên trở lại thế giới bên kia.
Ngoài ra, còn có những tục lệ khác như:
- xuất hành: lần đi ra khỏi nhà ngày đầu tiên trong năm, thường được thực hiện vào ngày tốt đầu tiên của năm mới để đi tìm may mắn cho bản thân và gia đình, có người đi du xuân luôn;
- khai xuân tuỳ theo nghề nghiệp: khai trương, khai thương mở hàng, khai ấn (nếu là người có chức tước), khai bút (học trò, sĩ phu), khai canh (nhà nông) hay... khai pháo;
- hái cành lộc: ở các nơi đền, chùa miền Bắc ngụ ý xin hưởng chút lộc của Thần, Phật;
- khai hạ: hạ cây nêu ngày mồng 7 Tết, chấm dứt Tết nguyên đán để sau đó bắt đầu bước vào việc làm ăn trong năm mới;
- ... ...
- xuất hành: lần đi ra khỏi nhà ngày đầu tiên trong năm, thường được thực hiện vào ngày tốt đầu tiên của năm mới để đi tìm may mắn cho bản thân và gia đình, có người đi du xuân luôn;
- khai xuân tuỳ theo nghề nghiệp: khai trương, khai thương mở hàng, khai ấn (nếu là người có chức tước), khai bút (học trò, sĩ phu), khai canh (nhà nông) hay... khai pháo;
- hái cành lộc: ở các nơi đền, chùa miền Bắc ngụ ý xin hưởng chút lộc của Thần, Phật;
- khai hạ: hạ cây nêu ngày mồng 7 Tết, chấm dứt Tết nguyên đán để sau đó bắt đầu bước vào việc làm ăn trong năm mới;
- ... ...
3.2 Sắm Tết – Trang hoàng
Đã gọi là Tết thì phải linh đình, năm mới cái gì cũng phải mới và đây là dịp để đi sắm Tết. Chợ Tết là những phiên họp chợ vào
trước Tết, từ 25 tháng Chạp cho đến 30 tháng Chạp, bán nhiều mặt hàng, nhưng nhiều
nhất là các mặt hàng phục vụ cho tết Nguyên đán. Vào những ngày này, các chợ sẽ bán suốt cả đêm,
và đi chợ Tết đêm là một trong những cái thú đặc biệt. Kèm theo các chợ mua bán
ngày giáp tết đông đúc, nhiều nơi còn tổ chức các chợ hoa nhằm vui xuân.Những loại chợ Tết đặc biệt cũng sẽ chấm dứt vào
trước giờ Ngọ.
Cây Tết tiêu biểu nhất là cây nêu, một loại tre cao khoảng 5-6 thước, ngọn thường treo nhiều thứ (tùy theo từng địa
phương) như vàng mã, bùa trừ tà, cành xương rồng, bầu rượu bện bằng rơm,
hình cá chép bằng giấy để táo quân dùng làm
phương tiện về trời,...
Ngoài ra, cây quất được trang trí trong phòng khách, cây xum xuê, lá xanh tốt, quả vàng chi chít thể hiện sự trù phú, hứa hẹn năm mới được mùa, ăn nên làm ra, dồi dào sức sống.
Ngoài ra, cây quất được trang trí trong phòng khách, cây xum xuê, lá xanh tốt, quả vàng chi chít thể hiện sự trù phú, hứa hẹn năm mới được mùa, ăn nên làm ra, dồi dào sức sống.
Mâm ngũ quả là một mâm có khoảng năm thứ
trái cây khác nhau thường có trong ngày Tết.
Mâm ngũ quả của người miền Bắc gồm chuối, bưởi, đào, hồng, quýt, nhưng hầu như tất cả các loại quả đều có thể bày được, miễn là nhiều màu sắc. Mâm ngũ quả người miền Nam gồm dừa, đu đủ, mãng cầu, xoài, sung, với ngụ ý "cầu sung vừa đủ xài".
Cũng không thể quên quả dưa hấu mà An Tiêm đã mang lại cho chúng ta và đã được người Trung Hoa khen: "Hẩu".
Mâm ngũ quả của người miền Bắc gồm chuối, bưởi, đào, hồng, quýt, nhưng hầu như tất cả các loại quả đều có thể bày được, miễn là nhiều màu sắc. Mâm ngũ quả người miền Nam gồm dừa, đu đủ, mãng cầu, xoài, sung, với ngụ ý "cầu sung vừa đủ xài".
Cũng không thể quên quả dưa hấu mà An Tiêm đã mang lại cho chúng ta và đã được người Trung Hoa khen: "Hẩu".
Hoa Tết thì không thể thiếu hoa đào (để xua đuổi ma quỷ, theo sự tích hai vị thần ở núi Sóc Sơn) và hoa mai (màu vàng tượng trưng cho sự cao thượng vinh hiển
cao sang, cho sự phát triển nòi giống).
Hoa để cúng có thể là vạn thọ, cúc, huệ, ... và hoa để trang trí thì muôn màu sắc như hồng, thuỷ tiên, lan, cẩm chướng, thạch thảo, ...
Để trang trí trong những ngày Tết, đặc biệt còn có tranh Tết và câu đối Tết. Tranh Tết là một phần không thể thiếu và những màu sắc rực rỡ như khơi gợi nên cảm giác mới mẻ ấm cúng rộn rã sắc xuân trong mỗi gia đình của người Việt.
Câu đối Tết được viết bằng chữ Nho (màu đen hay vàng) trên những tấm giấy đỏ hay hồng đào cho nên còn được gọi là câu đối đỏ:
Và không ai là không nhớ bài thơ "ông đồ" của Vũ Đình Liên:
3.3 Ẩm-thực ngày Tết Thành ngữ Việt Nam có câu "Đói giỗ cha, no ba ngày Tết". Tết đến, dù nghèo khó đến đâu thì người ta cũng cố vay mượn, xoay xở để có đủ ăn trong ba ngày Tết sao cho "già được bát canh, trẻ có manh áo mới". Hơn thế nữa, dù có đói khát quanh năm thì đến Tết, mọi người, nhất là trẻ em thường được ăn uống no đủ.
Hoa để cúng có thể là vạn thọ, cúc, huệ, ... và hoa để trang trí thì muôn màu sắc như hồng, thuỷ tiên, lan, cẩm chướng, thạch thảo, ...
Để trang trí trong những ngày Tết, đặc biệt còn có tranh Tết và câu đối Tết. Tranh Tết là một phần không thể thiếu và những màu sắc rực rỡ như khơi gợi nên cảm giác mới mẻ ấm cúng rộn rã sắc xuân trong mỗi gia đình của người Việt.
Câu đối Tết được viết bằng chữ Nho (màu đen hay vàng) trên những tấm giấy đỏ hay hồng đào cho nên còn được gọi là câu đối đỏ:
Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ
Nêu cao, pháo nổ, bánh chưng xanh.
(Xin mời đọc thêm về câu đối trong bài "Tôi yêu tiếng nước tôi: Chơi chữ" tháng này
Mỗi năm hoa
đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu, giấy đỏ
Bên phố đông người qua
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa, rồng bay
Nhưng mỗi năm, mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu
Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay
Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ ?
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu, giấy đỏ
Bên phố đông người qua
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa, rồng bay
Nhưng mỗi năm, mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu
Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay
Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ ?
3.3 Ẩm-thực ngày Tết Thành ngữ Việt Nam có câu "Đói giỗ cha, no ba ngày Tết". Tết đến, dù nghèo khó đến đâu thì người ta cũng cố vay mượn, xoay xở để có đủ ăn trong ba ngày Tết sao cho "già được bát canh, trẻ có manh áo mới". Hơn thế nữa, dù có đói khát quanh năm thì đến Tết, mọi người, nhất là trẻ em thường được ăn uống no đủ.
Bữa ăn ngày Tết thường có nhiều món, đủ chất hơn và
sang trọng hơn bữa ăn ngày thường. Vì vậy mà người ta cũng thường gọi là
"ăn Tết".
Thức ăn mặn thì nhất định phải có những bánh truyền-thống như bánh chưng (vuông), bánh dày, bánh tét (còn gọi là bánh chưng tày hay bánh tày, tròn và dài) với dưa hành, gắn liền với các sự-tích cổ thời vua Hùng.
Tôi vẫn nhớ các món ăn giỗ ông bà hay cỗ Tết người Bắc có thể có bóng bì, canh măng, chân giò, miến gà, xôi gấc đỏ, thịt gà, thịt đông với dưa muối, giò lụa, nộm, cơm rượu, ...
Ngoài ra, các gia đình miền Nam thường có thêm nồi thịt kho, nước dừa (thịt kho rệu) và nồi khổ qua hầm và nem bì, dưa giá miền Nam, củ kiệu ngâm, bánh tráng (để quấn) để ăn mấy ngày Tết. Thông thường, người nội trợ miền Nam lục tỉnh nghỉ ngơi, không nấu nướng trong 3 ngày Tết, mà chỉ dùng thức ăn đã được chuẩn bị sẵn trước Tết.
Miền Trung có dưa món và món tré (giống giò thủ của miền Bắc nhưng nhiều vị củ riềng), thịt chua và tai heo, ...
Mứt Tết và các loại bánh kẹo khác để thờ cúng, sau đó dọn ra để đãi khách. Tôi cũng nhớ những lần cắn hạt dưa đến đỏ cả môi và tay, hạt bí, hạt hướng dương, ... Thức uống ngày Tết vẫn là rượu: rượu truyền-thống như rượu nếp thơm, nếp nương, nếp cẩm, rượu đế, ... hay những rượu Tây-phương như cognac, whisky, bia, ...
Sau bữa ăn, người ta thường dùng trà xanh.
3.4 Phong-tục, tập quán và sinh hoạt Tết Phong-tục Tết thì nhiều lắm. Ngoài những gì đã đề-cập ở phần trên, còn có:
Thức ăn mặn thì nhất định phải có những bánh truyền-thống như bánh chưng (vuông), bánh dày, bánh tét (còn gọi là bánh chưng tày hay bánh tày, tròn và dài) với dưa hành, gắn liền với các sự-tích cổ thời vua Hùng.
Tôi vẫn nhớ các món ăn giỗ ông bà hay cỗ Tết người Bắc có thể có bóng bì, canh măng, chân giò, miến gà, xôi gấc đỏ, thịt gà, thịt đông với dưa muối, giò lụa, nộm, cơm rượu, ...
Ngoài ra, các gia đình miền Nam thường có thêm nồi thịt kho, nước dừa (thịt kho rệu) và nồi khổ qua hầm và nem bì, dưa giá miền Nam, củ kiệu ngâm, bánh tráng (để quấn) để ăn mấy ngày Tết. Thông thường, người nội trợ miền Nam lục tỉnh nghỉ ngơi, không nấu nướng trong 3 ngày Tết, mà chỉ dùng thức ăn đã được chuẩn bị sẵn trước Tết.
Mứt Tết và các loại bánh kẹo khác để thờ cúng, sau đó dọn ra để đãi khách. Tôi cũng nhớ những lần cắn hạt dưa đến đỏ cả môi và tay, hạt bí, hạt hướng dương, ... Thức uống ngày Tết vẫn là rượu: rượu truyền-thống như rượu nếp thơm, nếp nương, nếp cẩm, rượu đế, ... hay những rượu Tây-phương như cognac, whisky, bia, ...
Sau bữa ăn, người ta thường dùng trà xanh.
3.4 Phong-tục, tập quán và sinh hoạt Tết Phong-tục Tết thì nhiều lắm. Ngoài những gì đã đề-cập ở phần trên, còn có:
Đốt pháo thường hay có trong dịp cúng tất niên hay thời khắc giao thừa ngày Tết cổ truyền để xua ma, trừ quỷ.
Áo quần mới: Ngày xưa, trước Tết một thời gian ngắn, các bà các mẹ trong nhà phải thức khuya quay tơ, dệt vải, may áo quần mới cho cả nhà. Công việc này thường kết thúc vào ngày cuối năm để đến sáng mùng Một Tết, cả nhà dậy sớm, thay quần áo mới làm lễ gia tiên. Người ta cho rằng cần phải rũ bỏ những cái cũ, cái không may mắn đi theo quần áo cũ và đón một năm mới với nhiều hy vọng và niềm vui mới từ bộ quần áo mới đó.
Áo quần mới: Ngày xưa, trước Tết một thời gian ngắn, các bà các mẹ trong nhà phải thức khuya quay tơ, dệt vải, may áo quần mới cho cả nhà. Công việc này thường kết thúc vào ngày cuối năm để đến sáng mùng Một Tết, cả nhà dậy sớm, thay quần áo mới làm lễ gia tiên. Người ta cho rằng cần phải rũ bỏ những cái cũ, cái không may mắn đi theo quần áo cũ và đón một năm mới với nhiều hy vọng và niềm vui mới từ bộ quần áo mới đó.
Trả nợ cũ: Đối với nhiều người Việt, cuối năm là dịp
trả nợ cũ, xóa bỏ xích mích của năm cũ, để hướng tới năm mới vui vẻ.
Tuỳ theo bản sắc văn hóa của mình, mỗi địa phương đều tổ chức lễ hội ngày tết với những phần "lễ" và phần "hội" chứa đựng những nét văn hóa khác nhau rất phong phú.
Các lễ hội truyền-thống thường có thi đấu cờ người (không phải loại của bà Hồ Xuân Hương đâu nhé), đua thuyền, đấu vật, múa lân, múa rồng, thi thả chim bồ câu...
Trò chơi dân gian: bịt mắt bắt dê, múa võ, hát bội, hát cải lương, hát chèo, đánh đu, chọi gà và nhiều trò dân gian cổ truyền khác.
Cờ bạc: Ngày xưa các gia đình có nề nếp quanh năm cấm
đoán con cháu không được cờ bạc rượu chè nhưng trong dịp Tết thì tam cúc, chắn, tổ tôm, cờ gánh, ai thích gì thì cứ chơi. Đến lễ khai hạ (hạ nêu) thì xé bộ tam cúc, cất bộ tổ
tôm... hoặc đốt các bộ bài trong lễ hóa vàng.
Còn
nhiều phong-tục thất -truyền nữa như "đi sêu Tết" (trước ngày Tết, con
rể tương lai mang lễ đến biếu bố mẹ vợ), lạy sống ông bà, hát sặc bùa
(trẻ con nghèo đến cửa các nhà vừa hát vừa gõ trống để được chủ nhà phát tiền mừng tuổi), ...
3.5 Tín
ngưỡng ngày Tết
Đi lễ chùa: Có người cả năm không đi lễ, nhưng đến Tết nhất thiết phải qua chùa thắp nén hương, dâng tiền giọt dầu hoặc tiền công đức cho chùa. Trong những ngày đầu năm âm lịch thì rất nhiều người thích đi lễ ở các lăng tẩm, đền chùa để cúng bái và xin xăm, nhất là vào buổi sáng mồng một. Phong tục này thường được tiến hành chung với tục lệ chọn hướng xuất hành và hái lộc. Xin xăm là một hình thức tin vào các thẻ xăm có ghi lời sấm báo trước điềm lành hay dữ trong năm và thường cần có thầy bàn xăm. Ở miền Bắc có tục "bốc quẻ thẻ" giống như tục "xin xăm" ở phía Nam.
Người Việt ta hay tin dị-đoan. Mong sao có những điềm lành như: - Sau Giao thừa, nếu hoa mai (loại 5 cánh) nở thêm nhiều và đầy đặn thì đó là một điềm may. Và may mắn hơn nữa khi có một hoặc vài bông hoa 6 cánh; - Chó lạ vào nhà: theo tục ngữ "Mèo đến nhà thì khó, Chó đến nhà thì sang"; - Cây đào nếu có nhiều cánh kép (hoa kép) 3 lớp (hàng) trên đài hoa và có hình dáng như bông hồng thì sẽ có nhiều phúc lộc; - Cây quất nếu có nhiều chồi xanh mọc thì năm đó sẽ có nhiều lộc. Nếu có đủ Tứ quý: quả chín, quả xanh, hoa và lộc thì sẽ may mắn và thành đạt cả năm; ... ... ...
Và cũng có nhiều điều kiêng kỵ nên tránh như: - Kỵ mai táng: Ngày Tết Nguyên Đán là ngày mở đầu cho vận hội hanh thông của cả một năm, có ý nghĩa rất thiêng liêng và gia đình phải tạm gác mối sầu riêng để hoà chung với niềm vui toàn dân tộc; - Ngày mùng Một Tết người ta rất kỵ người khác đến xin lửa nhà mình vì quan niệm lửa là đỏ, là may mắn, nên giữ, không nên cho đi; - Kiêng cho nước đầu năm vì nước được ví như nguồn tài lộc trong câu chúc "tiền vào như nước", nếu cho nước thì coi như mất lộc;- Theo quan niệm dân gian, việc quét nhà trong ngày Tết sẽ quét đi theo cả lộc xuân (xác pháo đốt trong đêm giao thừa), người quét nhà sẽ bị "rông" (xui xẻo) cả năm; - Ngày đầu năm cũng như ngày đầu tháng, người ta rất kiêng kỵ việc vay mượn hay trả nợ, cho vay (cho nên phải làm dịp cuối năm cho xong); - Trong ăn uống, người ta kiêng ăn thịt chó, cá mè, thịt vịt... nếu không sẽ "xúi quẩy".
Đi lễ chùa: Có người cả năm không đi lễ, nhưng đến Tết nhất thiết phải qua chùa thắp nén hương, dâng tiền giọt dầu hoặc tiền công đức cho chùa. Trong những ngày đầu năm âm lịch thì rất nhiều người thích đi lễ ở các lăng tẩm, đền chùa để cúng bái và xin xăm, nhất là vào buổi sáng mồng một. Phong tục này thường được tiến hành chung với tục lệ chọn hướng xuất hành và hái lộc. Xin xăm là một hình thức tin vào các thẻ xăm có ghi lời sấm báo trước điềm lành hay dữ trong năm và thường cần có thầy bàn xăm. Ở miền Bắc có tục "bốc quẻ thẻ" giống như tục "xin xăm" ở phía Nam.
Người Việt ta hay tin dị-đoan. Mong sao có những điềm lành như: - Sau Giao thừa, nếu hoa mai (loại 5 cánh) nở thêm nhiều và đầy đặn thì đó là một điềm may. Và may mắn hơn nữa khi có một hoặc vài bông hoa 6 cánh; - Chó lạ vào nhà: theo tục ngữ "Mèo đến nhà thì khó, Chó đến nhà thì sang"; - Cây đào nếu có nhiều cánh kép (hoa kép) 3 lớp (hàng) trên đài hoa và có hình dáng như bông hồng thì sẽ có nhiều phúc lộc; - Cây quất nếu có nhiều chồi xanh mọc thì năm đó sẽ có nhiều lộc. Nếu có đủ Tứ quý: quả chín, quả xanh, hoa và lộc thì sẽ may mắn và thành đạt cả năm; ... ... ...
Và cũng có nhiều điều kiêng kỵ nên tránh như: - Kỵ mai táng: Ngày Tết Nguyên Đán là ngày mở đầu cho vận hội hanh thông của cả một năm, có ý nghĩa rất thiêng liêng và gia đình phải tạm gác mối sầu riêng để hoà chung với niềm vui toàn dân tộc; - Ngày mùng Một Tết người ta rất kỵ người khác đến xin lửa nhà mình vì quan niệm lửa là đỏ, là may mắn, nên giữ, không nên cho đi; - Kiêng cho nước đầu năm vì nước được ví như nguồn tài lộc trong câu chúc "tiền vào như nước", nếu cho nước thì coi như mất lộc;- Theo quan niệm dân gian, việc quét nhà trong ngày Tết sẽ quét đi theo cả lộc xuân (xác pháo đốt trong đêm giao thừa), người quét nhà sẽ bị "rông" (xui xẻo) cả năm; - Ngày đầu năm cũng như ngày đầu tháng, người ta rất kiêng kỵ việc vay mượn hay trả nợ, cho vay (cho nên phải làm dịp cuối năm cho xong); - Trong ăn uống, người ta kiêng ăn thịt chó, cá mè, thịt vịt... nếu không sẽ "xúi quẩy".
Ngoài ra, người già cũng khuyên con cháu trong ngày này
không được đánh vỡ bát đĩa, cãi nhau, nói xấu, kiêng những điều không
vui xảy ra với gia đình;
Người ta thường kiêng
khóc lóc, buồn tủi hoặc nói tới điều rủi ro hoặc xấu xa trong dịp Tết, kiêng mặc quần áo màu trắng và đen (màu của tang lễ);- ... ... ...
3.6 Tết tha-hương
Tôi nhớ mãi những buổi văn-nghệ Tết bên Bỉ, bên Pháp khi tôi còn là du học sinh, bao giờ cũng vừa vui, vừa buồn. Vui vì có dịp vui chơi với bao nhiêu bạn bè, buồn vì có vui mấy cũng chỉ là vui "tạm bợ" nơi xứ người, xa gia-đình, xa quê-hương. Và bây giờ tôi vẫn "phải" tiếp tục vui Tết tha hương.
Người Việt hải-ngoại nếu không có điều kiện về Việt Nam cũng tổ chức những hoạt động trong dịp Tết Âm lịch mang đậm truyền thống văn hóa.
Những nơi đông Việt Nam như quận Cam, San Jose, Houston, Cabramatta-Úc, Paris, ... cũng có chợ Tết, chợ hoa, những khu thương xá cũng có bán các mặt hàng mứt, bánh chưng, hạt sen, ..., cũng có đốt pháo, múa lân, ... Các cộng đồng và các hội đoàn người Việt, các chùa, các giáo xứ, các hội sinh-viên, ... có tổ chức Hội tết và ca nhạc văn nghệ Tết. Chúng tôi có dịp đi giúp vui văn-nghệ trong những buổi Tết cộng-đồng, thường có đốt pháo, múa lân, ăn uống (món ăn Tết), bầu cua, cá cọp, lì xì cho trẻ em, văn nghệ thường có nhạc Tết, nhạc quê-hương, cải lương, nhạc vui, có những màn múa thanh thiếu niên và trẻ em.
Hội Tết nào cũng thật vui, nhưng bao giờ tôi cũng cảm thấy bùi ngùi, không hiểu vì sao? Con người "xa mặt, cách lòng" và dù muốn dù không, xa quê-hương, chúng ta cũng mất mát đi một chút gì văn hoá truyền-thống của mình. Tết ngày hôm nay nơi xứ người, chúng ta còn giữ được những gì trong tất cả những phong-tục, tập quán của người Việt-Nam ta? Còn giữ được bao lâu? Vui buồn lẫn lộn.
Yên Hà, tháng Giêng, 2014Tôi nhớ mãi những buổi văn-nghệ Tết bên Bỉ, bên Pháp khi tôi còn là du học sinh, bao giờ cũng vừa vui, vừa buồn. Vui vì có dịp vui chơi với bao nhiêu bạn bè, buồn vì có vui mấy cũng chỉ là vui "tạm bợ" nơi xứ người, xa gia-đình, xa quê-hương. Và bây giờ tôi vẫn "phải" tiếp tục vui Tết tha hương.
Người Việt hải-ngoại nếu không có điều kiện về Việt Nam cũng tổ chức những hoạt động trong dịp Tết Âm lịch mang đậm truyền thống văn hóa.
Những nơi đông Việt Nam như quận Cam, San Jose, Houston, Cabramatta-Úc, Paris, ... cũng có chợ Tết, chợ hoa, những khu thương xá cũng có bán các mặt hàng mứt, bánh chưng, hạt sen, ..., cũng có đốt pháo, múa lân, ... Các cộng đồng và các hội đoàn người Việt, các chùa, các giáo xứ, các hội sinh-viên, ... có tổ chức Hội tết và ca nhạc văn nghệ Tết. Chúng tôi có dịp đi giúp vui văn-nghệ trong những buổi Tết cộng-đồng, thường có đốt pháo, múa lân, ăn uống (món ăn Tết), bầu cua, cá cọp, lì xì cho trẻ em, văn nghệ thường có nhạc Tết, nhạc quê-hương, cải lương, nhạc vui, có những màn múa thanh thiếu niên và trẻ em.
Hội Tết nào cũng thật vui, nhưng bao giờ tôi cũng cảm thấy bùi ngùi, không hiểu vì sao? Con người "xa mặt, cách lòng" và dù muốn dù không, xa quê-hương, chúng ta cũng mất mát đi một chút gì văn hoá truyền-thống của mình. Tết ngày hôm nay nơi xứ người, chúng ta còn giữ được những gì trong tất cả những phong-tục, tập quán của người Việt-Nam ta? Còn giữ được bao lâu? Vui buồn lẫn lộn.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire