NHÀ TÂY SƠN
Triều Phong ĐẶNG ĐỨC BÍCH
1 – Tình trạng xã hội:
Vào thế kỷ thứ 16, ở nước ta uy quyền của Nhà Lê không còn nữa, quyền bính nằm trong tay họ Trịnh.
Đến
đầu thế kỷ thứ 17, giặc giã nổi lên nhiều nơi trong nước. Trịnh Giang
chuyên quyền, giết vua Lê, lại còn tàn sát các đại thần như Nguyễn Công
Hãng, Lê Anh Tuấn. Họ Trịnh ăn chơi xa xỉ, khiến công quỹ thiếu hụt, sưu
thuế nặng nề.
- Loạn lạc Miền Bắc: Lúc bấy giờ có Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ nổi lên tại làng Ninh Xá tỉnh Hải Dương,
Vũ Trác Oanh nổi lên tại làng Mộ Trạch huyện Đường An, Hoàng Công Chất
và Vũ Đình Dung ở Sơn Nam, quan quân địa phương dẹp không nổi. Đây là
những tổ chức phiến loạn lớn, còn các đám giặc cỏ thì nhiều không kể
xiết. Nhóm đông có tới hàng vạn người đi cướp phá từ thành thị đến thôn
quê.
- Vụ loạn Nguyễn Hữu Cầu, Nguyễn Danh Phương:
Nguyễn Hữu Cầu mệnh danh là Quận He, một thời vô cùng oanh liệt, hoạt
động ở vùng duyên hải Bắc Việt. Nguyễn Danh Phương mệnh danh là Quận
Hẻo, hoạt động tại vùng tam giác Vĩnh Yên, Sơn Tây, Việt Trì. Năm 1744,
Nguyễn Danh Phương có tới hơn một vạn quân, nhiều phen làm quân Triều
đình điêu đứng.
- Vụ loạn Hoàng Công Chất:
Họ Hoàng nổi lên cùng thời với các thủ lãnh phiến loạn Nguyễn Tuyển,
Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Cầu, Nguyễn Danh Phương, nhưng chiến đấu lâu dài
hơn. Hoàng Công Chất lưu động nhiều nơi, hợp với một số thủ lãnh khác,
có lúc đông lên đến hàng vạn người. Triều đình phải huy động nhiều binh
sĩ và tướng tài, vất vả trong việc tiểu trừ loạn lạc.
- Vụ loạn Quí tộc nhà Hậu Lê:
Vào năm 1738, ba Hoàng thân Lê Duy Mật, Lê Duy Quí, Lê Duy Trác âm mưu
giết chúa Trịnh, chẳng may việc không thành, phải bỏ chạy vào Thanh Hóa
lập nhóm đối kháng, chống lại Triều đình trên 20 năm.
- Trịnh-Nguyễn phân tranh:
Cuộc tranh bá đồ vương phân tranh Trịnh – Nguyễn kéo dài trên một trăm
năm (1620-1775), làm biết bao người chết. Việc tranh giành ngai vàng,
nghiệp Chúa đã khiến nhân dân điêu đứng, lầm than qua bao nhiêu thế hệ.
Ở
miền Bắc, Triều đình nhà Lê mất hết quyền hành, họ Trịnh chuyên quyền
giết vua, hãm hại công thần. Giặc giã nổi lên khắp nơi, dân chúng trăm
bề điêu linh khổ sở.
Trong Nam, Chúa
Nguyễn Phúc Thuần còn trẻ tuổi, quyền hành nằm trong tay gian thần phụ
chính Trương Phúc Loan. Chế độ tham nhũng, áp bức và bóc lột đã làm trăm
họ nghèo đói.
Trước tình
trạng xã hội đen tối đó, Nhà Tây Sơn đã đứng lên, đáp ứng nguyện vọng
của toàn dân, là lật đổ chế độ thối nát, đem công bằng và cơm no áo ấm
cho dân chúng. Giáo sĩ Diego de Jumilla đã viết về Nhà Tây Sơn: “Quân
đội Tây Sơn từ miền núi phóng xuống thôn quê, chợ búa giữa ban ngày. Họ
có đủ gươm, giáo, súng, nõ, nhưng không hại tính mạng và tài sản của ai
hết. Trái lại, họ tuyên ngôn làm các việc công bằng, thẳng thắn, chỉ
trừ khử bọn quan tham lại nhũng, những kẻ trọc phú, lưu manh và trộm
cướp. Họ lấy của người giàu phân phát cho kẻ nghèo, chỉ dành cho họ một
phần thóc gạo mà thôi. Ai chống lại họ giết, biết điều thì thôi”.
2 – Thời kỳ chuẩn bị:
- Thân thế:
Chúng
ta thấy rằng trong cuộc đời nầy, nói để một người nghe theo mình là
chuyện khó, hai ba người hoặc một nhóm người theo mình là chuyện khó
hơn, nói chi đến việc thuyết phục cả nước, cả dân tộc. Nếu không có tài,
nếu không phải là mệnh trời thì khó mà làm được.
Áo vải cờ đào, dựng nên cơ nghiệp.
Tổ
tiên Nhà Tây Sơn là họ Hồ ở Hoan Châu, Nghệ An, vào Quy Nhơn lập
nghiệp. Họ Hồ đổi ra họ Nguyễn lúc nào không ai biết. Ông Nguyễn Phi
Phúc lấy bà Nguyễn Thị Đồng sinh ra ba anh em Nhà Tây Sơn là Nguyễn
Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ tại làng Kiên Mỹ, xã Bình Thành, huyện Bình
Khê, nay thuộc khuôn viên Điện Tây Sơn tỉnh Bình Định. Ông Bà lập bến
Trường Trầu, buôn bán trầu cau với người Thượng Tây Nguyên.
Thời
kỳ tiền khởi nghĩa đã được chuẩn bị từ trước năm 1771. Ba anh em Tây
Sơn là những trang hào kiệt, đầy mưu lược. Nhờ tài ngoại giao khéo léo,
thu phục được nhân tâm, đãi ngộ nhân tài, anh hùng hảo hán khắp nơi tụ
về rất đông.
- Thầy Giáo Hiến:
Tên
thật là Chu Văn Hiến, giòng dõi Minh Thành Tổ Chu Nguyên Chương bên
Trung Quốc. Nhà Minh bị Nhà Thanh lật đổ, con cháu Nhà Minh phải lưu lạc
khắp nơi. Thầy Giáo Hiến là một nhân sĩ văn võ song toàn, kết bạn anh
em với quan Nội Hữu Trương Văn Hạnh, một đại thần đời Chúa Nguyễn Phúc
Khoát (1738-1765). Trương Văn Hạnh đề nghị Thầy Giáo Hiến đổi họ thành
Trương Văn Hiến để che mắt sự theo dõi của quan quân Nhà Thanh.
Thời
bấy giờ, Đại thần Trương Phúc Loan tự ý phế lập Chúa, không một ai tại
phủ Chúa dám ngăn cản, chỉ có Trương Văn Hạnh phản đối kịch liệt, bị
Trương Phúc Loan ra lệnh giết chết. Trương Văn Hiến sợ vạ lây, cùng gia
đình lánh nạn vào phương Nam, đến làng An Thái, huyện An Nhơn, Bình Định
mở trường dạy học.
Trương
Văn Hiến là người thông minh, học cao hiểu rộng, giỏi về khoa lý số,
quán triệt nhân sự. Trong khi truyền dạy văn võ, Thầy giáo Hiến luôn
luôn nhắc nhở: “Nam nhi phải có chí lớn”, đề cao cuộc Cách Mệnh Thang Vũ và ông thường nói: “Tây Sơn khởi nghĩa, Bắc thu công”.
Ông đã rèn luyện và đào tạo nhiều môn đệ kiệt xuất, trong đó có ba anh
em Nhà Tây Sơn và mối thù của nghĩa huynh sau nầy cũng được xóa.
- Quy tụ anh hùng hào kiệt:
Từ
năm 1771-1773, thời gian chuẩn bị, ông Nguyễn Nhạc là người mưu trí,
đảm lược, hiểu rõ tình thế, đã mở rộng thương trường, giao du trong
thiên hạ, quy tụ hào kiệt, kết thân với các cao thủ có hàng trăm môn đệ.
Câu
chuyện ông Nguyễn Nhạc là Vua Trời, được Trời phong Quốc Vương, còn cho
cả ấn kiếm, được loan truyền trong khắp phủ huyện. Anh hùng hào kiệt
quy tụ về rất đông vì tin ông là Vua Trời, có mạng Đế Vương.
Chúng
ta thường nghe đến Tây Sơn Thập Bát Cơ Thạch, tức 18 nhân tài, tượng
trưng cho 18 tảng đá làm nền móng cho Nhà Tây Sơn: Thất hổ tướng, Lục kỳ
sĩ và Ngũ phụng thư.
- Thất hổ tướng:
Đây là 7 tướng tài trong Thập Bát Cơ Thạch, đã giúp Nhà Tây Sơn dựng
nghiệp lúc ban đầu, gồm có: Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng, Lê Văn Hưng,
Nguyễn Văn Tuyết, Võ Đình Tú, Nguyễn Văn Lộc và Lý Văn Bưu. Nghe tin Tây
Sơn Tam kiệt cầu ứng nhân tài, hào kiệt, quần hùng khắp nơi tụ về rất
đông, giúp Nhà Tây Sơn chiêu mộ và rèn luyện binh sĩ, chế tạo vũ khí,
lập kho lương thực, chiếm các nơi trọng yếu làm căn cứ địa.
- Lục kỳ sĩ:
Ngoài Thất hổ tướng còn có Lục kỳ sĩ, gồm 6 học sĩ, đóng góp công sức
rất nhiều trong cơ đồ đại nghiệp Nhà Tây Sơn. Đó là các ông Nguyễn
Thung, Võ Xuân Hoài, Cao Tắc Tựu, La Xuân Kiều, Triệu Đình Tiệp và
Trương Mỹ Ngọc. Đây là các bậc hiền sĩ, giỏi văn chương, thông kinh sử,
đã giúp Nhà Tây Sơn xây dựng bộ máy hành chánh, kế hoạch ổn định những
vùng mới chiếm, kiện toàn hậu phương yểm trợ tiền tuyến.
- Ngũ phụng thư:
Ngũ phụng thư là 5 bậc anh thư, gồm có bà Bùi Thị Xuân, Bùi Thị Nhạn,
Trần Thị Lan, Nguyễn Thị Dung và Huỳnh Thị Cúc. Họ quán xuyến cơ sở hậu
cần, quân lương, quân dụng và lập ra một đội nữ binh nổi tiếng, giỏi về
kiếm cung, côn quyền. Ca dao vẫn còn truyền tụng trong dân gian:
Ai về Bình Định mà coi
Con gái Bình Định cầm roi đi quyền
- Chinh phục người Thượng Tây nguyên:
Câu
chuyện khác, ông Nguyễn Nhạc dùng đôi giỏ bội đan bằng tre để gánh
nước, dùng ngựa nhà tập luyện công phu, dụ được bầy ngựa trời, đã làm
các bộ lạc Thượng Bana, Rađê, Giarai tin ông là Người Trời, đem cả làng
Thượng, buông Thượng về thần phục và từ đây vùng Tây Nguyên mới thực sự
là đất của Tây Sơn.
Thời
đại Nhà Sơn có 5 con ngựa chiến nổi tiếng mà người đời gọi là Tây Sơn
Ngũ Thần Mã: Ngựa Bạch Long Câu của Vua Thái Đức Nguyễn Nhạc, Ngựa Xích
Kỳ Mã của Đô Đốc Nguyễn Văn Tuyết, Ngựa Ô Du của Tướng Đặng Xuân Phong,
Ngựa Ngân Câu của Nữ tướng Bùi Thị Xuân, Ngựa Hồng Lư của Đô Đốc Lý Văn
Bưu. Đây là những con chiến mã to lớn, dũng mãnh, chạy nhanh như gió
thuộc loại Thiên Lý Mã, trung thành cùng chủ tướng, góp công sức trong
việc xông pha trận mạc từ Bắc chí Nam không biết mệt mỏi.
- Thuyết phục khách trú người Hoa, người Chiêm Thành:
Nhờ
chính sách ngoại giao khéo léo, đãi ngộ nhân tài, hai thủ lãnh người
Hoa là Lý Tài và Tập Đình cũng kéo quân về giúp Nhà Tây Sơn. Binh Sĩ của
hai tướng Tàu nầy phần lớn là người Quảng Đông, vóc to lớn, mình để
trần, họ sử dụng thanh phạng đao rất lợi hại.
Ngoài
ra, vị vua cuối cùng của người Chàm là Thị Hỏa, các giới tu sĩ Phật
Giáo, Lão Giáo, các sắc tộc thiểu số đều nhiệt liệt ủng hộ cuộc khởi
nghĩa của Nhà Tây Sơn.
Thời cơ đã đến, Nhà Tây Sơn tiến hành cuộc khởi nghĩa, chiếm thành Quy Nhơn, làm căn cứ xuất phát đi đánh các nơi khác.
3 – Công cuộc khởi nghĩa:
Một giáo sĩ Tây Ban Nha kể rằng: “Nhà
Tây Sơn tự xưng là những người theo mệnh Trời để thi hành công lý và
giải phóng nhân dân khỏi ách quan liêu phong kiến, họ được mọi từng lớp,
mọi giới ủng hộ .
Quân Tây Sơn đi đến đâu thắng đến đó như trận cuồng phong lướt gió ”.
Quân Tây Sơn đi đến đâu thắng đến đó như trận cuồng phong lướt gió ”.
- Gây thanh thế:
Ông Nguyễn Nhạc là người can đảm và mưu trí, nên việc hạ thành Quy Nhơn
để gây thanh thế của ông đã là một câu chuyện kỳ thú: ông ngồi vào cũi,
giả bị dân chúng bắt, đem nộp quan tỉnh lấy thưởng. Tuần phủ ở đây là
Nguyễn Khắc Tuyên tưởng thật, cho khiêng cũi vào thành, nhưng đến nửa
đêm, ông Nhạc tháo cũi ra, mở cửa thành cho quân của mình xông vào, đánh
đuổi quân quan một cách bất ngờ, trở tay không kịp.
Quân
Tây Sơn chiếm thành Quy Nhơn vào năm 1773, tổ chức quân đội có quy củ,
trang bị đủ khí giới, là lúc ngọn cờ cách mạng tiến ra Bắc, đánh vào Nam
mạnh như thác lũ.
Trong thời gian
nầy, Chúa Nguyễn bị quân Trịnh do tướng Hoàng Ngũ Phúc đánh đuổi, phải
chay vào Quảng Nam nương náu tại Bến Ván. Tại đây chúa Nguyễn lập cháu
là Nguyễn Phúc Dương lên làm Đông Cung Thái tử, phòng xa nếu bị rủi ro,
có người kế vị. Quân Tây Sơn tiến lên, quân Trịnh phương Bắc đi xuống.
Chúa Nguyễn bị kẹt giữa hai gọng kềm, trốn tránh vào Trà Sơn, rồi cùng
cháu là Nguyễn Phúc Ánh xuống thuyền chạy vào Gia Định.
- Đánh vào phía Nam:
Sau khi đánh chiếm Quảng Ngãi, Quảng Nam, Quy Nhơn và Phú Yên, năm 1775
quân đội Tây Sơn đánh vào Sài Côn, chúa Định Vương Nguyễn Phúc Thuần
chạy đến Trấn Biên. Năm 1776, Nhà Tây Sơn lớn mạnh, Nguyễn Nhạc xây
thành Đồ Bàn làm kinh đô, xưng là Tây Sơn Vương, phong Nguyễn Lữ làm
Thiếu phó, Nguyễn Huệ làm Phụ chính.
Năm
Định Dậu 1777, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ đem đại binh vào đánh Gia Định,
chúa Định Vương Nguyễn Phúc Thuần, Hoàng tôn Dương tử trận, chỉ Nguyễn
Phúc Ánh trốn thoát được.
Năm
Mậu Tuất 1778, Nguyễn Nhạc lên ngôi Hoàng Đế, niên hiệu là Thái Đức,
phong Nguyễn Huệ làm Long Nhượng tướng quân, Nguyễn Lữ làm Tiết chế. Năm
Nhâm Dần 1782, vua Thái Đức và Nguyễn Huệ đem binh vào cửa Cần Giờ,
tiêu diệt quân Nguyễn Phúc Ánh tại Ngã Bảy Thất kỳ Giang. Tháng Tư năm
ấy, Nguyễn Huệ đem quân đến Lữ Phụ, đánh tan quân Nguyễn Phúc Ánh,
Nguyễn Phúc Ánh chạy thoát thân trốn ra đảo Phú Quốc. Trong trận nầy,
Nguyễn Phúc Ánh cầu cứu một người Pháp lên là Manuel đem thủy quân đến
giúp, nhưng không chống nổi, Manuel phải đốt tàu mà chết. Nguyễn Huệ kéo
quân về Quy Nhơn.
Năm
1783, Châu Văn Tiếp chiếm được Sài Côn rước Nguyễn Phúc Ánh về Gia
Định. Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ đem quân vào Gia Định, đánh tan quân Châu
Văn Tiếp, Nguyễn Phúc Ánh suýt chết, phải trốn sang Xiêm cầu viện. Xong
trận nầy Nguyễn Huệ lại về Quy Nhơn, Trương Văn Đa được cử làm Trấn thủ
Gia Định.
Năm 1784, Nguyễn Phúc Ánh lại rước quân Xiêm La về giúp. Nguyễn Huệ được tin, vội vào Gia Định, tiêu diệt quân Xiêm La.
- Đánh ra phía Bắc:
Phía Nam đã yên, năm 1786 Nguyễn Huệ tiến quân ra Bắc đánh quân Trịnh,
dẹp quân Phạm Ngô Cầu và Hoàng Đình Thể chiếm Thuận Hóa, phá tan quân
Trịnh Tự Quyền chiếm Sơn Nam, đánh quân Đinh Tích Nhưỡng chiếm Lỗ Giang,
tiêu diệt quân Hoàng Phùng Cơ trên sông Thủy Ái.
Tin
Trịnh Tự Quyền và Đinh Tích Nhưỡng bại trận, làm cho triều đình Bắc Hà
điên loạn. Ưu binh và nhất binh tức lính Tam Phủ, hằng ngày vỗ ngực khoe
khoan trung thành với Vua, Chúa, bây giờ bỏ chạy trước. Nhưng chạy đến
đâu thì dân chúng giết đến đấy. Với đám dân quân nghịch nhau như vậy,
cũng đủ thấy ngai vàng của Vua Lê, Chúa Trịnh sụp đổ rồi, không kể đến
nguyên nhân khác.
Chúa
Trịnh Khải đem hết tinh binh ra ngoài cửa Tây Long bày trận dưới Ngũ
Long Lâu ngày 25 tháng 6 năm Bính Ngọ. Quân Tây Sơn rầm rộ xông lên,
binh sĩ hò thét vang dậy khắp vùng. Chúa Trịnh phất cờ lệnh tiến quân.
Quân Tây Sơn tràn lên như vũ bão, còn quân Trịnh chẳng ai dám liều mình.
Chúa Trịnh liền thúc voi trở về Vương phủ, thì trên cửa Tuyên Vỏ, cờ
Tây Sơn đang phất phớt bay. Chúa Trịnh Khải bỏ chạy đến làng Yên Lãng,
thì bị bắt, rút dao đâm cổ mà chết. Họ Trịnh chấm dứt sau 216 năm, hơn 2
thế kỷ tác oai tác quái miền Bắc.
Nguyễn
Huệ vào Hoàng Thành ngày 26 tháng 6 năm Bính Ngọ (1786). Quân Tây Sơn
giữ kỷ luật rất nghiêm chỉnh, không động chạm đến tài sản và tính mệnh
của nhân dân. Nguyễn Huệ gặp vua Lê tại cung Vạn Thọ, trước mặt vua
Lê, Nguyễn Huệ nói với vua Lê rằng: “Quân Nam hà ra Bắc chỉ có ý phù Lê diệt Trịnh và làm theo lòng người ”.
Đây cũng là cách thức ngoại giao rất khôn khéo. Lúc bấy giờ các cựu
thần đi lánh nạn không còn một ai, vua Lê cho đi tìm các quan đại thần
Phan Lê Phiên, Trần Công Sán, Uông Sĩ Điển đến lo thù tiếp vị thượng
khách. Ít bữa sau, dân chúng lại kéo nhau trở về, chợ búa lại họp, các
hoạt động hằng ngày lại tiếp tục theo nhịp sống bình thường.
Để
nối tình giao hảo, vua Lê gả Công Chúa Ngọc Hân cho Nguyễn Huệ, 16 tuổi
với nhan sắc diễm lệ, lại có tài văn chương thi phú, mà sau nầy khi vua
Quang Trung Nguyễn Huệ mất, Ngọc Hân có làm một số bài thi, phú rất
thống thiết nổi tiếng. Mười ngày sau vua Lê Hiến Tông băng hà, Hoàng Tôn
Lê Duy Kỳ lên ngôi, niên hiệu là Chiêu Thống.
Vào lúc đó, Vua Thái Đức cũng ra tới Thăng Long. Gặp vua Lê, vua Thái Đức nói: “Họ
Trịnh chuyên quyền, chúng tôi đem quân ra đây chỉ có ý giúp nhà vua mà
thôi. Nếu đất Bắc Hà của Trịnh thì một tấc chúng tôi cũng lấy, nhưng của
nhà Lê thì một tấc chúng tôi cũng không tưởng, chỉ mong nhà Vua giữ
vững kiền cương, giữ yên bờ cõi, để hai nước chúng ta đời đời giao hảo ”. Hai bên hoan hỷ, tiệc vui khoản đãi. Sau đó quân Tây Sơn rút về Nam.
Chính
sách ngoại giao của Nhà Tây Sơn rất khôn khéo, không gây tị hiềm, xung
đột giữa hai thế lực tranh ngai vàng tạo thêm cảnh binh đao đầu rơi máu
đổ, mà còn đáp lại nguyện vọng của dân chúng là quân dân muốn được an
vui trở về với gia đình.
Nhà Lê trị vì đã lâu đời, sĩ phu Bắc hà rất nhiều, xử sự không khéo sẽ đi đến chỗ bất hòa, chiến sự bùng phát.
Trong việc dùng người, Nhà Tây Sơn biết phục thiện, nhất là Nguyễn Huệ, nghe ai là kẻ tài giỏi hoặc hiền đức, lấy lễ tân sư,
tức là vừa coi là khách vừa coi là thầy, mời tham gia việc nước. Đó là
trường hợp đối xử với các ông La San Phu Tử Nguyễn Thiếp, Nguyễn Đăng
Trường, Ngô Thời Nhiệm, Phan Huy Ích v.v…
4 – Chiến công oanh liệt, diệt giặc ngoại xâm:
- Tiêu diệt quân Xiêm La:
Nguyễn
Huệ là một thiên tài quân sự. Hành quân tốc chiến tốc thắng, biến hóa
như thần. Hiệu lệnh nghiêm minh, kỷ luật sắt thép. Đức tính làm tướng
của ông, đáng kể nhất ở chỗ biết chia bùi xẻ đắng với tướng sĩ, lấy ân
uy và đảm lược để chinh phục lòng người.
Ra
trận ông đi trước ba quân, lúc nguy nan, ông tỏ ra bình tĩnh. Gặp những
vấn đề khó khăn, những việc mà người khác phải khiếp vía kinh hồn, thì
ông thường nảy ra nhiều mưu kế lợi hại, tỏ ra có một khối óc thông minh
lỗi lạc phi thường. Từ khi làm tướng, giữa lúc nước nhà ly loạn khắp
nơi, đến khi ông mất, xông pha bách chiến bách thắng, ông chưa hề biết
chiến bại.
Năm
Giáp Thìn 1784, Nguyễn Phúc Ánh rước quân Xiêm La về giúp. Xiêm La cử
hai tướng Xiêm là Chiêu Tăng và Chiêu Sương đem sang Nam Việt Nam hai
vạn quân và 300 chiến thuyền chiếm Rạch Giá, Ba Thắt, Trà Ôn và Mân
Thít. Đi đến đâu quân Xiêm cướp bóc và quấy nhiễu dân chúng đến đó, thật
là tai hại.
Được
tin, Nguyễn Huệ vội vào ngay Gia Định, áp dụng chiến thuật lùi để nhử
địch vào các điểm chiến lược. Tại Xoài Mút, Nguyễn Huệ đặc phục binh bên
Rạch Gầm nay thuộc tỉnh Định Tường. Quân Xiêm La đến thì quân của
Nguyễn Huệ đổ ra bất thình lình, đánh cả hai mặt thủy bộ. Quân Xiêm xoay
trở không kịp, chết và bị thương rất nhiều, mười phần chỉ còn một, hai,
mang đầu chạy về nước.
Nhà thơ Lê Bính đã làm bài thơ Đường luật, ca ngợi công đức của Vua Quang Trung Nguyễn Huệ:
Trịnh Nguyễn hai bên dẹp đã đành
Thêm còn giữ nước thắng nhà Thanh
Ngai vàng Chiêu Thống gìn cương kỷ
Duyên thắm Ngọc Hân nặng nghĩa tình
Sĩ Nghị mang sầu tâu Bắc khuyết
Càn Long vỡ mộng dẫm Nam thành
Xiêm La tướng sĩ ôm đầu chạy
Nước Việt từ đây hưởng thái bình
- Đánh tan quân Mãn Thanh:
Năm
1787, Vua Thái Đức xưng làm Trung ương Hoàng Đế, kinh đô Đồ Bàn đổi là
Hoàng Đế Thành, phong Nguyễn Huệ làm Bắc Bình Vương, trấn thủ Thuận Hóa,
phong Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương trấn giữ đất Gia Định.
Từ
lúc Tây Sơn kéo quân trở về Nam, tình hình Bắc Hà trở nên sôi động,
Trịnh Bồng nổi lên tranh quyền. Vua Lê phải nhờ Nguyễn Hữu Chỉnh từ Nghệ
An ra giúp, đánh đuổi Trịnh Bồng. Sau đó Nguyễn Hữu Chỉnh ỷ vào công
trạng, lấn ép vua Lê.
Tháng
11 năm Đinh Mùi (1787), Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ sai Vũ Văn Nhậm, đem
quân ra Bắc dẹp Nguyễn Hữu Chỉnh. Vua Lê Chiêu Thống cùng nhóm hoàng
thân Lê Quýnh và bầy tôi chạy lên Cao Bằng rồi sang Tàu cầu cứu. Năm sau
Bắc Bình Vương đem quân ra Bắc tiểu trừ Vũ Văn Nhậm vì kêu căng, cậy
quyền thế, rồi giao quyền hành lại cho Ngô Văn Sở, Ngô Thời Nhiệm và
Phan Huy Ích, giúp Sùng Nhượng Công Lê Duy Cẩn làm Giám Quốc trị nước.
Dựa
vào sự cầu viện của Lê Chiêu Thống, Tổng Đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị
dâng sớ tâu Vua Càn Long bên Tàu, lợi dụng cơ hội phù Lê đánh Tây Sơn,
sang chiếm nước Nam. Vua Càn Long chấp thuận đề nghị, ra lệnh chu biện
việc ăn ở cho cung quyến Lê Chiêu Thống, đồng thời đưa nhà vua về nước
hiệu triệu thần dân để làm hậu thuẫn cho đoàn quân xâm lăng Nam chinh.
Thanh
triều liền huy động 20 vạn binh mã bốn tỉnh Vân Nam, Quý Châu, Quảng
Đông và Quảng Tây chia làm ba ngả Nam Quan, Tuyên Quang và Cao Bằng,
tháng 11 năm 1788, kéo thẳng vào nước ta.
Tôn
Sĩ Nghị và vua Lê Chiêu Thống trấn an nhân dân, nhưng phần lớn vì bè
đảng Lê Chiêu Thống trả thù, phần khác là sự cướp bóc của quân Thanh,
dân chúng kêu la, oán hận. Mọi người chỉ còn trông chờ vào Bắc Bình
Vương Nguyễn Huệ.
Ngày
24 tháng 11 năm Mậu Thân (1788), Ngô Văn Sở từ núi Tam Điệp cho tin cấp
báo về Phú Xuân, việc Tôn Sĩ Nghị đưa quân xâm lăng, kéo thẳng vào
Thăng Long. Nguyễn Huệ tỏ ra rất bình tĩnh. Các tướng sĩ yêu cầu ngài
hãy chính hiệu để buộc lấy nhân tâm, dương thanh thế rồi sẽ tiến quân ra
Bắc. Nguyễn Huệ cho là phải, liền cho đắp đàn giao ở núi Bàn Sơn, phía
nam núi Ngự Bình, tế cáo trời đất và làm lễ đăng quang. Nguyễn Huệ lên
ngôi Hoàng Đế kỷ nguyên là Quang Trung ngày 25/11/1788.
Vua
Quang Trung khởi hết cả quân Thuận, Quảng, Thanh, Nghệ, đem ra Bắc Hà.
Ngày 20 tháng chạp, đoàn quân tới núi Tam Điệp, khao thưởng quân sĩ,
truyền cho ba quân tạm ăn Tết trước, ông nói: “Chúng
ta ăn Tết trước, đợi sang Xuân ngày mồng bảy vào Thăng Long sẽ mở tiệc
lớn, các người hãy nhớ lấy lời ta, xem ta nói có sai không, không hề sai
đấy ”.
Vua Quang Trung chia Đại quân Tây Sơn làm 3 đạo:
- Đạo
thứ nhất do Đô Đốc Lộc và Đô Đốc Tuyết chỉ huy Tả quân kiêm Thủy Quân,
vượt biển vào sông Lục Đầu đánh tới. Một cánh tiến đến Hải Dương để tiếp
ứng mặt đông, một cánh thẳng đến Yên Thế, Lạng Giang, Phượng Nhãn để
chận đường rút lui của địch.
- Đạo
thứ hai do Đô Đốc Bảo và Đô Đốc Long chỉ huy Hữu quân kiêm Tượng binh.
Kỵ binh từ làng Mọc đánh vào đồn Điền Châu, Tượng binh từ Sơn Minh đánh
ra Đại Áng.
- Đạo thứ ba do
Vua Quang Trung thống lĩnh đại binh tiến đánh các đồn, lũy từ Hà Hồi
đến Tây Long là nơi Tôn Sĩ Nghị đặt bản doanh.
Mồng
ba tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1789), vua Quang Trung kéo quân đến vây đồn
Hà Hồi, nay thuộc tỉnh Hà Đông, truyền loa gọi dạ ầm ầm, đến vài vạn
người. Quân Tàu trong đồn run sợ, tan rã mà chạy, bắt được giết hết,
không còn tên quân Tàu nào chạy lọt về báo Thăng Long được nữa. Vua
Quang Trung thừa thắng đánh tràn đến Ngọc Hồi, Vân Điển, Yên Quyết, giết
được tướng Tàu là Đề Đốc Hứa Thế Hanh, Trương Triều Long, Thượng Duy
Thăng. Tri phủ Điền Châu là Sầm Nghi Đống không địch nổi, treo cổ tự vận
trên cành cây đa.
Tôn
Sĩ Nghĩ được tin cấp báo, mất tinh thần, không kịp đóng yên ngựa, cùng
vài thân binh, vượt qua cầu phao trên sông Nhị Hà chạy qua phía Bắc.
Quân sĩ tranh cầu, xô nhau mà chạy, cầu đổ, chết hàng mấy vạn người, đến
nỗi nước sông Nhị Hà không chảy đi được.
Hôm
ấy là ngày mồng năm Tết, Vua Quang Trung mặc chiến bào xông pha trận
mạc, thẳng vào Thăng Long. Chiếc bào đỏ của vị anh hùng dân tộc, qua
nhiều trận huyết chiến đã đổi ra màu đen cháy vì hơi khói của thuốc
súng.
Nhà
thơ Trần Văn Tâm đã làm bài thơ ca tụng chiến công oanh liệt của Vua
Quang Trung Nguyễn Huệ, thắng quân Thanh trong những trận đánh thần tốc
oai hùng:
Đại phá quân Thanh, Xuân Kỷ Dậu 1789
Vua Quang Trung khăn vàng buộc cổ
Đốt sạch quân lương
Quân Sĩ đồng lòng
Hò reo như sấm nổ
Lớp lớp hùng binh
Hàng hàng chiến tượng
Ngài cỡi đầu voi tướng
Chỉ ngọn cờ đào, hùng dũng tiến quân
Trong nắng sớm mùa xuân
Áo bào đỏ oai nghi rực rỡ
Sĩ tốt ghép mộc gỗ
Chống lại súng thần công
Sức công thành mạnh như thác đổ
Đạp lũy hào, liều chết xông lên
Quân reo ngựa hý vang rền
Hỏa hồ cháy đỏ liên thành liền tan
…………………………………………
Mỗi độ xuân về
Lòng vui rộn rã
Nhắc chiến công xưa
Trang sử Việt uy nghi hồn Đại Đế
Trong khói trầm thơm tỏa
Anh linh hồn núi sông
Hỡi thế hệ Quang Trung
Hỡi tinh thần bất khuất
Hãy vùng lên phất ngọn cờ vàng
5 – Nội trị và Ngoại giao:
- Thống nhất đất nước:
Năm
Giáp Thìn 1784, Nhà Tây Sơn đã kiểm soát hết Nam Hà, vào tới Hà Tiên.
Mạc Cửu lúc nầy đã chết, quân chúa Nguyễn bị tan rã hoàn toàn. Năm Ất Tỵ
1785, quân Nguyễn Phúc Ánh chỉ còn là một lực lượng không đáng kể, phải
đào vong ra nước ngoài, lại chạy sang Xiêm La một lần nữa.
Sau
chiến thắng lừng danh, đại phá quân Thanh mùa Xuân Kỷ Dậu 1789, Vua
Quang Trung cho quân đội đuổi quân Thanh qua khỏi cửa ải Lạng Sơn. Người
Tàu bị chấn động dữ dội, từ cửa ải trở lên phía Bắc, già trẻ dìu dắt
nhau chạy trốn. Hàng mấy trăm dặm tuyệt nhiên không có người và khói
bếp. Vua tôi Lê Chiêu Thống bôn tẩu theo đám tàn binh sang Tàu, bị vua
Càn Long Nhà Thanh giam lỏng, chết nhục nơi đất khách.
Vua
Quang Trung, bốn lần bạt thành Gia Định, ba lần vào Thăng Long, thắng
chúa Nguyễn, diệt chúa Trịnh, đánh bại quân Xiêm La, phá tan quân Mãn
Thanh, thống nhất đất nước.
- Nội trị:
* Về quân sự:
Quân
đội được chia ra thành 5 đạo như trong hồi đánh nhau với Nhà Thanh.
Ngoài ra còn có 11 đội quân đặc biệt khác, tạo thành quân chủ lực của
Quốc gia. Ông thường nói: “Binh lính cốt hòa thuận chứ không cốt đông, cốt tinh nhuệ chứ không cốt nhiều ”.
Theo
lời các nhà truyền giáo, quân đội Tây Sơn có tinh thần chiến đấu rất
cao, kỷ luật sắt thép, không xâm phạm tài sản của dân chúng. Người lính
được huấn luyện thuần thục, gan dạ, một chống nổi ba bốn, nên đánh đâu
thắng đấy.
* Về hành chánh:
Bộ
máy triều đình trung ương có lục bộ Thượng Thư, Tả hữu đồng nghị, Tả
hữu phụng nghị, Tư Vụ, Hàn Lâm, Hiệp biện Đại Học Sĩ… Tổ chức địa phương
Tổng, Huyện có võ quan cai quản và thao luyện quân đội, văn quan phụ
trách binh lương, thuế khóa. Dưới nữa có Xã Trưởng, Thôn Trưởng, như đời
nay. Ngô Thời Nhiệm có chép bài chiếu “Khuyến Nông” của vua Quang Trung, chú ý đến hai điều: “Sao cho ruộng đất sản xuất được nhiều. Sao cho nhân khẩu gia tăng, dân chúng đông đảo“.
Về
ruộng đất công điền, tư điền, thuế khóa cũng được cải tổ. Năm Quang
Trung thứ tư, trong nước khắp nơi đều được mùa vì mưa thuận gió hòa. Nếp
sống dân chúng đầm ấm, phát đạt, do chính sách ưu ái nhân dân của Triều
đình. Năm nào có thiên tai bão lụt, hạn hán, triều đình lại giảm thuế,
ân xá tội cho dân chúng.
* Nhân tài và khoa cử:
Vua
Quang Trung là một thiên tài về quân sự, ngoài ra ông rất chú trọng về
văn hóa và chính trị. Nhà vua có nhiều sáng kiến đặc biệt, phát sinh ở
một tinh thần cách mạng quốc gia rất sáng suốt và cấp tiến. Các nho sinh
đỗ đạt tân, cựu đều được đãi ngộ, trọng dụng. Đáng chú ý nhất là việc
sử dụng chữ Nôm.
Vua
Quang Trung đề cao tinh thần quốc gia mãnh liệt, một ý niệm cách mạng
rất thực tế. Trong khoa cử, học hành, chữ Nho vẫn được dùng, nhưng trong
chiếu, biểu, sắc, dụ, thi phú, chữ Nôm đã được đặt vào một địa vị quan
trọng.
* Việc đúc tiền:
Ngoài
việc chỉnh đốn triều chính, Vua Quang Trung muốn độc lập về mọi mặt.
Ông nghĩ ngay đến việc đúc tiền bằng đồng để tiện dùng trong nước và
thuận tiện trong việc thương mại. Đồng tiền “Quang Trung Thông Bảo” được thay đồng tiền Cảnh Hưng khắp chợ cùng quê.
Năm
Quang Trung thứ tư (1791), do việc cần chuẩn bị đánh Mãn Thanh, nhà vua
cho đi thu mua hết các đồ bằng đồng tốt trong nước để làm binh khí và
đúc tiền cho rộng tài nguyên. Nhà vua chú trọng đến việc khuếch trương
kinh tế, thương mãi ra tới bên ngoài. Cử người sang điều đình với Nhà
Thanh mở chợ Bình Thủy Quan ở Cao Bằng, Du Thôn Ải ở Lạng Sơn, đề nghị
lập nhà hàng ở Quảng Tây, đưa dân ta sang làm ăn buôn bán với Trung
Quốc, ” mục đích mở rộng biên cương “.
- Đối ngoại:
* Bãi việc cống người vàng:
Một quốc hận đáng kể cho người Việt Nam từ đời Hậu Lê là việc cống người vàng, một ký ức chua cay của dân tộc.
Năm
Đinh Mùi (1427), hai tướng của vua Lê Lợi là Lê Sát và Trần Lựu chém
đầu An Viễn hầu Liễu Thăng của nhà Minh tại Lạng Sơn. Nhà Minh đau đớn
lắm vì Liễu Thăng là một tướng tài của họ. Sau nầy giảng hòa, Minh triều
bắt đền nước Việt phải đúc người vàng thế mạng Liễu Thăng. Vua Lê Lợi
thấy dân tình đau khổ, chiến tranh kéo dài từ nhà Hồ đến nhà Hậu Trần,
ngót 30 năm ròng rã, đành nhắm mắt chấp nhận điều kiện của Minh triều.
Sau Tiền Lê đến đời Mạc và các vua Lê đời Trung hưng, cũng vẫn tiếp tục
cống người vàng.
Nhà
Tây Sơn chiến thắng lừng danh, phá tan 20 vạn quân Thanh không còn manh
giáp, đuổi quân thù xâm lăng Tôn Sĩ Nghĩ chạy khỏi ải Nam Quan hằng mấy
trăm dặm. Vua Quang Trung khi đã yên vị, không chịu lệ này, viết thư
cho Phúc Khang An thông báo bãi bỏ lệ cống người vàng. Đứng trước thế
mạnh của nhà Tây Sơn thời bấy giờ, vua tôi nhà Thanh phải nghe theo.
* Ngoại giao với Thanh triều:
Sau
khi đánh bại quân Thanh, Vua Quang Trung đối đãi với tù binh rất tử tế,
có hàng vạn người ra đầu thú, được cấp phát lương thực, cấp đất canh
tác. Ngài nhờ Ngô Thời Nhiệm dùng chính sách ngoại giao khôn khéo,
thuyết phục được Tổng đốc Lưỡng Quảng Phúc Khang An và cận thần vua Nhà
Thanh là Hòa Khôn, thiết lập được mối hòa hiếu giữa hai nước, kết thúc
chiến tranh, dân chúng sống an vui.
Tháng
7 năm 1789 vua Nhà Thanh mời vua Quang Trung sang triều cận, để chiêm
ngưỡng người chiến thắng vẻ vang Bắc Triều. Vua Quang Trung đề cử Phạm
Công Trị làm giả vương đi thế. Tại Nhiệt Hà, giả vương được vua Càn Long
tiếp đãi ân cần và ban thưởng trọng hậu.
Năm
Nhâm Tý 1792, vua Quang Trung cử Võ Kinh Thành, Trần Ngọc Thụy, Vũ Văn
Dũng sang dâng biểu cầu hôn cưới Công Chúa Thanh Triều và đòi lại 6 châu
thuộc Hưng Hóa, 3 động thuộc Tuyên Quang, đã bị Nhà Thanh trước kia xâm
chiếm, sát nhập vào Lưỡng Quảng. Kế hoạch chuẩn bị thuyền tàu, đúc vũ
khí, rèn luyện binh sĩ đã sắp đặt từ lâu. Sứ giả qua Tàu là cái cớ để
đánh lấy lại đất, nếu Thanh triều từ chối.
Nhưng
tiếc thay, khi phái bộ Vũ Văn Dũng sang Trung Quốc thì được tin vua
Quang Trung thăng hà, sứ giả phải quay về. Vua Quang Trung mất năm 40
tuổi vào ngày 15 tháng 9 năm 1792, miếu hiệu là Thái Tổ Võ Hoàng Đế.
* Giai đoạn cuối Nhà Tây Sơn:
Từ
ngày Vua Quang Trung mất, thế lực Nhà Tây Sơn bắt đầu suy yếu. Vua Thái
Đức buồn vì hai em Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ đã chết, lụt chí tiến thủ,
chỉ giữ lấy Quảng Ngãi, Quy Nhơn và Phú Yên. Trong khi đó thì Nguyễn
Phúc Ánh củng cố, xây dựng và phát triển ở Nam Hà, rồi đánh lần ra phía
Bắc.
Năm
1793, quân Nguyễn Phúc Ánh vây thành Quy Nhơn, Nguyễn Nhạc cầu cứu Phú
Xuân. Sau khi giải cứu, quân của vua Cảnh Thịnh chiếm luôn Quy Nhơn. Vua
Thái Đức Nguyễn Nhạc uất hận mà chết, làm vua được 16 năm. Tại Phú
Xuân, vua Cảnh Thịnh còn nhỏ tuổi, cậu ruột là Bùi Đắc Tuyên phụ chính,
chuyên quyền làm triều đình bất hòa, thanh toán lẫn nhau, lòng dân ly
tán. Cơ nghiệp Nhà Tây Sơn suy yếu dần, đến năm Nhâm Tuất (1802) thì mất
vào tay Nguyễn Phúc Ánh.
6 – Tây Sơn trong lòng dân Việt
Sự
nghiệp hiển hách, chiến công lừng lẫy của vua Quang Trung đã ghi sâu
vào lòng dân Việt. Trên hai trăm năm nay, biết bao người đã viết sách,
làm thơ, ca tụng thành quả của những trận đánh lừng danh mùa Xuân Kỷ Dậu
1789, chưa đầy một tuần lễ, tiêu diệt 20 vạn quân Thanh, làm sáng chói
trang sử Việt Nam.
Mặc
dù Gia Long Nguyễn Phúc Ánh đã trả thù Nhà Nguyễn Tây Sơn một cách hèn
hạ, thi hành chính sách nhổ cỏ tận gốc. Muốn xóa sạch đi những công
trình xây dựng, những đóng góp quý giá của Nhà Tây Sơn cho đất nước,
ngay cả hào quang sáng chói thắng giặc ngoại xâm của vua Quang Trung
trong lòng dân Việt. Nhưng những gì thuộc về văn hóa, thuộc về tinh
thần, đã được lịch sử gạn lọc một cách tinh tế, trả về sự thật, lưu
truyền mãi trong sử sách.
Tại
Chùa Bồ gần Hà Nội, sau bao nhiêu năm kiểm soát nghiêm ngặt, xử trị
nặng nề của Gia Long Nguyễn Phúc Ánh, những ai tưởng nhớ Vua Quang
Trung, dân chúng nơi đây vẫn đúc tượng thờ Vua Quang Trung dưới hình
thức tôn giáo với câu đối chữ Hán:
Động lý vô trần, đại địa sơn hà lưu đống vụ
Quang Trung hóa Phật, tiểu thiên thế giới chuyển phong vân
Công
Chúa Ngọc Hân, con gái vua Lê Hiển Tông, là Bắc cung Hoàng Hậu vua
Quang Trung đã khóc khi Ngài qua đời, trong tác phẩm “Ái Tư Văn”:
Nghe trước có đấng vua Thang, Võ
Công nghiệp nhiều tuổi thọ càng cao
Mà nay áo vải cờ đào
Giúp dân dựng nước biết bao công trình.
Tại
làng Tây Sơn, Bình Định, ngay trong thời Gia Long Nguyễn Phúc Ánh, sau
khi ngôi từ đường Nhà Tây Sơn bị nhà Nguyễn phá hủy, ngôi đình làng được
thay thế vào, dân chúng âm thầm thờ ba vua Tây Sơn bên trong.
Năm
1958, dưới thời chính quyền VNCH, dân chúng địa phương góp công sức xây
dựng Điện Tây Sơn trên nền cũ của ba Vua làm nơi thờ tự. Cờ Quang Trung
cũng được Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu chuẩn y bay phất phới lần đầu tiên
vào năm Ất Tỵ ngày 6 tháng 2 năm 1965, sau 176 năm vắng bóng.
Hằng năm vào tháng Mười Một Âm Lịch là ngày giỗ ba Vua Tây Sơn, có nhạc võ Tây Sơn theo cổ lệ.
Ngày
Mồng Năm tháng Giêng mỗi năm, dân chúng Bình Định tổ chức ngày Lễ Đống
Đa rất trọng thể. Người dân các tỉnh, tề tựu về đây xem lễ hội Đống Đa,
có đến hàng trăm ngàn người.
Ngày
nầy còn có ý nghĩa là Ngày Tây Sơn. Đầu năm mọi người đi trẩy hội, là
dịp rủ nhau vui Xuân trong những ngày Tết, cũng là cơ hội cho Nam thanh,
Nữ tú, lòng đầy nhiệt huyết, tưởng nhớ vua Quang Trung trong ý chí quật
cường, cùng toàn dân dẹp tan quân xâm lược Mãn Thanh, đem lại an bình
cho đất nước.
Tại
Hoa Kỳ, các Tiểu bang, thành phố có đông người Việt Nam như Nam
California, Bắc California, Dallas, Houston, Washington DC, Seattle,
Orlando, Colorado…, hằng năm đều tổ chức Ngày Tây Sơn, được đồng hương
Việt Nam hưởng ứng nhiệt liệt, nhằm mục đích nhớ lại công đức của tiền
nhân và nhắc nhở giới trẻ quay về cội nguồn, yêu thương Quê hương Dân
tộc.
Nhà thơ Vũ Hoàng Chương đã làm “Bài Ca Bình Bắc”,
ca ngợi Vua Quang Trung chí lớn dọc ngang, mộng lớn huy hoàng, một phút
oai thần dậy sóng, gươm thiêng cựa vỏ, tan vía cường bang, voi thiêng
chuyển vó, giặc nát lũy tan hàng:
Kể từ đấy
Mặt trời mọc ở phương đông ngút lửa
Mặt trời lặn ở phương đoài máu chứa chan
Đã sáu mươi ngàn lần
Và từ đấy cũng sáu mươi ngàn lần
Trăng tỏ bóng nơi rừng cây đất Bắc
Trăng mờ gương nơi đồng lúa miền Nam
Ruộng dâu kia bao độ sóng dâng tràn
Hãy dừng lại thời gian
Trả lời ta – Có phải
Dưới vầng nguyệt lạnh lùng quan ải
Dưới vầng dương thiêu đốt quan san
Lớp phế hưng xô nghiêng từng triều đại
Mà chí lớn dọc ngang
Mà nghiệp lớn huy hoàng
Vẫn ngàn thu còn mãi
Vẫn ngàn thu người áo vải đất Quy Nhơn.
*
Ôi người xưa Bắc Bình Vương
Đống Đa một trận trăm đường giáp công
Đạn vèo năm cửa Thăng Long
Trắng gò xương chất, đỏ sông máu màng
Chừ đây lại đã xuân sang
Giữa cố quận một mùa xuân nghịch lữ
Ai kia lòng có chợt mang mang
Đầy vơi sầu xứ
Hãy cùng ta ngẩng lên, hướng về đây tâm sự
Nghe từng trang sử thét từng trang
*
Một phút oai thần dậy sấm
Tan vía cường bang
Cho bóng kẻ ngồi trên lưng bạch tượng
Cao chót vót năm màu mây chiêm ngưỡng
Dài mênh mông vượt khỏi lũy Nam Quan
Và khoảng khắc đổ xuôi chiều vươn ngược hướng
Bao trùm lên đầu cuối thời gian
Bóng ấy đã ghi sâu vào tâm tưởng
Khắc sâu vào trí nhớ dân gian
Một bành voi che lấp mấy ngai vàng
*
Ôi Nguyễn Huệ người anh hùng áo vải
Muôn chiến công một chiến công dồn lại
Một tấm lòng muôn vạn tấm lòng mang
Ngọn kiếm trỏ bao cánh tay hăng hái
Ngọn cờ vung bao tính mệnh sẵn sàng
Người cất bước cả non sông một giải
Vươn mình theo dãy Hoành Sơn mê mãi
Chạy dọc lên thông cảm ý ngang tàng
Cũng chồm dậy đáp lời hô vĩ đại
Chín con rồng bơi ngược Cửu Long giang
*
Người ra Bắc oai thanh mờ nhật nguyệt
Khí thế kia làm rung động càn khôn
Lệnh ban xuống lời lời tâm huyết
Nẻo trường chinh ai dám bước chân chồn
Gươm thiêng cựa vỏ
Giặc không mồ chôn
Voi thiêng chuyển vó
Nát lũy tan đồn
Ôi một khúc hành ca hề gào mây thét gió
Mà ý tưởng lòng quân hề bền sắt tươi son
Hưởng ứng sông hồ giục núi non
“Thắt vòng vây lại” tiếng hô ròn
Tơi bời máu giặc trăng liềm múa
Tan tác xương thu ngựa đá bon
*
Sim rừng ruộng lúa tre thôn
Lòng say phá địch khúc dồn tiến quân
Vinh quang hẹn với phong trần
Đống Đa gò ấy mùa xuân năm nào
Nhớ trận Đống Đa hề thương mùa xuân tới
Sầu xuân vời vợi
Xuân tứ nao nao
Nghe đêm trừ tịch hề máu nở hoa đào
Ngập giấc xuân tiêu hề lửa trùm quan tái
Trời đất vô cùng hề một khúc hát ngao
Chí khí cũ gồm trong da thịt mới
Vẳng đáy sâu tiềm thức tiếng mài dao
Đèo Tam Điệp hề lệnh truyền vang dội
Sóng sông Mã hề ngựa hí xôn xao
Mặt nước Lô giang hề lò trầm biếc khói
Mây núi Tản Viên hề lọng tía giương cao
Rằng: “đây bóng kẻ anh hào
Đã về ngự trị trên ngã ba thời đại”
Gấm vóc giang sơn hề còn đây một giải
Thì nghiệp lớn vẻ vang
Thì mộng lớn huy hoàng
Vẫn ngàn thu còn mãi
Ôi ngàn thu người áo vải đất Quy Nhơn.
*
Nay cuộc thế sao nhòa bụi vẩn
Chúng ta trên ngả ba đường
Ghi ngày Giỗ Trận
Mơ Bắc Bình Vương
Lòng đấy thôn trang hề lòng đây thị trấn
Mười ngả tâm tư hề một nén tâm hương
Đồng thanh rằng: “Quyết noi gương!”
*
Để một mai bông thắm cỏ xanh rờn
Ca trống trận thôi lay bóng nguyệt
Mừng đất trời gió bụi tan cơn
Chúng ta sẽ không hổ với người xưa một trận
Đống Đa nghìn thu oanh liệt
Vì ta sau trước lòng kiên quyết
Vàng chẳng hề phai đá chẳng sờn.
Lòng say phá địch khúc dồn tiến quân
Vinh quang hẹn với phong trần
Đống Đa gò ấy mùa xuân năm nào
Nhớ trận Đống Đa hề thương mùa xuân tới
Sầu xuân vời vợi
Xuân tứ nao nao
Nghe đêm trừ tịch hề máu nở hoa đào
Ngập giấc xuân tiêu hề lửa trùm quan tái
Trời đất vô cùng hề một khúc hát ngao
Chí khí cũ gồm trong da thịt mới
Vẳng đáy sâu tiềm thức tiếng mài dao
Đèo Tam Điệp hề lệnh truyền vang dội
Sóng sông Mã hề ngựa hí xôn xao
Mặt nước Lô giang hề lò trầm biếc khói
Mây núi Tản Viên hề lọng tía giương cao
Rằng: “đây bóng kẻ anh hào
Đã về ngự trị trên ngã ba thời đại”
Gấm vóc giang sơn hề còn đây một giải
Thì nghiệp lớn vẻ vang
Thì mộng lớn huy hoàng
Vẫn ngàn thu còn mãi
Ôi ngàn thu người áo vải đất Quy Nhơn.
*
Nay cuộc thế sao nhòa bụi vẩn
Chúng ta trên ngả ba đường
Ghi ngày Giỗ Trận
Mơ Bắc Bình Vương
Lòng đấy thôn trang hề lòng đây thị trấn
Mười ngả tâm tư hề một nén tâm hương
Đồng thanh rằng: “Quyết noi gương!”
*
Để một mai bông thắm cỏ xanh rờn
Ca trống trận thôi lay bóng nguyệt
Mừng đất trời gió bụi tan cơn
Chúng ta sẽ không hổ với người xưa một trận
Đống Đa nghìn thu oanh liệt
Vì ta sau trước lòng kiên quyết
Vàng chẳng hề phai đá chẳng sờn.
Triều Phong ĐẶNG ĐỨC BÍCH
Tài liệu tham khảo :
- Đại Nam Nhất Thống Chí – Nguyễn Tạo
- Hoàng Lê Nhất Thống Chí – Ngô Thời Chí
- Đại Việt Sử Ký Toàn Thư – Ngô Sĩ Liên
- Việt Nam Sử Lược – Trần Trọng Kim
- Việt Sử Cương Mục Tiết Yếu – Đặng Xuân Bảng
- Việt Sử Toàn Thư – Phạm Văn Sơn
- Trí Thức VN cuối thế kỷ 18 – Hồ Văn Quang
- L’histoire du Việt Nam – Philippe Devillers
- L’lmpire d’Annam - Gosselin
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire