Truyện Ngắn
Ăn Tết Thôn Quê
* Bút Xuân Trần Đình Ngọc
Vẫn nắng đẹp nhưng là nắng yếu trên những cánh đồng chỉ còn trơ rạ nhưng đa phần là rạ đã được cắt, đánh đống ngay trên bờ ruộng, chờ chở về nhà. Gió heo may hun hút từ miền Bắc thổi xuống khiến người và vật đều lạnh cóng. Đó đây vài con trâu với bác nông phu đang cày vỡ, chuẩn bị cho mùa lúa chiêm sang năm. Những hòn đất này nay mai sẽ qua tay các cô thợ xếp ải để làm cho đất tơi mục ra nhờ nắng và gió, lấy lại sinh lực để nuôi những cụm lúa mau tốt. Đó là một mùa Đông ở Bắc Việt khoảng giữa thập niên 30 (nền chính trị vẫn trong chế độ đô hộ của người Pháp).
Quay đi quay lại thế mà đã hai mươi tháng chạp. Năm nay được mùa có nghĩa là sau khi trả hết phần lúa cấy rẽ cho chủ ruộng và trả công người làm, bác Ước còn lại tàm tạm đủ số thóc ăn cho đến khi gặt lúa chiêm. Vì vậy, hai vợ chồng bác bàn với nhau mua sắm chút đỉnh cho con cái ăn một cái tết khá hơn mọi năm.
Từ gần một tháng trước, bác Uớc gái đã muối một vại dưa hành và một vại dưa cải bẹ. Hành được nén bằng một cái cối đá, củ hành sẽ dẹp xuống và dòn. Dưa cải thì nén nguyên cây, lúc ăn mới cắt ra, vàng và thơm, có thể ăn đến vụ lúa chiêm mới hết.
Bác Ước trai và Hướng đã lau quét bàn thờ rất kỹ lưỡng. Công việc này hầu như một năm mới làm một lần nên hai bố con bác đã bỏ ra gần cả ngày cho việc lau chùi và trang hoàng. Trước hết là cái độc bình men sứ khá lớn mà bác coi như của gia bảo bởi lẽ nó đã được chuyền tay từ đời ông đến đời bố bác và đến bác. Những người biết chữ Nho đọc trên đó thì nói chiếc bình có từ đời vua Càn Long bên Tàu, mặc dù miệng bình bị vỡ một miếng phải hàn lại và bịt bằng đồng.
Hai bố con bác Ước ra vườn trước chặt một cành đào đẹp đầy những nụ hồng mơn mởn đem vào bếp hơ gốc cho cháy sơ rồi đem cắm vào độc bình đã có sẵn nước. Hinh Đức Phật Như Lai trong khung gỗ đánh vẹc-ni và bài vị ông bà tổ tiên được lau chùi cẩn thận rồi đặt lên ngay ngắn. Bác Ước bảo Hướng đưa cái đỉnh trầm bằng đồng ra cầu ao lấy cát đánh cho sáng lên còn bác thì lau đi lau lại mấy cái đĩa đựng hoa quả và bát hương. Tấm màn đỏ che trước ban thờ cũng được tháo ra đem giặt cho sạch sẽ. Còn bức hoành phi và đôi câu đối thì bác chỉ lấy chổi gỡ mạng nhện, dùng vải mềm lau đi lau lại. Cuốn gia phả họ Lê đặc nghẹt chữ Nho mà bác chỉ đọc được lõm bõm cũng được lau chùi cho phần bìa bằng giấy bồi nhựa cậy sáng lên và sạch sẽ.
Dọn xong bàn thờ thì cũng gần chuông ngọ. Hai cha con bác Ước vui vẻ đứng xoa tay nhìn bàn thờ lấy làm hài lòng. Khoảng sau ngày ông Táo chầu trời ắt sẽ có vàng, hương, nến, ngũ quả và bánh trái để lên, khói hương nghi ngút, ắt là đẹp đẽ, báo trước một năm mới thịnh vượng, may mắn.
Xế trưa, bác Ước gái và Hương từ chợ huyện về. Hai mẹ con đội đi hai thúng gạo bán được cả thảy bốn quan tiền nên sắm sửa đủ thứ cho ngày Tết. Trước nhất là một "ông mũ" phất bằng giấy trang kim tô điểm bằng những mặt gương tròn nhỏ sáng lấp lánh. Kế đó là mấy trăm vàng, xấp tiền giấy, một thẻ hương và một nải chuối ngự còn xanh ngắt. Vàng mũ để cúng thổ công, còn tiền để đốt xuống cho ông bà tiêu dưới đó, hương hoa quả trái cúng Phật. Hương thấy những quả chanh yên và phật thủ thì có ý thích nên bác Ước mặc cả mua hai trái để hai bên bàn thờ, lại thêm mấy trái cam sành, mấy trái bòng (bưởi), chục quýt, trái nào trái ấy da vàng tươi, đặt lên ban thờ rất là nổi.
Đi qua hàng hoa giấy, hai vợ chồng người bán mời chào ríu rít làm bác Ước không nỡ bỏ đi. Hai mẹ con lựa được vài cành để cắm vào cái ống tre luồng cắt vát đầu. Bác Ước gái và Hương không ghé hàng thịt vì bác trai có đánh đụng một góc lợn với cụ xã Nhẫn, bác Ru và chú Vinh. Khoảng hăm lăm, hăm sáu, người ta sẽ mổ lợn và bác sẽ có thịt để gói bánh chưng, nấu đông, hoặc làm nem, làm giò. Hôm nay bác cần mua lá giong, gạo nếp, tiêu đen và thảo quả vì bánh chưng không có thảo quả ở trong nhân thì không ra bánh chưng.
Xẹt qua hàng tôm cá, bác Ước mua lưng rổ cá diếc đang giẫy, tươi rói. Cá mới bắt dưới sông lên do đám cất vó ban đêm hoặc đắp be chận lại ở những khúc sông nhỏ. Ở Bắc Việt về tháng chạp, thường nước sông cạn nên đánh cá dễ hơn là mùa hè nước lớn. Hôm bán hai con lợn thịt, bác đã đi sắm cho Hương một cái áo tứ thân vải mỏng mầu nâu non, nửa trên lợt, nửa dưới đậm, một cái thắt lưng lụa mầu thiên lý, một cái váy sồi đen rức và cái yếm lụa mỡ gà. Nguyện, Mầu còn bé vả quần áo còn mặc được nên bác chỉ sắm cho mỗi đứa thêm một bộ cánh mới. Ba thằng con trai thì phải để đợt bán lợn sau. Riêng bác Ước trai, cái áo lương (the) đã quá cũ không còn mặc được nữa nên vợ chồng bác bàn với nhau đến bà xã Tý hàng tấm mua mấy thước the đen để may cho bác một cái áo mới đi đâu có mà mặc với người ta. Cái áo này cũng ngốn hết hơn chục thùng thóc của bác vì vậy bác Ước gái không dám sắm cho mình một tí gì. Đi đâu bác vẫn có cái áo dài và cái áo bông cộc mặc ngoài. Thôi vậy cũng được chán.
Sáng hôm sau, khoảng giờ Thìn (10 giờ) một hồi mõ từ điếm canh xóm Nam vang lên. Tiếng đàn ông, con trai gọi nhau ơi ới. Hôm nay là ngày làm vệ sinh chung cho cả xóm. Người cầm mai cầm cuốc, kẻ cầm xẻng cầm dao, tất cả ra tập họp ở ba gian điếm canh (trụ sở xóm) để ông Trưởng Xóm là cụ xã Nhẫn cắt đặt công việc. Cả thảy gần ba chục người nên cụ xã chia làm bốn toán. Toán 1 do bác Ước chỉ huy với 5 anh thanh niên lo dọn dẹp điếm canh và sân điếm. Binh khí như dao, mác, gậy gộc... được lau chùi, tu bổ. Giường, chõng, mái nhà được quét tước, lấy hết mạng nhện. Hàng rào râm bụt ở phía trước được tỉa cắt cho đẹp. Ở sân điếm, dân xóm có trồng một cây đào, lúc này đang sắp đơm hoa, nụ đào hồng hồng đầy trên các nhánh. Cụ xã Nhẫn cấm không cho ai được đụng đến bất cứ cành to cành nhỏ nào của cây đào, ngoại trừ vài cành cụ tự tay cắt để cắm độc bình trong điếm cúng tối Giao thừa. Nước sông gần, cây đào được dân xóm chia phiên tưới đều nên cứ tơ và mạnh. Hoa nó lớn, đẹp và về mùa hè, quả cũng ngọt ngon.
Toán 2 có ông Ru đứng đầu và 6 người gồm cả hai anh em Cung, Cách. Họ kê lại những hòn đá tảng ở Bến Đá nếu có hòn nào bị trượt đi, bị lún, rung rinh không chắc hoặc thay thế những hòn đá nhẵn quá dễ trượt. Những hòn đá lúc mới đưa từ núi đá về làm bến thì khu khi, sần sùi vì kỹ thuật đục đẽo chưa có, chỉ dùng toàn dao rựa, đục sắt và búa nhưng kê ở đó nhiều năm, người lớn, trẻ con đi lại, đứng ngồi đến nỗi mặt đá mòn đi, có hòn nhẵn thín. Lại có những người đưa mai, cuốc hoặc dao ra mài trên những hòn đá khiến chúng càng dễ nhẵn. Nhẵn quá gặp nước thì trơn trượt. Đã có những đứa trẻ trong xóm đánh bể hết cả rổ bát đĩa vì trượt chân. Những hòn đá ngâm dưới nước bị mọc rêu, lại càng dễ trượt hơn nữa. Vỡ cả rổ bát còn là may. Con bé Cải con ông Ru hôm trước bị trượt ở hòn đá ngay giữa bến ngã ngửa người, đập đầu vào đá bất tỉnh nhân sự sau khi mất đà quăng rổ bát xuống sông. May chỉ bị thương xoàng.
Sắp lại những hòn đá xong nghĩa là đặt những hòn sần sùi vào giữa bến và đưa những hòn nhẵn ra hai bên, nơi ít người bước tới, mấy anh thanh niên toán này bắt đầu vét bùn ở dưới lòng sông ngay chỗ Bến Đá đi xuống để lấy bớt số lượng bùn dễ làm đục dòng nước mỗi khi có bàn chân người khỏa xuống. Thường dân xóm lấy gạch ngói vụn đổ dầy lên trên lớp bùn, gạch ngói làm giẽ lòng sông và người ta có thể đứng tắm mà chân không bị lún bùn. Phần bờ sông trước mặt điếm canh là thuộc tài sản dân trong xóm nên toán 2 này cũng phải lấy bùn sông đắp bồi vào phần đất dùng để cấy rau muống, rau cần hoặc khoai ngứa (môn). Những thứ này trồng quanh năm, hái đem ra chợ bán, tiền thu được xung vào quỹ chung của xóm để chi tiêu khi cần. Chỉ có chút chút vậy mà quỹ xóm cũng đã được vài chục thùng thóc. Ai cũng muốn cho nó tăng nhiều lên sau mỗi năm.
Ông phó Công dẫn toán thứ 3 dùng vôi trộn cát vá lại những mảng đường bị trâu bò dẵm bấy. Từ nay tới qua tết, mục đồng không được dắt trâu qua lối trước của xóm mà phải đưa chúng ra cổng đồng phía sau. Mục đồng không tuân, chủ trâu bò hoặc cha mẹ sẽ phải đóng tiền phạt để xung vào quỹ xóm.
Toán cuối cùng có nhiệm vụ khơi hai bên rãnh chạy dọc theo con đường lớn và những đường ngang của xóm để nước mưa chảy dễ dàng đồng thời phải phát tre, giẫy cỏ hai bên cho quang quẻ sạch sẽ.
Đến vàng vàng mặt trời, công việc vệ sinh chung của xóm Nam mới xong. Mọi người xoa tay đứng nhìn bộ mặt mới của xóm. Nó sạch sẽ, vén khéo như một xóm mới tân lập hay như một người mới cắt tóc. Những bờ tre dầy được phát quang ngay ngắn, thấp và bằng phẳng. Cổng ngõ mỗi nhà, ngay cả những cổng tre, cổng nứa cũng được sửa sang, tu bổ đâu đó rất mát mắt. Ông xã Nhẫn bảo mọi người:
"Làm xong vệ sinh chung của xóm, tôi mới yên chí. Sợ cuối năm trăm công nghìn việc, ai cũng lấy cớ nhà mình bận để việc chung cho người khác làm thì khổ cho tôi. Tối mai, khi nghe tiếng mõ báo, các ông trưởng gia và tất cả thanh niên xóm ra điếm canh tập họp để chúng ta cắt phiên canh gác. Tháng củ mật hay có trộm cướp lắm. Không đề phòng là có khi mệt với chúng đó."
Ai về nhà nấy. Bác Ước trở ra Bến Đá rửa tay chân xong mới về nhà. Ngọn đèn dầu lạc cho một vùng ánh sáng vàng vọt thật nhỏ ở dưới bếp, nơi gia đình bác ăn bữa cơm tối. Cả nhà ngồi chung quanh cái mâm gỗ long sơn trên để một bát rau muống lẫn với rau rút luộc, một đĩa cá diếc kho và một bát dưa nén. Nồi năm cơm gạo trắng không nhỏ thế mà đơm hai lượt chẳng còn bao nhiêu. Có lẽ hôm nay có món cá diếc kho với hành ủ trấu thật lâu, đầu xương cá mềm nhừ nên sáu đứa trẻ ăn ngon miệng hơn mọi ngày. Được cái rau dưa thì ăn tha hồ nên cơm ít, có thể ăn thêm rau cho no. Rau muống, rau rút mới hái ở ao, luộc sơ lên chấm nước cá kho có tí mỡ hành, thằng Hoạt bé nhất nhà cũng nói:
"Cơm ngon quá, mẹ. Nó cứ trôi vào cổ tuồn tuột."
Con Mầu lườm em:
"Chuyện! Cơm không thì sao mà không trôi tuồn tuột?"
Đúng, Mầu nói đúng. Gần tết nên bác Ước gái bàn với bác trai cho các con ăn cơm không độn khoai, độn ngô, độn ráy vào, một đặc ân của ngày tết cổ truyền. Chẳng vậy thằng Vọng vẫn bảo thà ăn ít một tí mà ăn cơm không rồi uống nước nó sẽ no lên còn hơn là ăn độn mà ăn nhiều. Cái miệng phải nhai nhiều, nhất là cơm độn bắp đá, thứ bắp để già rắn hơn đá, phải ngâm một đêm và nấu với vôi may ra mới nhừ. Ấy là hai vợ chồng bác Ước thường ngày bảo nhau mỗi người bớt đi một bát cơm để dành cơm cho ba đứa nhỏ nhất: Nguyện, Mầu và Hoạt. Thành thử bác Ước trai bao giờ cũng là người ăn xong trước nhất. Xong phần cơm của bác, bác đứng lên đi kiếm điếu hút thuốc và làm vài bát nước chè tươi nóng hổi là no cành bụng ngay.
Con Vện chống hai chân trước ngồi nhìn gia đình chủ ăn cơm. Nó rất sáng mắt khi thấy cô chủ hoặc cậu chủ nhỏ vứt cho nó cái đầu cá kho thơm phức. Ngay đầu bữa, Hương đã hớt mặt cơm ở miệng nồi khoảng chừng hơn một bát để chia cho nó và hai mẹ con con Mướp. Phần cơm của Vện, lắm khi Hương không dám trộn đầu tôm đầu cá vì sợ ngon quá nó ăn chừng nào cũng không đủ. Chỉ cơm không, thế mà nó xốc ba cái là nhẵn. Ăn đói vậy mà hai con mắt của nó vẫn sáng như hai vì sao, chạy ra chạy vào nhanh như cắt, đêm ngày coi trộm coi đạo rất yên tâm.
Hai mẹ con Mướp, Mun thì dù có đói cũng ăn nhỏ nhẻ như thiếu nữ con nhà giàu. Hai con hai bát ăn riêng, phải để lên nóc chạn chứ để dưới đất thì quay đi quay lại Vện làm sạch, cái bát đựng bóng loáng như lau, như chùi. Vện kiếm không ra món ăn phụ chứ Mướp và Mun, nào có khó. Chuột nhắt đó, quơ tay cũng có. Chuột trong nhà sợ chạy ra bờ tre thì Mướp và Mun có thể thả bộ ra đó rình mò. Nhưng, như đã nói, Mướp Mun không bao giờ thầu món hàng này. Chúng chỉ cắn chết bỏ đó. Món ăn phụ của Mướp và Mun là những con sẻ, con sáo có khi cả chào mào đỏ đít đỏ đuôi. Thịt chim bao giờ cũng thơm và ngon hơn thịt chuột. Vậy mà tại sao các cụ lại đồng hóa chim, chuột với nhau: "Anh chị chim chuột nhau đấy." Anh chị đây không phải chim chuột mà là người.
Ngày mong đợi của lũ trẻ đã đến. Đó là ngày 27 tết. Những ngày này mới lại vui hơn ngày tết, nhất là năm nay tháng chạp thiếu, 29 lấy làm 30.
Bác Ước và Hướng đã khiêng từ nhà cụ xã Nhẫn về một rổ sề thịt lợn. Cái gì cũng chia làm 4 hết. Lợn chia 4 đùi, đúi sau to hơn thì cắt ngắn hơn. Cân kẹo không có, bà xã Nhẫn cứ để miếng thịt lên tay rồi rung rung bàn tay để ước lượng sức nặng của miếng thịt, bàn tay ghi nhớ lấy rồi lại để miếng khác lên để so sánh xem miếng nào nặng, miếng nào nhẹ. Bà cắt chỗ này một tí để bù qua chỗ kia cho thật công bằng. Tim, gan, phối, lòng ruột thì dễ vì cứ chia tư. Ruột dễ nhất. Bác Ru gái đứng ngoài bình phẩm, bác vốn nhiều lời và hay sợ bị thiệt. "Phần kia coi bộ nhiều hơn phần này đấy, miếng cật ở phần này mỏng hơn phần kia." Cắt cắt, xẻo xẻo, bù qua đắp lại rồi những miếng thịt thành ra vụn dần. "Không sao," ông xã Nhẫn nói, "ếch nào cũng là thịt. Thịt vụn, thịt nguyên gì cũng đến vào mồm thôi! Càng đỡ phải thái lại."
Quả vậy, chẳng ai phàn nàn về chuyện đó. Một năm mới đánh đụng một lần, cân kẹo đâu mà cân cho thỏa ý. Cứ bàn tay áng chừng cũng công bằng chán. Chẳng vậy đã có một năm, khi bà xã Nhẫn chia đều 4 phần xong thì lại gặp ngay chị Vẹn vào chơi. Chị Vẹn bán thịt ở chợ và vừa từ chợ về. Thế là bác Ru gái và bác Ước gái nhờ chị Vẹn cân lại hộ xem 4 phần có đều nhau không. Chị Vẹn đặt lên bàn cân. Ấy vậy mà khá đều mới hay chứ. Chỉ có một phần hơi non một tí, chị Vẹn tiện tay xẻo 3 phần kia mỗi phần một miếng nhỏ để bù vào phần non. Vui vẻ cả làng. Bà xã Nhẫn được thể, nói: "Mấy người xem cái "cân tay" của tôi có linh không? Cứ gọi là hàng thịt chia cũng không hơn." Ai nấy hể hả trả tiền ra về. Chỉ mất một năm, lúc chia thì không nói gì nhưng hôm sau bác Ru gái phàn nàn với bác Ước:
"Đều thì đều thật nhưng phần của tôi ít mỡ quá. Toàn thịt không, lấy mỡ đâu mà rán để dành xào rau? Thịt không ăn tốn lắm, mà gói bánh chưng không ngon. Lần sau tôi cứ bắt chia đều mỡ ra trước mới được."
Bữa cơm tối 27 có lẽ là bữa cơm ngon và vui nhất của sáu đứa con bác Ước. Thịt chưa có nhiều để ăn cũng như bánh chưng chưa nấu nhưng mấy thứ không để dành được thì đành phải ăn ngay.
Thớt băm rổn rảng. Chẳng mình nhà bác Ước mà hầu hết mọi nhà trong xóm vì ai cũng cố đánh đụng miếng thịt ăn tết. Họ đang băm nhân tiết canh. Bác Ước đã luộc một miếng thịt thủ, cái cổ họng và ít phổi, ít ruột. Bác trai thái nhỏ rồi băm, xong lấy nước luộc lợn để nguội pha với tiết. Bác dội vào ba bát chiết yêu đã để sẵn nhân, dùng đũa trộn đều. Sau ba phút, bác thổi nhẹ trên mặt cho chóng khô và thử nghiêng cái bát. Tiết canh đã đông, bát nghiêng mà tiết không nghiêng. "Đánh khỏi tay là đông" bác lẩm bẩm trong miệng lấy làm hài lòng và để ba bát tiết canh vào trong chạn. Lạnh như cắt thế này gì cũng phải đông. Lát nữa, Hương rang lạc xong sẽ giã nhỏ ra để bác rắc lên mỗi bát một ít. Ngò gai, húng quế thì Mầu đang hái. Tối nay bác phải uống hơn mọi tối cho đã vì hôm nay đã 27 tết. Nguyên chai rượu đậu bác gái mua hôm bán thóc còn để cạnh bàn thờ nhưng bác luôn luôn bảo bác trai đừng uống nhiều, say sưa không tốt.
Những đứa trẻ cũng được ăn tiết canh. Đây là lần đầu tiên với Hoạt, mồm nó đỏ lòm những máu là máu. Nó khen ngon. Nhưng tiết canh không phải là thứ ăn nhiều và ăn với cơm. Nó chỉ được khoảng một miếng lớn của người lớn. "Ăn cho biết mùi," bác Ước gái bảo nó, "lớn sẽ ăn nhiều." Để ăn cơm, nó và các anh chị nó có thịt luộc, thịt kho mặn, rau cần xào với thịt bò. Sang quá! Mắt mấy đứa trẻ sáng trưng lên. Và đặc biệt là cơm không, cơm gạo tám thơm lúc chín bốc mùi hương ngát ngát, ngọt ngọt khắp năm căn nhà. Con Vện và hai con Mun, Mướp hôm nay cũng đại tiệc. Vện được mấy cái xương lợn nằm sấp nhai khau kháu rất hạnh phúc sau khi đã xốc hai bát cơm trộn với chút mỡ và nước luộc lòng lợn. Cứ ngày nào cũng ăn thế này thì chắc nó phải to như con bê bác Ước mới nuôi rẽ bà tổng Tê. Mướp với Mun rất thích mỡ. Ngoài cơm trộn, hai mẹ con nó được Hương lấy lén mẹ vài miếng mỡ khổ đem cho. Ôi chao, hạnh phúc! Đã lâu thiếu chất thịt, hai con mèo gần như nuốt trửng mấy miếng mỡ sống. Ăn xong, hai mẹ con còn ngồi liếm mép đi liếm mép lại như vẫn còn thèm.
Bác Ước gái ninh một nồi thịt đông to tướng. Bác bảo đàn con, cứ thịt đông với dưa chua, dưa hành ăn suốt đời cũng được. Mà nào có mà ăn suốt đời. Ra tết lại dưa, cà, mắm mặn ngay.
Tối 28, cả nhà bác Ước phải thức để canh nồi bánh chưng. Thực ra, một mình bác thì chỉ mười lăm cái là đủ. Một cái nồi hai mươi là xong. Nhưng bác, ông xã Nhẫn, ông Ru và ông Tế đã có giao ước với nhau. Mỗi nhà phải gầy nồi bánh nấu một năm cho cả bốn nhà. Nhà nào cũng gói đều 15 cái bánh, vị chi sáu chục. Như vậy nấu một năm được nghỉ ba năm nhưng vẫn có bánh ăn tết. Năm nay đến "lân" bác Ước vì vậy từ trong năm, bác đã hì hục cưa mấy cành sung, cành vối khô để dành nấu bánh. Bánh luộc chung nhưng không sợ lộn vì đã có dấu lạt. Vả lại, tuy cùng hình vuông nhưng mỗi nhà kiểu gói mỗi khác, có trộn cũng không lẫn.
Từ chập tối, cả nhà bác Ước ngồi canh nồi bánh. Những đứa trẻ vui vẻ chuyện như pháo ran. Bác Ước gái giục chúng đi ngủ chúng cũng không đi. Nhưng đến canh hai mấy đứa trẻ ngủ gục hết. Chúng không quen thức khuya. Tối lên giường là ngủ liền, đêm nào cũng vậy, đã thành quen. Chỉ còn mình bác Ước trai ngồi bó gối canh nồi bánh. Không canh, trộm viếng, có khi chúng khuân cả nồi, lấy gì cho con ăn Tết. Vả lại còn bánh của ba nhà kia nữa.(Mời vào thăm: vietnamexodus.org trang Văn học cùng tác giả)
Hướng được chia phiên ngủ sớm. Khoảng quá canh ba bác Ước gọi nó dạy canh thay cho bác. Bác vừa động vào vai, nó nhỏm dậy ngay, hai tay ủ vào hai túi áo cánh đưa sát lại nhau ở trước bụng cho ấm. Nó vừa xuýt xoa vừa đi xuống bếp, miệng thở ra những làn khói trắng như vừa hút thuốc lào. Nó sà xuống cái ghế đẩu cạnh nồi bánh chưng đang sôi sùng sục, hơi ấm bốc ra thật dễ chịu từ những cục than hồng và mấy thanh củi tạ đang tí tách cháy cho ánh sáng lung linh cả gian bếp.
"Rét quá hả bố!"
"Ừ, năm nay rét quá."
"Thôi, bố đi ngủ đi để con coi cho."
Bác Ước hút thêm một điếu thuốc lào và uống một bát nước chè tươi nóng rồi lần vào ổ rơm. Vợ con bác đang ngủ la liệt ở đó, cái ổ rơm bác đã dùng toàn rơm mới, sạch và có ván chắn hai đầu cho rơm khỏi tụt ra. Bác ngồi xuống xoa hai chân vào nhau cho bớt bụi rồi chui vào trong chiếu, quàng tay ôm lấy bác gái đang ngủ ngon. Mấy đứa trẻ ngủ không biết gì.
"Bố thằng Hướng đấy hở?"
"Ừ, đêm mai phải kiêng kẻo giông cả năm đấy!"
Cả hai tiếng nói đều thì thầm, chỉ đủ nghe. Bác Ước nằm nghiêng, từ tốn, cảm thấy hết cái sảng khoái của cái ổ rơm mềm ấm và da thịt vợ bác. Một chân bác gác lên đùi bác gái, hai tay ôm chặt cứng. Bác để mũi vào má bác gái hít rất sâu, rất âu yếm rồi một tay luồn xuống gáy gối đầu cho vợ, tay kia vun mãi đôi vú căng tròn, đầy đặn và mềm mại lên cao. Bác gái đưa hai tay xuống kéo mép váy rộng thùng thình lên cho vừa đủ lộ ra cặp đùi thon dài rồi nằm yên chờ. Cái quần lá tọa của bác Ước còn y chỉ di dời xuống bên dưới một tí. Ba bốn cái chiếu đậu đắp bên trên xê đi dịch lại và quần áo của hai người khá vướng víu, nhưng không hề gì. Cái ổ rơm bập bềnh nhè nhẹ làm phát ra những tiếng sột soạt như người ta đang sắp chỗ nằm.
"Khẽ chứ kẻo trẻ nó thức!"
Đàn bà ai chẳng cẩn thận, nhưng bác trai trấn an ngay:
"Chúng nó ngủ như chết đấy mà."
Quả vậy, năm đứa trẻ ngủ rất say mặc dù lúc chập tối chúng bảo nhau sẽ cùng ngồi canh nồi bánh đến sáng. Vả lại, bác Ước gái đã sắp cho những đứa lớn nằm ở đầu kia cái ổ rơm, chỉ có hai đứa nhỏ là Hoạt và Mầu là nằm kế mẹ chúng. Bác trai ở sát đầu đàng này, một sự sắp đặt rất khéo.
Chỉ loáng cái, những tiếng sột soạt mạnh lên như cơn gió rồi từ từ im dần... im dần... thay thế bằng tiếng thở đều đều của bác Ước. Nhà bác năm mới sẽ may mắn vì mọi việc đã được sắp xếp đâu vào đó và vợ chồng con cái bác sẽ có những ngày Tết Nguyên Đán thật vui với bánh chưng xanh, thịt mỡ, dưa hành và câu đối đỏ. Bác cho đó là những điềm lành.
(Trích Tập Truyện:” Những Con Dốc Đứng - Đông A Xuất Bản 1999)
* Bút Xuân Trần Đình Ngọc
Tìm đọc: Tập Truyện ngắn “Tình Mẹ Con” Đông A xb 2009 tác giả BX/TĐN
Truyện Ngắn
ĂN
TẾT QUÊ NGOẠI
* Bút
Xuân Trần Đình Ngọc
Mỗi năm vào cuối tháng Chạp, khi tôi thấy chiếc thuyền đinh lớn, phía
mũi có vẽ hai con mắt khổng lồ giống như mắt người, ở giữa là cây cột buồm cao
bằng tre luồng lớn và ở phía lái có chú Vững, đầu đội cái khăn rằn đen để hai
đầu khăn rủ xuống một bên tai, bộ quần áo nâu nhuộm kỹ dày mo, đang đứng chỉ
huy cho các tay chân sào neo thuyền, sửa soạn buồm dây v.v... ngay tại Bến đá
trước nhà bố mẹ tôi, là tôi biết đã gần Tết Nguyên Đán rồi.
Năm nào cũng vậy, cứ khoảng sau ngày ông Táo chầu Trời, người trong
thôn tôi - trong đó có bố mẹ và anh chị em chúng tôi - bao một chiếc thuyền
đinh làm đò dọc để sang xã Đông Thành, tỉnh Thái Bình ăn Tết với ông bà ngoại.
Đối với gia đình tôi, Đông Thành là quê ngoại vì mẹ tôi sinh trưởng nơi đó cho
đến khi lấy bố tôi và theo về Nam Định, ở vùng Trà Lũ này. Với nhiều gia đình
khác, Đông Thành lại là quê nội hoặc có thể là nơi sinh sống của bà con thân
thuộc, Tết nhất cần phải đến họp mặt, mừng tuổi.
Năm nay, chú Vững khởi hành vào ngày 24, và chú nói vì nước lũ năm nay
còn mạnh và lớn nên ít nhất cũng phải 27 tháng chạp mới tới Đông Thành.
Các chị và các anh lớn tôi khuân hòm, rương đựng quần áo ra thuyền (lúc
đó thời Pháp thuộc nên vali còn rất hiếm). Quần áo này là những bộ đồ đẹp, chỉ
được mặc trong mấy ngày Tết dành cho bố mẹ tôi, chị Thảo và tôi vì các anh chị
lớn phải ở nhà trông nhà.
Trong rương cũng còn chất quà cáp để biếu ông bà ngoại và mọi người
trong gia đình như: trà, mứt, thuốc bổ, sâm, nhung, quế, đồ trang sức, quần áo
v...v... bố mẹ tôi đã mua sẵn và gói riêng từng gói, đề tên mỗi người.
Ông ngoại chỉ thích trà tàu Chính Thái thứ thượng hạng, bà ngoại cái
cối nhỏ xíu bằng đồng để giã trầu hay cái hộp nhỏ bằng bạc hình trái cau để
đựng vôi, cô Đoàn, chị mẹ tôi cái quần lãnh đen v...v... tất cả đều được cân
nhắc, suy tính trước khi mua, tùy theo sở thích và nhu cầu của người được tặng
và xếp gọn gàng trong hòm, trong rương.
Về phần tôi, lúc đó mới chín, mười tuổi, cái tuổi thích mặc quần áo
mới. Tôi nhớ dù còn bé tí nhưng bố mẹ tôi cũng bắt tôi mặc áo dài. Tết nhất là
cái áo gấm vàng hoặc xanh có chữ thọ to như cái bát úp rải rác khắp áo, một
chiếc quần trắng dài bằng vải trúc bâu, chân đi vớ trắng và dận đôi xăng đan
màu da bò. Khi trời nắng, tôi thường đội một cái mũ khung bằng liège để làm nút
chai, tuy nhẹ nhưng cứng, không vo lại bỏ túi được, vành rộng hơn tấc tây,
ngoài lợp vải trắng, khi mũ dơ, có thể dùng phấn trắng quết, sơn lên cho mới
lại. Ngoài ra còn có thêm những bộ quần áo mặc thường để thay đổi nữa.
Lúc chín, mười tuổi, được mặc quần áo mới ai không thích, nhưng với
tôi, điều thích thú hơn là được tung tăng ở quê ngoại, nơi đó có vườn tược, ao
cá, đồng ruộng... một năm mới nhìn một lần nên lạ mắt, thấy cái gì cũng hấp
dẫn, kỳ bí, làm tôi say mê chơi hoài không chán.
Một điều thích thú nữa, mà có lẽ là điều thích thú nhất, là được nghỉ
học để đi ăn Tết hai tuần. Buổi học cuối cùng khi nghe thầy Nhường nói bằng
Pháp ngữ: "Các anh được nghỉ ăn Tết hai tuần. Ngày... phải trở lại
lớp." Sau khi thầy đã dặn đi đặn lại một tràng dài, nào Tết ở nhà đọc từ
bài nào đến bài nào, làm bao nhiêu con toán, học thuộc bao nhiêu bài học thuộc
lòng để thầy khảo v...v..., tôi - mà chẳng phải mình tôi, còn nhiều đứa khác
nữa - đã nhảy cẫng lên, ôm cặp chạy bay ra khỏi lớp, phóng một mạch về nhà đứng
thở, để rồi đi tha thẩn ngoài vườn, ngoài ngõ chẳng làm gì.
Hai tuần không phải cặm cụi viết chính tả, không phải học văn phạm,
không phải chia động từ, không đặt câu, không làm tính, không bất cứ cái gì. Ôi
sao lúc đó tôi yêu Tet làm vậy!
Khi mọi người đã xuống thuyền đầy đủ, các lồng gà vịt đưa đi biếu treo
lủng lẳng ngoài hai bên mạn và sau bánh lái. Mới nhìn, người ta cứ nghĩ chiếc
thuyền này buôn gà vịt vì lồng lớn lồng nhỏ treo đầy hai bên, trong lồng có để
sẵn cám và nước.
Khoảng năm chục người xếp cá hộp trong ba khoang thuyền cộng thêm với
rương, hòm, đồ biếu xén của mỗi gia đình, chiếc thuyền vừa khẳm vừa chật không
hở một phân vuông.
Chú Vững ra lệnh nhổ neo khởi hành. Chú cầm bánh lái để đưa thuyền đi
đúng hướng, còn thuyền đi được hay không là trông vào sáu anh chân sào, cạn thì
đẩy bằng sào, nước ngược thì lên bãi dùng dây song, dây thừng để kéo mà sâu quá
thì chèo. Sáu anh này cũng như chú Vững đều khỏe mạnh, cường tráng và đã quen
sông nước.
Con sông Bến đá ngay trước mặt nhà bố mẹ tôi đi lòng vòng cả mấy chục
cây số mới ra đến sông cái, tức là một nhánh của sông Hồng hà, đi tuốt về phía
Ngô Đồng rồi mới sang tới Đông Thành.
Chú Vững đứng thẳng cầm bánh lái, công việc chú làm coi nhàn tản nhưng
thực ra phải chú ý trong mọi lúc. Nếu chú lo ra để thuyền đâm vào bờ hoặc húc
vào các cây cầu khỉ, cầu gạch bắc qua sông thì chẳng những hư thuyền mà còn
phải dừng lại bồi thường cho dân làng có cây cầu nữa. Khúc sông trong này cạn
nên mỗi bên mạn ba anh chân sào dùng cây sào bằng tre đặc, thẳng, thật dài để
đẩy thuyền đi. Tôi vì được chú Vững cưng, nên trời còn sáng, tôi đứng cạnh chú
để xem chú bẻ bánh lái đồng thời ngắm phong cảnh hoàng hôn hai bên bờ sông.
Làng mạc san sát, làng nọ tiếp giáp làng kia. Đại để trông từa tựa như
nhau: những mái tranh, mái rạ màu nâu, xám, thỉnh thoảng xen vào một vài mái
ngói đỏ, hoàng hôn cố sức lấy hết tàn lực rọi lên những tia nắng cuối cùng đẹp
rực rỡ như bức tranh của Vincent Van Gogh.
Đâu cũng là những lũy tre xanh, tượng trưng một cuộc sống êm đềm, thôn
dã. Những hàng cau cao chọc trời, cây thẳng, cây nghiêng, lấp ló một đôi chim
cu bay ra bay vào cái tổ ngay trên ngọn. Thỉnh thoảng thuyền chui qua một cây
cầu lợp ngói, chắc chắn, kiên cố, dân quê thường gọi là cầu thượng gia hoặc qua
một bến đá tương tự như bến đá trước cửa nhà tôi. Vài người lớn, vài đứa trẻ
con còn rửa ráy, giặt giũ, nước bắn lên tung tóe nghe lạch bạch cùng với những
tiếng cười ròn tan. Thật xa, tiếng tù và bắt đầu vọng lại, tháng này, dân quê
phải cắt phiên canh gác coi chừng trộm cướp vì cướp túng quá hay đi ăn hàng vào
những đêm giáp Tết.
Tiếng chuông thu không với nhịp thật chậm của một ngôi chùa kế sông
vẳng lên làm tâm hồn ta muốn tìm cõi siêu thoát. Tiếng guốc gõ trên đường xi
măng và tiếng lào xào nói chuyện của một đoàn người lớn và con nít, áo quần
thùng thình, đang rảo bước đến nhà thờ đọc kinh tối, dáng điệu vui vẻ và thanh
bình như tiếng chuông rộn rã của giáo đường.
Quê tôi chỉ có vậy. Mộc mạc. Êm đềm. Trầm lặng. Và nghèo. Cuộc sống
không thích hợp cho người thích bon chen, tranh đua nhưng rất thoải mái cho
những tâm hồn yêu thiên nhiên, sống giản dị và bình lặng.
Người trong khoang thuyền giở cơm nắm, muối mè, xôi, cơm nếp mật, bánh
trái... ra ăn cho bữa tối. Còn một chút ánh sáng mặt trời, họ phải lợi dụng kẻo
nửa giờ nữa là tối sập. Tiếng mời chào, trao đổi món ăn nghe cũng ấm lòng.
Người dân quê hiền lành chất phác, nghĩ sao nói vậy. Họ không khách sáo hoặc
hoa hòe hoa sói, kiểu cách như người thành thị. Họ chia sẻ những vắt cơm, những
nắm xôi, những củ khoai, chén đậu, cái bắp với nhau, những thức ăn thật tầm
thường đạm bạc nhưng lòng họ đầy thành thật và thương quí lối xóm, bà con.
Mẹ tôi gọi tôi vào ăn cho xong bữa, nhưng tôi mải mê với hoàng hôn đang
từ từ xuống, với cảnh vật thiên nhiên lồng vào sông nước, con thuyền tôi đang
đi. Tôi muốn thu vào trí nhớ tất cả những hình ảnh thân thương đó để mãi mãi,
dù sau này không còn được nhìn lại, trí óc tôi vẫn còn ghi đậm những gì tôi đã
được hưởng lúc thiếu thời.
Chú Vững giục tôi vào khoang vì trời đã tối và lạnh. Bên trong chỉ có
một ngọn đèn chai đốt bằng dầu lạc. Dầu hỏa hay dầu hôi lúc đó đã có nhưng dân
chúng chỉ dùng để đốt những ngọn đèn Hoa Kỳ nhỏ, hoặc nhà khá giả, đèn
măng-sông, mỗi khi có đình đám tiệc tùng.
Đèn chai là thứ đèn hết sức thô sơ. Người ta cắt hai đầu một chai thủy
tinh để làm cái chụp đèn. Bên trong chụp là một cái lọ giống lọ mực, học sinh
khi xưa vẫn phải cầm đi mỗi khi đến trường để chấm ngòi bút lấy mực đặng viết.
Trong lọ là dầu lạc (đậu phụng) với một ngọn bấc nhỏ xíu khi cháy cho ta ánh
sáng của một ngọn nến (đèn cầy). Nến không thắp lâu được vì tốn tiền, phải canh
chừng khi nến sắp hết và sáp nóng chảy lung tung. Đèn dầu lạc ít tốn, có thể
đốt suốt đêm, lại nữa, nếu đèn bị ngã đổ, ngọn lửa tắt liền không gây hỏa hoạn như
đèn dầu hôi hoặc nến.
Trong khoang khá ấm dù chăn, mền hơi ít và chỉ có chiếu nhưng đông
người vẫn ấm. Chỉ còn vừa một chỗ nằm nhỏ xíu cho tôi lách mình vào, nằm
nghiêng mới đủ chứ không thể nằm ngửa. Cá mòi xếp trong hộp Sumaco - Made in
Morocco có lẽ cũng chỉ khít khao đến thế.
Tuy ăn uống, chia sẻ cho nhau thân thiết đậm đà như đã nói nhưng lúc
nằm ngủ, giới phụ nữ không nhân nhượng phe đàn ông một chút nào khi bị lấn
lướt. Thỉnh thoảng lại nghe một tiếng la, giọng chua như dấm của một bà sồn sồn
hoặc cô con gái:
"Cái nhà ông này hay chửa, sao ông cứ gác chân lên đùi tôi vậy? Tê
hết cả cái đùi người ta rồi này."
Mặc dù "xướng" to thế, cả làng cả nước những người còn thức
đều nghe, nhưng không có "họa". Người đàn ông nào đó làm như ngủ say
- say thật hay say vờ - nhưng không bao giờ có tiếng trả lời.
Được một lúc im lặng, chỉ nghe tiếng ngáy phì phò, tiếng thở nhịp nhàng
của những người dễ ngủ. Làm việc đồng áng ban ngày, đêm đến là họ ngủ như chết.
Rồi lại tiếng la:
"Cái anh chết tiệt này, mê sảng gì cứ sờ đầu, sờ cổ người ta lung
tung. Thức dậy đi. Đồ phải gió!"
Lời trách móc, chửi bới rốt cuộc cũng loãng vào khoang thuyền. Chẳng ai
để ý, mà để ý cái vụ đụng chạm làm chi khi khoang thuyền chật như nêm cối.
Thánh sống nằm đó cũng còn bị trách cứ, mè nheo, huống hồ con người. Không lẽ
nằm như bó giò từ chập tối đến sáng không cựa quậy, không nhúc nhích, không gãi
ngứa, co tay đạp chân? Vậy đụng chạm là phải rồi. Chỉ có cái lạ, dù mãi sau này
mười tám, hai mươi tôi mới hiểu ra, lâu lâu lại một cô con gái nhà lành đi buôn
đò dọc hàng chuyến như thế, bỗng nhiên cái bụng cứ to mãi lên, khiến cô phải bỏ
quê đi mất xứ. Vác cái bầu, kết quả của những đêm đi đò dọc nghe mấy anh chân
sào gẩy đàn bầu hoặc hát trống quân, quan họ trong lúc thuyền đi thong dong nhờ
gió và buồm, nhục nhã với bố mẹ, gia đình, làng xóm không chịu nổi. Các cô ra
tỉnh ở đợ, ở vú kiếm ăn nuôi con, sống nhục nhã ê chề thế nào cũng giữ con, ôm
con chứ không phá thai dễ dàng như thời nay.
Sau ba đêm và hai ngày đằng đẵng dưới đò như thế, mọi người đã cảm thấy
cuồng cẳng. Sáng ngày kế tiếp, thuyền chúng tôi vào địa phận Đông Thành. Thuyền
lại đi trong con sông nhỏ vài cây số nữa mới tới chợ, nơi thị tứ đông người ở
và là nơi trú ngụ của ông bà ngoại tôi. Hai anh chân sào ngồi trên thuyền nghỉ,
một anh đứng chống mũi thuyền để thuyền khỏi gạc vào bờ, ba anh kia đeo thừng
vào vai, lội ruộng để kéo thuyền. Khi nào kéo mệt, toán kia xuống đổi.
Tin thuyền ăn Tết của chú Vững tới được loan thật nhanh. Lúc thuyền vừa
cặp bến, tôi đã thấy ông ngoại tôi - dù trên bảy mươi tuổi nhưng vẫn còn khang
kiện - cùng với cậu Bảo, cậu Tường và dì Cúc, dì Hiên, dì Mười có mặt để đón
chúng tôi. Đúng như chú Vững nói, sáng hôm 27 Tết chúng tôi có mặt ở chợ Đông
Thành.
Con cái đã tụ họp đông đủ. Gia đình tôi từ Trà Lũ sang, cậu mợ Lã từ
tỉnh Thái Bình về, ông bà Phán Quế, bạn của ông ngoại tôi lúc cùng đi học, từ
Hà Nội xuống. Bạn bè, con cháu, xóm giềng đầy một nhà tính ra có tới ba, bốn
chục người.
Đầu tiên ông tôi phân công mỗi người hoặc mỗi nhóm một việc. Bố tôi viết
đại tự đẹp thì lo liễn, hoành phi, câu đối, thiếu mua vải về viết thêm, đủ thì
chỉ bảo cho mấy đứa cháu lau chùi bụi bặm, treo lại cho ngay ngắn. Bố tôi cũng
có nhiệm vụ lo bàn thờ gia tiên, đỉnh hương, đèn nến và chỉ bảo người nhà lau
chùi bày biện hương hoa, quả trái cho ra vẻ ngày Tết. Tôi nhớ ông bà ngoại tôi
lúc đó chưa theo đạo Thiên Chúa nhưng cũng không theo đạo Phật. Ông bà chỉ cúng
giỗ gia tiên và làm bổn phận của người con, người cháu những ngày kỵ, ngày Tết.
Tuy vậy ông không cấm con cháu theo tín ngưỡng riêng. Khi mẹ tôi lấy bố tôi, mẹ
tôi theo đạo Thiên Chúa vì gia đình ông nội tôi có đạo Thiên Chúa từ nhiều đời.
Cậu Bảo và thằng con lớn của cậu có nhiệm vụ trồng nêu và trang hoàng,
làm sạch lối đi vào nhà. Thường gần Tết, dân quê có thói quen sửa sang đường
xá, làm cỏ, cắt cỏ những nơi công cộng cho sạch sẽ, vét bùn ao, sông hoặc tát
ao, tát sông bắt tôm cá chia cho mỗi gia đình ăn Tết.
Một đám thanh niên năm, sáu người theo lệnh ông tôi xuống ao bắt cá.
Tôi còn nhớ cái ao lớn và thật sâu, ông tôi làm ống cho thủy triều ở con sông
lớn vào ra hàng ngày nên ao sạch và cá rất mau lớn. Với đám khách khứa đó,
khoảng mười con cá vừa mè, vừa chép trung bình mỗi con sáu, bảy ký là đủ. Bà
ngoại chỉ huy cho nhóm đàn bà đem nướng, hấp hoặc nấu với chuối xanh tùy theo
loại cá để đãi khách.
Dù mới hăm bảy tháng Chạp, nhà ông bà ngoại tôi đã vui như Tết. Cá đánh
dưới ao lên tươi rói, đàn ông uống rượu đậu, ăn gỏi cá mè. Rượu đậu là một thứ
rượu trắng như rượu đế trong Nam, do nhà cất lấy. Nó thơm, ngọt, uống êm ả và
say êm không sóc, không nhức đầu như rượu Văn Điển. Rượu Văn Điển hay rượu Ty
là rượu độc quyền của Pháp chế tạo và bán cho dân chúng. Rượu này không nguyên
chất như rượu đậu mà có pha cồn (alcohol) nên uống sóc và nhức đầu. Cất lén
rượu đậu bị bắt sẽ bị phạt tiền, phạt tù hoặc cả hai. Nhưng dân quê ta ghiền
rượu, không sợ, vẫn cất lén uống.
Còn gỏi cá mè là những miếng phi - lê cá, thấm giấy bản cho thật khô
nước, thái mỏng, trộn với riềng đâm nhỏ và thính. Một thứ sốt sền sệt làm bằng
nước nấu từ đầu cá có thêm thịt heo ba chỉ, dấm, đường, nước mắm, bột gạo, tiêu
ớt và có khi cả bã rượu, chua chua, ngọt ngọt, đậm đậm, cay cay để ăn với cá và
các thứ rau thơm với bánh đa nướng. Dân quê miền Bắc lúc đó khoái gỏi cá cũng
như dân Nhật mê Sushi bây giờ. Cũng là cá sống thôi. Cá sống bổ, không có
cholesterol như thịt, các cụ ta ít bệnh ung thư, cao máu, tiểu đường, bao tử là
vì vậy.
Còn các bà thì ăn cá nướng, ăn bún bung. Cá tươi như thế đem kẹp vào
một cây tre chẻ đôi đem hơ trên than cho đến khi chín vàng. Mùi cá nướng thơm
ngát mũi. Gỡ cá ra, bóc da vứt đi, đem cá nạc chấm với nước mắm chắt (một thứ
nước mắm nhĩ nguyên chất), chao ôi là ngon! Nếu không thích cá nướng thì ăn bún
bung. Cá chép nấu với chuối xanh, thịt ba chỉ, đậu hũ chiên, bột nghệ. Khi ăn
chỉ việc bỏ bún (lúc đó chỉ có bún tươi) vào tô, chan cái chan nước đều lên để
mỗi tô có cá, có thịt, có đậu hũ, chuối xanh, hành hoa... Thế nào cũng phải có
tía tô và rau diếp. Thiếu tía tô không ra bún bung. Tôi vì còn nhỏ quá chưa
biết uống rượu nên không ăn được gỏi cá (các cụ quan niệm gỏi cá hàn (lạnh),
vậy phải uống rượu cho ấm lên, nên cứ thưởng thức bún bung. Cũng ngon chán. Giờ
nhớ lại tôi vẫn còn thèm.
Người nông dân nước ta, dù ở Trung, Nam hay Bắc Việt thường tự cung cấp
cho gia đình mình những nông phẩm cần thiết như lúa gạo, thịt cá, rau trái...
Ông ngoại tôi, cũng giống như phần đông các gia đình nông dân khác, nuôi không
thiếu thứ súc vật gì và trồng cấy không thiếu cây cỏ gì. Trước kia, ông làm
việc ở Hà Nội, công chức nhà Giây Thép (Sở Bưu Điện bây giờ), sau đó ông về hưu
và về hẳn Đông Thành, nơi quê hương bản quán để sống một cuộc đời nông dân mà
ông ao ước.
Ông có một chuồng gà lớn cả hai, ba mươi con. Gà có đực, đẻ trứng là
ông cho ấp liên miên hết lứa này đến lứa khác. Ông cũng dùng gà để ấp trứng vịt
nữa, vì vậy đàn vịt của ông tăng gia phi mã, thỉnh thoảng phải bán bớt lấy tiền
mua thóc, bắp, cám... cho những con còn lại. Ông còn một chuồng bồ câu cả chục
đôi. Chúng bận rộn kiếm ăn, nuôi con và đứng gật gù với nhau ở ngoài sân, trên
mái nhà cả ngày. Chưa hết, chuồng lợn kế bếp của ông cũng có mấy con. Lợn ông
chỉ cho ăn cám nấu với bèo hoặc rau muống, thịt chắc mà thơm, khác hẳn với loại
thịt lợn ăn những thứ tạp nhạp khác.
Năm nào có đông khách và con cháu, ông bảo cậu Tường và cậu Bảo mổ con
lợn hoặc chung một đùi bò với người lối xóm để đãi khách. Thực ra, gà vịt và bồ
câu trong chuồng cũng đủ cho một cái Tết thịnh soạn rồi.
Dân quê ngoài Bắc có thói quen hạ cờ tây, tuy nhiên ông tôi không bao
giờ giết những con chó nhà. Ông nói nuôi nó, nó như tay chân thân tín, mình
không nỡ lòng nào hạ nó ăn thịt. Đôi khi ông và gia đình có thưởng thức món cờ
tây này, nhưng là "đánh đụng" với nhưng nhà khác mà thôi. Đàn chó của
ông vì vậy "khuyển số" tăng lên khá mạnh mẽ.
Tôi còn nhớ một năm, khi gia đình tôi tới, tôi thấy con Vện, con chó
đực lông vàng điểm hung đen, khá to và mạnh, không hiểu sao bị què một chân đi
khập khiễng. Dì Hiên nói nó bị sa xuống cái hố sâu ngoài ruộng cách nhà khoảng
nửa cây số, khi nó đi theo anh Viễn ra ruộng, anh canh điền vẫn đến cày bừa cho
nhà ông tôi, nhưng anh Viễn không biết. Nó nằm cả đêm dưới hố không rút chân
lên được cho đến sáng hôm sau khi ông và cậu Bảo đi kiếm, mới kéo được nó lên
và khiêng về nhà săn sóc. Vì không có thuốc men, chỉ dùng gừng hoặc nghệ giã
ra, đổ rượu vào chưng lên cho nóng rồi bóp vào cẳng nên nó vẫn không khỏi được.
Con Vện mang cái chân què trông thật tội nghiệp và vì kém ăn, nó sút đi trông
thấy.
Mấy người hàng xóm xúi ông ngoại tôi giết thịt, ông không chịu, nói nó
què quặt lại càng phải thương nó hơn. Họ dụ ông giết nó không được, bèn trả giá
mấy hào, nói mua về nuôi săn sóc cho nó nhưng ông ngoại tôi biết, họ chỉ định
mua về giết thịt vì con Vện lông ngắn, thuộc giống chó ta, thịt rất ngon. Ông
lại càng cố giữ con Vện lại.
Tết năm nay có khách trên Hà Nội xuống - ông bà phán Quế. Ông phán Quế
là bạn đồng sự với ông tôi mấy chục năm ở nhà Giây Thép, nên ông tôi ra lệnh
giết một con lợn, chia cho lối xóm một ít, còn giữ lại để giã giò, làm nem và
gói bánh chưng.
Ở thôn quê lúc đó, giết lợn là chuyện đại sự. Bởi lẽ phải khá giả mới
dám ngả lợn, giầu có dư ăn, dư để và nhân dịp hội hè đình đám lớn mới dám vật
bò, mổ trâu. Nhiều địa phương, phải là việc làng, việc tổng mới dám nghĩ đến
chuyện giết bò, giết lợn hoặc giết trâu làm cỗ đãi hàng xã, hàng tổng. Một chi
tộc, một khu xóm, thường người ta chỉ giết gà vịt, bắt cá dưới ao lên hoặc cùng
lắm là hạ một con cầy tơ.
Trời lạnh căm căm, cái lạnh thật dễ chịu cho những chú bé như tôi. Tôi
chưa phải làm việc gì, vì con nhỏ cũng có, vì đóng vai khách cũng có. Áo len
dài tay màu đỏ tươi, cổ chữ V, bên trong là hai ba cái áo cánh cho ấm, quần
cũng mặc hai cái, cái vải trúc bâu, cái vải kaki dầy. Tôi cùng với mấy đứa trẻ
hàng xóm nhà ông ngoại và mấy anh, chị, em, con của bác Đoàn, cậu Bảo, cậu
Tường, dì Cúc, dì Hiên v...v... đứng vừa bàn tán vừa coi giết lợn.
Con lợn vừa, không lớn lắm, chỉ khoảng năm sáu chục kí lô, bị trói cẳng
và treo ngược lên tại gốc cây ổi ở góc sân. Nó kêu eng éc dữ dội làm lũ trẻ
hàng xóm kéo đến mỗi lúc một đông. Cứ thử tưởng tượng ở Mỹ này có một chút gì
xảy ra là người ta bu lại đông đảo để coi vì hiếu kỳ trách chi ở Việt Nam lúc
đó, con nít người lớn không có gì để giải trí, tiêu khiển ngoài những sinh hoạt
thường nhật như ăn, ngủ, làm việc. Một năm mới được một, hai lần hội hè đình
đám. Và Tết thì chỉ có một lần.
Các cụ ta quan niệm máu huyết trong con người và súc vật là tốt và quan
trọng nhất cho mỗi sinh vật. Vì vậy, hạ súc vật, các cụ không bao giờ chịu bỏ
phí huyết. Lợn, chó, gà, vịt, trâu, bò, chim chóc... thảy đều phải qua giai
đoạn cắt tiết và hãm huyết. Con lợn càng kêu lớn, huyết ở cổ nó càng ồng ộc đổ
xuống thau đã có sẵn ít muối. Người cắt tiết con lợn hôm ấy chẳng ai xa lạ, lại
chính là chú Vững, lái đò dọc từ Trà Lũ qua đây.
Dưới mắt tôi lúc đó, chú Vững là người có quá nhiều tài. Chú lái thuyền
giỏi, đưa bà con đi đến nơi về đến chốn. Chú hò hát và đàn bầu cũng giỏi. Chẳng
vậy mà thím Vững bây giờ chính là cô Mùi buôn bán hàng chuyến hồi xưa. Cô Mùi
xuống đò chú Vững, những tưởng buôn bán làm nên sự nghiệp, nào ngờ chỉ sau năm,
mười chuyến cô khám phá ra cái ruột tượng (dây lưng của đàn bà) mẹ cô cho cô,
hình như ai lén cắt bớt một khúc. Nó không còn dài thả xuống mắt cá mà ngắn
ngủn lơ lửng trên đầu gối. Thế là cô Mùi bắt đền chú Vững và lập tức mẹ chú Vững
phải đưa trầu cau sang nhà ông bà Thủ Mầu để hỏi cô Mùi cho chú Vững. Đứa con
gái đầu lòng của chú Vững ra đời chỉ sau đám cưới của bố mẹ nó chừng bốn tháng
làm cả làng nước xôn xao dữ dội hơn bây giờ người ta được tin thủ tướng Do Thái
ký thỏa hiệp hòa bình với lãnh tụ PLO hay Mỹ phóng phi thuyền lên mặt trăng.
Và lúc này đây, với tôi, chú Vững lại có thêm tài nữa: cắt tiết heo.
Tay phải chú thọc sâu con dao bầu sắc như nước vào họng heo làm đứt thêm những
động mạch mới dạm đứt để lấy hết máu xuống thau, tay kia chú cầm đôi đũa dài và
lớn khuấy trong trong thau tiết để huyết khỏi đông.
Bọn con nít la hò ầm ĩ. Đứa năn nỉ chú dành cho cái đuôi, đứa cái bong
bóng... Vòng tròn chung quanh con heo nhỏ lại dần khiến chú Vững không làm việc
được. Chú dọa chơi đám trẻ bằng một tiếng hét to như sấm khiến bọn trẻ sợ quá
dạt cả về phía sau.
Nồi ba mươi nước sôi đã sẵn sàng. Chú Vững và cậu Tường đặt con heo lên
một tấm phản, dội nước sôi từng phần và cạo lông. Con heo trắng nhởn, sạch sẽ.
Chú xả ra làm bốn phần đều nhau để lối xóm "đánh đụng" lấy phần thịt
của mình đem về. Phần của nhà chú pha ra, nào thịt để giã giò, làm nem, nấu
đông, làm mọc, nào thịt làm bánh chưng v...v... Chỉ loáng cái, tôi đã thấy chú
băm nhân tiết canh và đánh ra hàng chục đĩa tiết canh rồi.
Sang ăn Tết bên nhà ông bà ngoại mà tôi đã có nhiều kinh nghiệm, là
phải chuẩn bị cái bụng cho tốt để thưởng thức món ăn. Cả hai ông bà ngoại tôi
đều hiếu khách và đều muốn con cháu tụ họp đông đủ. Năm nay chỉ có tôi và chị
Thảo làm ông bà cứ thắc mắc tại sao bố mẹ tôi không nhờ người coi nhà và cho
hết các anh chị tôi đi.
Đánh cá dưới ao, bắt gà vịt, mổ heo, "đánh đụng" đùi bò và
sửa soạn cỗ bàn đều vui. Nhưng cái tôi thích nhất vẫn là nấu bánh chưng.
Gạo nếp và đậu xanh đã được ngâm sẵn cho mềm. Thịt heo làm nhân chú
Vững đã xắt, ướp muối tiêu hành, thảo quả sẵn sàng, lá giong cắt từ ngoài vườn
rửa ráy sạch sẽ, lau cho khô, lạt buộc bằng tre cũng đã chẻ xong. Từ trưa ba
mươi, bà ngoại, các dì tôi và những người khéo tay bắt đầu ngồi gói bánh chưng.
Mỗi cái bánh vuông vức mỗi bề hơn một gang tay người lớn, dầy khoảng hai phần
ba ngón tay trong để hai lớp gạo nếp và hai lớp đậu xanh bao lấy một lớp thịt
heo đã ướp. Chú Vững chẻ những cái lạt bằng tre, dài vừa đúng một tầm, mỏng và
dẻo, buộc xoắn lại và giấu mối bên trong. Khoảng chập choạng tối thì bánh gói
xong.
Trước kia ông tôi thường gầy nồi bánh chưng ở ngoài sân vì cần chỗ rộng
cho cái thùng lớn gần bằng thùng phuy. Năm nay ông sắp xếp trong bếp để nấu
ngay tại bếp vì ông bảo ngoài sân quá lạnh cho đám con nít như tụi tôi.
Mọi người thay phiên nhau tắm và thay quần áo. Nước lạnh quá thì đặt
những nồi nước lớn đun sôi để pha cho ấm. Khoảng chín giờ tối mọi việc dọn dẹp,
tắm rửa đã xong. Ông ngồi kể chuyện cổ tích cho con cháu nghe với sự phụ họa và
thay phiên của ông phán Quế, một người có tiếng kể chuyện có duyên.
Những thanh củi tạ trong bếp cháy tí tách cho lửa sáng và hơi ấm. Nồi
bánh chưng liên tục sôi sùng sục. Những câu chuyện "Chống trả cướp đêm
30", "Giết trăn cứu người", "Con cọp thọt" v...v... chuyện
nghe rồi, chuyện chưa nghe nhưng được kể vào đêm 30, ngoài trời tối như hũ nút
(ta thường nói: tối như đêm 30), gió bấc lạnh căm căm, trong không khí gia đình
xum họp mà cái đinh là nồi bánh chưng thì dù chuyện nhạt như nước ốc, như nước
lã ao bèo chăng nữa, cũng vẫn được tán thưởng nhiệt liệt như một câu chuyện hay
nhất, ý vị nhất, người kể có duyên nhất.
Nhưng dù có say mê kể chuyện đến đâu, ông ngoại, ông phán Quế và bố tôi
cũng không quên lễ Giao thừa.
Đèn nến trên bàn thờ tổ tiên đã thắp sáng trưng. Một ngọn đèn măng -
sông tỏa sáng cả căn nhà. Bài vị tổ tiên trông đơn giản nhưng uy nghi, trang
trọng. Hoa trái trưng bày thật đẹp mắt và nhả mùi hương thơm ngát. Ông tôi, bố
tôi và cậu Bảo ăn mặc chỉnh tề, áo dài khăn đống để chờ giờ hành lễ.
Đột nhiên chuông chùa, chuông nhà thờ, cồng, mõ đầu xóm nhất loạt khua
vang. Giao thừa. Giờ linh thiêng. Giờ quan trọng. Ai nấy cảm thấy một cái gì
thật trang trọng, tôn nghiêm. Ông bà ngoại tôi đã cắt cử vài người ở bếp canh
nồi bánh chưng, còn bao nhiêu quây quần ở phòng khách, gian chính giữa căn nhà
gỗ năm gian cũng là chỗ đặt bàn thờ Gia Tiên. Ông tôi đứng trước bàn thờ, bà
tôi đứng kế. Ông bà phán Quế đứng cùng hàng nhưng phía bên cạnh chứ không ở
giữa chiếu. Sau ông bà là bố mẹ tôi và các cậu các dì. Rồi đến các cháu các
chắt. Tôi đứng với bé Vân, con cô Mười, mới sáu tuổi. Từ hôm tôi tới nhà ngoại,
Vân cứ đeo dính lấy tôi.
Ông bà tôi trang trọng dâng hương lên trước trán bằng cả hai tay, đầu
cúi xuống rất là thành kính. Mọi người giữ im lặng hoàn toàn. Không một tiếng
hắng giọng, một tiếng ho. Tôi nghe ông dõng dạc từng tiếng một nói lớn:
"Giờ phút này là giờ phút thiêng liêng của Năm Mới. Tụ họp đông đủ
tại đây là các con, các cháu, các chắt, chút, chít v...v... của các cụ, các cố,
tam, tứ, ngũ đại và lên trên nữa để nhớ công ơn sinh thành, dưỡng dục và gây
dựng cho chúng con có ngày nay. Xin hương hồn các cụ, các cố về chứng giám lòng
thành kính của con cháu và hưởng lộc con cháu dâng lên".
Nói xong, ông vái ba vái và cắm ba nén hương vào bát nhang rồi tiến lại
đứng ở bàn phía phải kế bàn thờ nhìn xuống đám con cháu. Bà tôi cũng lên cắm
hương và đến đứng cạnh ông. Vì là chỗ thân tình và còn họ xa, ông bà phán Quế
cũng dâng hương. Sau đó cậu mợ Bảo, con trai trưởng ông tôi, rồi đến bố mẹ tôi
và các cậu, các dì đều làm lễ như vậy. Các cháu, các chắt nhỏ quá không phải
dâng hương mà chỉ đôi một tiến lên đứng vái và quay ra. Bé Vân súng sính trong
chiếc áo gấm mầu vàng, còn tôi gấm xanh, bé bắt chước tôi chắp hai tay lại cúi
đầu xuống vái. Tôi nghĩ nếu các cụ, các cố... có sống lại được, dù già lão đầu
bạc răng long nhưng nhìn được đàn con, đàn cháu của mình như thế cũng mát dạ.
Ở thôn quê người ta ít đốt pháo. Bánh pháo trị giá mấy thúng lúa chỉ
nghe đẹt đùng vài chục giây. Vì vậy tư gia ít đốt mà chỉ có làng, tổng với quỹ
chung mới có pháo đốt lúc Giao Thừa. Ông ngoại tôi không mua pháo, cũng không
thích đốt nhưng ông bà phán Quế thường mua từ Hà Nội xuống vài bánh pháo
"Đại Quang" làm quà cho ông bà tôi, nói đốt cho vui nhà vui cửa và
được may cả năm. Vì vậy lúc bọn trẻ con chúng tôi vái lạy tổ tiên, chúng tôi
chỉ làm qua loa chiếu lệ. Đầu óc chúng tôi còn để ở cái bánh pháo cột ngang đầu
người ở thân cây cau ngay trước gian giữa. Khi người cuối cùng lễ xong là đúng
lúc cậu Bảo khai hỏa bánh pháo. Cậu lấy thanh nứa mỏng lấy lửa từ cây nến trên
bàn thờ châm vào ngòi pháo. Pháo nổ điếc tai làm có đứa sợ phải bịt tai lại. Sợ
đó nhưng bánh pháo nổ chưa hết đã có vài đứa xông vào nhặt những cái pháo tịt
ngòi để đốt lại mong nó nổ cho vui. Mùi thuốc pháo tản mạn trong không khí mà
đám trẻ chúng tôi cho là cái mùi dễ thương, nó có khả năng đánh thức những đứa
đang buồn ngủ díu cả mắt phải tỉnh như sáo sậu. Ánh đèn măng - sông mà lúc đó
tôi cho là sáng nhất, sang trọng nhất vì thôn quê chưa có điện, rọi những tia sáng
khoảng 500watts lên hai cành đào cắm vào đôi song bình lớn, đặt hai bên bàn
thờ, làm tôi ngó những cánh hoa và nụ đào mơn mởn không chán mắt. Hai cành đào
này được chặt từ cây đào ngoài vườn, hoa to và nở đúng dịp Tết nên ông tôi cưng
lắm. Cây khá già, cũng phải vài chục tuổi nhưng vì ông tưới nước và bón phân
đều nên cành lá và hoa nụ của nó trông như đào đương tơ.
Hồi xưa ở Bắc Việt không có mai vàng, chỉ có đào và mai trắng. Mai
trắng không đẹp vì hoa quá nhỏ và xúm xít từng chùm nhưng mai trắng cho những
trái mơ về mùa hè chua chua, giốt giốt, ngọt, ngọt, nhìn chảy nước miếng. Một
nhạc sĩ tiền chiến đã đặt nhạc vào thơ trong bài "Cô hái mơ" trong có
câu "Thấp thoáng rừng mơ cô hái mơ" chính là loại mơ này.
Ông tôi không cho để cúc nhiều trên bàn thờ vì chậu trồng cúc thường
hơi lớn, để ở dưới sàn nhà coi đẹp nhưng thượng lên bàn thờ coi hơi thô. Ông
lựa hai chậu nhỏ, trồng loại cúc hoa nhỏ màu vàng tươi, đặt hai bên bàn thờ,
phía trong bình cắm đào. Miền quê lúc đó không có glaieul (lay - ơn) nhưng khi
từ Hà Nội xuống, ông bà phán Quế đã chu đáo mua biếu ông bà tôi hai chục bông
lay - ơn màu nhung thẫm, vừa dịp nở loáng thoáng trong lúc Giao Thừa làm bàn
thờ càng thêm trang trọng. Mấy năm trước ông phán Quế có mang cả Thủy Tiên
xuống nhưng vì gọt trễ, không bao giờ nở đúng Giao Thừa nên ông tôi dặn ông
phán Quế không mua nữa.
Mùi trầm từ cái đỉnh hương bằng đồng đã được đánh sáng trưng đến soi
gương được, tỏa mùi hương dễ chịu và ấm cúng. Những trái phật thủ, cam sành,
quýt đường, bưởi... được đặt trong các đĩa lớn cùng với những thức ngọt như
bánh trôi, chè lam, thức mặn như con gà trống lớn mới biết gáy luộc nguyên con,
xôi gấc v...v... và cả chén đũa như thật sự đãi khách. Với trí óc non nớt của
tôi lúc đó, tổ tiên không thể ăn uống hưởng lộc được nữa, nhưng tấm lòng thành
đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ... của ông bà ngoại tôi thật đáng quý, đáng làm
gương cho các con cháu để giữ lấy tập tục cao đẹp là phải đặt chữ Hiếu Kính lên
trên tất cả trong đạo làm người. Con người chỉ hơn con vật ở chỗ biết người
trên kẻ dưới, biết giữ tam cương ngũ thường, biết nguồn biết cội.
Để không quá trễ sau lễ Giao Thừa, ông tôi, ông phán Quế và bố tôi ra
sân nhìn trời và ngắm cảnh vật, nghe ngóng những âm thanh lúc đó để đoán ra
điềm tốt xấu trong năm mới. Bố tôi giải thích nhiều nhưng lúc đó tôi chỉ hiểu
đại khái nếu trời quang, mây tạnh, đêm tuy tối mịt tối mùng, nhưng là cái tối
êm đềm thì có thể đoán được năm đó được mùa, thời tiết tốt, đất nước yên vui.
Trái lại trời đất u ám, quạ kêu cú hú, lại pha lẫn tiếng khóc nỉ non từ đâu đưa
tới, như những oan hồn uổng tử quanh quất hiện về thì tiên đoán có thể hạn hán
hoặc lụt lội hoặc bệnh dịch tràn lan trong dân gian, mất mùa đói kém làm dân
chúng khổ sở, lo âu phiền não. Năm nào lúc Giao Thừa có tiếng bò kêu, ngựa hí
hoặc heo ủn ỉn trửng giỡn trong chuồng là y như ông tôi nói năm mới sẽ khỏe
mạnh, bình an, công việc làm ăn phát đạt.
Khi ông tôi trở lại phòng khách, đó là lúc hai ông bà ngồi ở trường kỷ
để con cháu lần lượt chúc tuổi. Bố tôi thay mặt toàn thể gia đình mừng tuổi ông
bà ngoại và ông bà phán Quế. Ly rượu đầu năm do bố tôi rót được tôi, bé Vân và
hai đứa bé khác dâng lên ông bà ngoại và ông bà phán Quế. Sau đó người lớn mừng
tuổi lẫn nhau, và lì xì cho đám con nít. Tôi được cả chục cái phong bao đỏ,
trong đựng những đồng xu, đồng trinh, lúc đó có thể đi mua pháo đốt chơi rôm rả
ba ngày Tết. Lúc mọi người lên giường thì cũng đã hơn hai giờ sáng. Ba
ngày Tết được nghỉ ngơi, nên dậy trễ được, mặc dù dân quê có thói quen thức dậy
từ bốn giờ sáng.
Tôi ngủ thẳng cẳng tới mười giờ ngày mồng một Tết mới mở mắt ra được
trong khi vẫn còn thèm ngủ. Bánh pháo tép của một người khách đến mừng ông làm
tôi thức dậy. Tôi chạy xuống nhà bếp. Bánh chưng được xếp thành hàng ngay ngắn
trên mấy cái cánh cửa lớn để nén cho chắc bằng cối đá. Bữa trưa của cả nhà ngày
hôm đó không gì khác hơn là bánh chưng xanh mướt, hành nén trắng phau và giò
thủ, giò bì vui mắt. Tết nhất chỉ thấy ăn là ăn. Nguyên cái vụ nấu nướng để
phục vụ thần khẩu đã tốn gần hết ngày giờ. Vì vậy dân quê hay nói:
"Làm như ngày dưng ăn sao cho hết,
Ăn như ngày Tết lấy gì mà ăn."
Trưa và cả chiều mồng một, thỉnh thoảng vẫn một bánh pháo đẹt đùng làm
tôi có cảm tưởng, rõ ràng ngày Tết có cái gì vui quá, háo hức quá. Cảnh vật từ
trong nhà đến ngoài vườn, ngoài ruộng, con người, từ người trong gia đình đến
những người chỉ gặp ngoài đường trông cũng trịnh trọng khăn đống áo dài cho đàn
ông con trai, áo mớ ba mớ bảy quần lụa váy là cho đàn bà, ai trông cũng mới mẻ,
tươi vui hẳn lên.
Trời thường không mưa nhưng cũng không có ánh nắng, mây xám thấp thấp
của mùa Xuân mới đang gọi những ngọn gió đông phe phẩy luồn cái lạnh vào tận da
thịt. Ngoài đình làng, nhiều chiếu bạc được trải ra: tổ tôm, xóc đĩa, bất cho
đàn ông và tam cúc, đố mười cho đàn bà. Làng không cho đánh lớn vì sợ sát phạt
mất nhà mất cửa, mất cả lúa giống làm mùa nhưng nếu đánh nhỏ, gọi là mua vui
thì chẳng sao. Có một số người chuyên chứa bài, họ tổ chức cờ bạc ngay tại nhà
và lấy xâu lấy hồ, có khi kéo dài hết tháng hai:
"Tháng Giêng là tháng ăn chơi.
Tháng Hai cờ bạc, tháng Ba hội hè..."
Mười ngày tết nơi quê ngoại qua mau vùn vụt. Tôi buồn khi thấy chú Vững đã bỏ chiếc áo the thâm và
cái khăn lượt chú mặc ba ngày Tết ra để đóng trở lại bộ quần áo nâu nhuộm kỹ
dầy mo và quấn cái khăn rằn đen để hai đầu khăn rủ xuống một bên tai, lại đứng
chỉ huy cho sáu anh chân sào sửa soạn chèo, buồm, dây... kéo thuyền trở về Trà
Lũ.
Lúc bố mẹ tôi, chị Thảo và tôi xuống thuyền, ông bà ngoại và các cậu,
các dì, các cháu lại ra bến sông đưa tiễn. Sáng 27 Tết, lúc chúng tôi đến vui
bao nhiêu thì giờ này tạm biệt, buồn bấy nhiêu, dù chỉ là sẽ xa nhau ít lâu rồi
lại gặp lại. Bé Vân khóc, nó cứ đòi bố mẹ nó cho đi theo "anh Vũ"
sang nhà bác Trà Lũ, tức bố mẹ tôi. Tôi thấy nó khóc cũng xao xuyến cả lòng.
Thuyền căng buồm chạy chầm chậm trong sông. Từ những ruộng lúa hai bên bờ, tôi
thấy lác đác đã có người đang đổ ải, vài cô gái quê tươi vui vừa tát nước ruộng
vừa hát hò đối đáp với mấy anh chân sào buông lời chọc ghẹo. Thuyền lúc về khá
rộng, chứ không xếp cá hộp như lúc đi, vì có một số người ở lại chơi với gia
đình thêm ít ngày nữa. Chuyến sau khoảng đầu tháng Hai, chú Vững lại sang đưa
họ về.
Việc đầu tiên khi về tới nhà là tôi phải đi tìm ngay cái cặp, sách vở
và lọ mực. Ngay ngày mai thứ hai, cả hai buổi sáng chiều, tôi phải đi học rồi.
Nhìn mấy cuốn sách cuốn vở, tôi ngán ngẩm nghĩ đến thầy Nhường, ông thầy đang
dạy lớp tôi, một ông thầy có tiếng giỏi nhưng nghiêm nghị và khó tính. Tôi lại
nghĩ đến cái tết vừa được hưởng ở quê ngoại. Ôi sao nó vui và ấm cúng đến thế,
tôi được cưng chiều thỏa mãn đến thế! Tôi ngẩn người nhớ lại những giờ tôi đứng
trên thuyền ngắm cảnh hai bên dòng sông, những đêm rúc rích trong cái khoang
chật chội tối om toàn người là người nhưng ấm áp, những phong bao vàng đỏ mừng
tuổi, những cái pháo đại đẹt đùng, những buổi tung tăng chạy nhảy leo cây thả
giàn ở vườn, ở ruộng nhà ngoại, những buổi đàn đúm chuyện trò đánh khăng, đá
bóng, thảy đáo lỗ v...v... với đám em họ và bạn bè chúng ở Đông Thành.
Cuộc vui nào cũng có lúc tàn, tôi đã nghiệm ra cái chân lý ngàn đời này
ở vào tuổi đó, nhưng tôi chưa đủ sức tự trấn an tìm quên trong nhiệm vụ thường
nhật sau những cuộc vui. Tôi cứ ngồi mà nhớ tiếc, ngẩn ngơ. Thảo nào bé Vân con
dì Mười khóc thét lên hơn cha chết, khi tôi nhìn nó lần cuối rồi lẳng lặng
xuống thuyền.
Chị Thảo thấy tôi ngồi tần ngần trước một đống sách vở, chị biết tôi
đang ngại ngùng nghĩ đến ngày mai phải đi học:
"Vũ à, ăn tết xong hoặc bất cứ lễ lạc, cuộc vui nào xong, ai ai
cũng ngại bắt tay trở lại học hành, làm việc. Nhưng nếu em cố gắng cho qua được
ngày mai hay chỉ buổi sáng mai thôi, em sẽ hăng hái trở lại như lúc trước Tết.
Bỏ sách vở ra dò lại đi, có gì không hiểu hỏi chị."
Tôi nghĩ chị Thảo nói đúng. Tôi chỉ cần làm quen lại được cái không khí
học tập ở trường được vài giờ đầu. Trưa mười hai giờ về nhà ăn cơm và nghỉ một
lát, buổi học ban chiều từ hai tới năm giờ chắc là tôi lấy lại đà. Giỏi lên?
Tôi không dám chắc một tí nào, nhưng đỡ ngán ngẩm bài vở thầy cho thì may ra.
Tôi giở thời khóa biểu để coi phải chuẩn bị gì trước. Hai tuần lễ ăn Tết, chữ
nghĩa tôi rụng đi quá nửa, đừng nói là học thêm được điều gì. Tôi trực diện
những bài toán hóc búa, chính tả, văn phạm, bài học thuộc lòng mà thầy Nhường
dặn dò kỹ càng bữa 23 tết, tự nhiên thấy người như lên cơn nóng lạnh.
Nhưng giữa lúc đó, một động lực mạnh mẽ vô song thôi thúc tôi đến
trường. Cả hai tuần ăn Tết, tôi có gặp Thoa đâu? Phải rồi, mải vui ở quê ngoại
tôi quên bẵng Thoa đi, quên bẵng cô bé dễ thương cùng lớp với tôi và là con gái
cưng đầu lòng của thầy Nhường. Vì vậy tôi hăng hái bỏ toán ra làm, đọc vang nhà
những bài học thuộc lòng, vì cứ nghĩ được gặp lại Thoa, tôi cảm thấy chan chứa
trong lòng một niềm vui vô tả.
Tôi thề độc với quý bạn rằng, lúc đó tôi chỉ coi Thoa như cô em gái
xinh xinh dễ mến, nhẹ nhàng, nhỏ nhẻ như con chim vành khuyên tôi vẫn tưng tiu
trong lồng để ngắm, để cho chuối, cho hoa, cho nước chứ tuyệt nhiên không có
một tình ý gì vẩn đục trong đầu. Tôi không đủ trí khôn để phân tích, nhưng rõ
ràng là muốn có bạn đá banh, đánh khăng, bơi lội, đánh vật... nói tóm lại những
môn thể thao nặng, tôi cần mấy thằng con trai như thằng Phùng, thằng Cửu, thằng
Lạ, thằng Truyện... nhưng để ngắm và để nhỏ nhẻ nói truyện - thật sự chỉ có thế
thôi - thì tôi cần đến một đứa con gái cùng trang lứa, mười hoặc mười một, mười
hai gì đó, học cùng lớp là tốt nhất và hơi đẹp một tí. Cô bé Thoa con thầy
Nhường, ngồi ngay trước mặt tôi, hội đủ tất cả những điều kiện trên. Tôi không
bao giờ có ý nghĩ cầm tay Thoa để làm gì và cũng chưa bị mấy đứa tinh ma trong
lớp gán cho tôi làm chồng và Thoa làm vợ như nhiều đứa đã bị, nhưng không hiểu
sao, tôi thích ngắm Thoa và nói chuyện với Thoa, dù vài câu ngắn ngủi, dù chỉ
ngồi nhìn Thoa không thôi, tôi cũng thấy đầy đủ lắm rồi. Tôi chưa hề biết danh
từ yêu mà cũng chẳng bao giờ tìm hiểu tại sao hai vợ chồng người ta ăn ở với
nhau lại có con. Tôi nhớ một lần hỏi mẹ, tôi chui ra lối nào từ trong bụng mẹ.
Mẹ bảo khi tôi lớn lên khắc biết, nhưng tôi cứ nằng nặc đòi biết ngay làm bà
phải vạch bụng ra chỉ ngay vào phần rốn: "Ở chỗ này này."
Mới tuần lễ trước khi nghỉ Tết, tôi bị thầy Nhường khẻ tay một cách rất
oan ức. Chung qui cũng tại thằng Vụ, nó làm tôi bị đòn. Ngày mai đến lớp, tôi
lại gặp nó. Có thể tôi không thù nó vì trận khẻ tay oan, nhưng vì lý do khác
sâu xa hơn có liên quan đến Thoa.
Đi học từ lớp Đồng Ấu (lớp 1 bây giờ) tôi chưa từng bị thầy giáo đánh
vào mông hoặc khẻ tay như những đứa học sinh khác vì tuy học không siêng năng
lắm nhưng tôi đủ sức đoán được thầy hay hỏi những gì mà đối phó. Tôi học theo
lối "ăn xổi" rất nhanh. Mảng chơi ngày thứ bảy, chủ nhật và có khi cả
ngày thứ năm (dạo đó học trò học hai buổi mỗi ngày sáng và chiều, mỗi buổi ba
tiếng hay ba tiếng rưỡi nhưng được nghỉ thứ năm, thứ bảy và chủ nhật), tôi với
mấy đứa bạn đi câu, đi bơi, thả diều, bắt chim, hái cam, hái ổi... có hôm chập
choạng tối mới về đến nhà. Tắm rửa ăn cơm xong mắt díu lại, làm sao ngồi bàn
học bài được nữa. Ngày hôm sau giờ ra chơi, bạn bè ra sân thì tôi kiếm một góc
kín ngồi gạo thật nhanh bài vở để kịp lát nữa trả bài hoặc nộp bài. Có cái lạ,
mấy thầy giáo chẳng bao giờ cho tôi tệ, cứ trung bình trở lên và vì vậy cuối
năm, tôi vẫn đủ điểm, dư điểm lên lớp.
Thoa ngồi ngay trước mặt tôi, ở bàn đầu, cùng với Nhàn, Dung và Trúc.
Thoa đẹp nhất trong bốn đứa con gái. Thoa có khuôn mặt thật xinh. Đôi mắt to
đen rất dễ thương lại có một nốt ruồi duyên bên khóe miệng, ngay bên trên môi
một chút, nốt ruồi mà nhiều nữ tài tử và ca sĩ phải lấy bút chì đen tự chấm
thêm, nốt ruồi tương tự nốt ruồi của Liz Taylor bây giờ. Tôi mê cái nốt ruồi
của Thoa, tôi thích đôi mắt trong sáng thơ ngây mà đến bây giờ mấy chục năm,
hai bảo vật ấy của Thoa vẫn còn hiện rõ ràng trong cái trí nhớ kém cỏi của tôi
mỗi khi tôi nhớ về Thoa.
Nhưng Thoa không phải của riêng tôi. Có một thằng tàn độc khác xen vào
giữa chúng tôi. Nó cao to hơn tôi nhiều và có lẽ hơn tôi đến bốn, năm tuổi. Nó
chính là thằng Vụ đã nói ở trên. Vụ học trễ đến bốn, năm năm vì khi xưa, lúc
nhà nó chưa khá giả, bố nó chưa ra Lý trưởng như bây giờ, nó phải đi chăn trâu,
chăn bò. Học hành kém, nhưng nó rất quỷ quái tinh ma và hay bắt nạt những đứa
nhỏ con, yếu sức hơn nó. Tôi là một trong những nạn nhân của nó nhưng dù ghét
nó hết sức, tôi vẫn phải ngọt nhạt "nhịn mày, tốt tao." Không có đứa
nào dại dột đến độ chọc nó để nó giáng những cú đấm thôi sơn vào mạng mỡ đau
đến cả tuần không đi học được. Đừng có nói đến chuyện thưa gửi với nó,
"con kiến mà kiện củ khoai," bố nó đương kim Lý trưởng, thưa đến bố
nó cũng là hết. Có lẽ thầy Nhường cũng ở trong trường hợp tương tự. Dù nó học
dốt nhưng thầy vẫn cho nó làm trưởng lớp. Mỗi khi đến lớp và nhất là giờ ra
chơi, tôi thấy nó chỉ tìm cách gặp Thoa. Mặc nhiên, tôi có một địch thủ lợi
hại.
Thằng Vụ ngồi ngay đằng sau tôi, còn tôi đằng sau Thoa, đều là đầu bàn
kế lối đi giữa lớp.
Hôm đó đang giờ Récitation - Bài học thuộc lòng. Tôi giở cuốn sách ra
nhẩm lại mấy bài để lỡ thầy Nhường gọi lên đọc bài thì đọc cho trơn tru.
Thầy Nhường có thói quen bắt học trò khi đọc bài học thuộc lòng phải
lên đứng cạnh cái bảng đen, nhìn xuống bên dưới mà đọc. Thầy xướng tên bài nào
phải đọc bài đó. Đọc suông sẻ và trả lời được vài câu thầy hỏi về ý nghĩa trong
câu thì thầy ghi điểm rồi cho về. Thoát nạn. Nếu ú ớ hoặc tắc tị, phải đọc bài
khác, đọc mệt nghỉ, thành ra đứa nào cũng sợ cái kiểu trả bài của thầy Nhường.
Đã vậy, học thầy phải nói tiếng Pháp, không phải giờ Lecture récréative - bài
đọc chơi bằng tiếng Việt - mà nói tiếng Việt là tới số. Thế nào cũng ăn thước
kẻ hoặc roi mây. Không vào mông cũng vào tay, đến nỗi tôi còn nhớ hai, ba thằng
trong lớp, thằng Vẹn, thằng Củng bị đánh quá phải mặc hai, ba cái quần thật dầy
bên trong. Chúng còn lấy thêm vải, đụp lên cái mông quần cho dầy hơn nữa. Thầy
Nhường không biết, cứ lấy roi mây đánh thẳng cánh nhưng chúng tôi biết chúng
không đau một ly ông cụ nào vì tiếng roi nghe bộp bộp chứ không chắc tiếng như
đánh vào thịt. Mấy thằng này làm bộ nhăn mặt, nẩy người lên khi roi chạm mông
làm như đau đớn lắm cho thầy khoái. Nhưng lúc thầy cho về chỗ, đứa nào cũng
tỉnh bơ nham nhở một nụ cười thật đểu với cả lớp. Lẽ dĩ nhiên thầy Nhường không
nhìn thấy những nụ cười "tiểu nhân đắc chí" đó nhưng không đứa nào
dại dột đi tố giác âm mưu đen tối ấy với thầy. Lỡ mai mốt chính mình phải xài
đến quần mông đụp cho bớt đau thì sao?
Đọc bài học thuộc lòng quay xuống, nếu khốn khổ cho mấy đứa chết nhát
và mấy đứa con gái cả thẹn thì lại rất được việc cho đám nghịch ngợm tụi tôi.
Bí chữ đầu ư? Cứ nhìn cái miệng mấy thằng bạn thân là ra ngay. Đôi khi thầy
Nhường vừa phải cộng sổ hoặc làm việc gì riêng tư của thầy tôi không rõ, thầy
đâu để ý thằng đang đọc thuộc hay không. Có thằng bị bí bèn nhìn cái miệng nhấp
nháy của bạn không đoán ra được chữ mù gì vì học ở nhà ít quá, có thuộc đâu,
bèn liếc lên thầy, thấy thầy đang mải mê viết lách gì đó, nó bèn bảo thằng bạn
bên dưới: "Nói to tí nữa mày. Tao nghe không được."
Trở lại cái vụ trả bài bữa đó. Tôi đang lui cui dò bài thì thằng Vụ lấy
thước kẻ chọc vào lưng tôi một cái. Thằng con nhà mất dạy này rắc rối cái gì
đây, tôi nghĩ thầm và quay lại: "Gì mày?" Thằng Vụ trao mảnh giấy học
trò gấp tư cho tôi: "Ê, đưa cho Thoa giùm tao". Tôi tính giơ tay cầm
tờ giấy giùm cho nó nhưng nghĩ bụng làm cái gì cho mày thì được chứ lại làm con
chim xanh giùm mày để mày có Thoa thì không. Nghĩ vậy, nhưng tôi ngại xẵng với
nó vì không muốn rắc rối với cái thứ đầu bò đầu bướu. "Thôi đi mày, tao sợ
thầy trong thấy". Thằng Vụ lì lợm, nó cứ chìa tay ra với tờ giấy. Tôi đành
phải cầm lấy, trong bụng nghĩ giận cái thằng ôn dịch quái gở này. Tôi có thói
quen hễ nhận lời làm cho ai cái gì thì sống chết cũng phải làm, dù rằng trong
bụng không muốn một tí nào.
Thằng Vụ thấy tôi chưa gọi Thoa và trao lá thư, nó lại nheo nhéo ở đàng
sau, dù nó hạ giọng xuống rất thầm thì. Nó còn lấy chân thúc lên mông tôi để
giục giã nữa.
Tôi trầm giọng xuống, gọi đàng sau lưng Thoa để chỉ Thoa nghe được tôi
thôi: "Thoa, Thoa, quay lại tôi trao cái này." Không đụng đậy gì ráo,
làm như Thoa không nghe thấy. Tôi gọi lần thứ hai: "Thoa, Thoa quay xuống
đây tôi hỏi một tí." Thoa cũng không quay lại, nhưng cái mặt cô bé hơi hơi
nhìn ngang sang con Nhàn để tôi thấy đôi mày của Thoa cau lại có vẻ phản đối vì
bị quấy rầy đang lúc tập trung trả bài. Đàng sau tôi, thằng Vụ lại thúc bàn
chân lên mông tôi một cái ịch thứ hai, tôi tức quá buột miệng như một phản xạ
tự nhiên, giọng nói to hơn hai lần đầu: "Thoa, đã bảo quay lại đây
mà!"
Lần này, Thoa quay lại thiệt nhưng vừa lúc đó, thầy Nhường cũng nghe
tiếng của tôi và thầy quay xuống. Thầy nghĩ chắc tôi trêu ghẹo cô gái cưng của
thầy hoặc nếu không phải vậy thì tôi không thuộc bài, gọi Thoa đễ hỏi nghĩa vài
chữ khó chăng. Đôi lông mày rậm của thầy giao nhau, mắt thầy quắc lên, hình như
thầy đang có sự buồn phiền gì đó ở nhà với vợ thầy thì phải như thái độ cáu
kỉnh, khó chịu của thầy mấy hôm nay mà bọn học trò chúng tôi đoán già, đoán
non. Thầy hét như sấm bằng tiếng Pháp, vừa cầm thước kẻ trong tay, chỉ vào mặt
tôi, y như tôi là một kẻ tội đồ ăn cướp, giết người:
"Lên đây! Mau!"
Tôi vứt vội lá thư của thằng Vụ vào hộc bàn, run rẩy lên bục đứng cạnh
thầy, tim tôi đập thùi thụi như muốn rớt ra ngoài. Tôi có bị cái nhục nhã như
thế này bao giờ đâu. Chỉ tại thằng Vụ. Chỉ tại cái thằng mặt dày khốn kiếp ăn
mày ăn xin đó. Nhưng tôi nghĩ bụng, nếu nói ra lý do thì cả lớp còn cười tôi
hơn, nhất là Thoa. Cái mặt tôi thế này mà đi hầu hạ đưa thư cho gái giùm cho
thằng Vụ, một thằng ít được bạn bè nể nang vì chuyên môn lấy thịt đè người và
học dở. Thôi đành câm miệng hến chịu đòn cho xong, may ra Thoa lại nghĩ tôi có
nhiều cảm tình với Thoa mà để ý đến tôi chăng. Nhất là để trắc nghiệm xem Thoa
có đau xót khi tôi bị thầy Nhường đánh không. Nếu có, tôi chẳng cần phải hỏi
cũng biết Thoa để ý đến tôi và tôi sẽ sung sướng như một kẻ sung sướng nhất
trên đời. Nếu không, tôi phải tìm cách khác hoặc quên Thoa đi. Vì vậy, đã không
muốn tránh đòn, tôi lại muốn thầy Nhường đánh tôi thật đau, thật bò lê bò càng
như mấy thằng Vẹn, thằng Củng để Thoa thương hại.
Cứ nghĩ Thoa về thương tôi đến ăn không ngon, ngủ không yên mà tôi càng
muốn chịu đòn y như các vị tử đạo bên Công giáo khi xưa.
"Giơ tay trái ra đây."
Cũng cần phải nói tay phải, tay trái bị khẻ là tùy thầy, khẻ nặng khẻ
nhẹ cũng tùy thầy. Có đứa bị tay phải và thầy xuống tay nặng quá, tay nó sưng
lên cả mấy ngày không cầm viết được. Mẹ nó phải lấy rượu chưng với nghệ bóp cho
cả tuần mới khỏi. Tay trái là có vẻ nhân nhượng hơn, bớt ghét hơn, vì còn nương
cho tay phải để viết. Vì đã có định kiến "tử vì đạo" để cho Thoa
thương xót, tôi giơ thẳng bàn tay trái ra một cách hiên ngang, một cách anh
hùng như chưa từng thấy tên học trò nào của lớp thầy Nhường làm vậy. Đa số chỉ
chìa một cách rụt rè, miễn cưỡng và để sát trước bụng để thầy không có thế mà
đánh đau vì vướng ngực, vướng bụng. Đằng này tôi giơ thẳng tay, vừa tầm thước
kẻ cho thầy đánh. Tôi khẽ liếc nhìn Thoa một cái xem mặt Thoa có phản ứng gì
không. Nếu lúc đó giả sử Thoa bưng lấy mặt và khóc thì tôi chắc chắn một trăm
phần trăm rằng, tôi có chết đứng như Từ Hải ngay sau khi bị thầy đánh cũng vẫn
mãn nguyện. Linh hồn tôi sẽ biến thành con chim vành khuyên bay theo Thoa mãi
mãi. Nhưng Thoa chỉ mở lớn đôi mắt đẹp nhìn tôi, tôi không đoán được trong cái
đầu có mái tóc dài xõa xuống vai mà tôi rất thương đó, đang nghĩ gì về trận
đánh đòn này.
Ở đời thật có nhiều điều ngoài sự ước đoán của ta. Thầy Nhường với thái
độ giận dữ, cáu kỉnh trời long đất lở vậy nhưng lại chỉ khẻ rất nhẹ trên tay
tôi. Tôi chỉ cảm thấy hơi tê tê ở bàn tay. Sau ba thước kẻ thường lệ, có nhiều
đứa không xòe tay ra nữa mà lùi lũi về chỗ khi thầy chưa nói hết câu cho lệnh
về. Còn tôi, sau ba thước kẻ, tôi vẫn xòe tiếp tục, đến nỗi thầy lấy làm lạ,
giọng hơi gắt: "Về chỗ."
Đó là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng bị khẻ tay trong đời học
sinh tiểu học trường làng của tôi.
"Ăn Tết Quê Ngoại" xin hẹn quí bạn đọc lại nối tiếp vào dịp
đón Xuân năm tới.
Trước thềm Năm Mới Quí Tị, tôi chân thành cầu chúc quí bạn đọc một năm mạnh khoẻ vui tươi, đạt nhiều thắng lợi.
Trước thềm Năm Mới Quí Tị, tôi chân thành cầu chúc quí bạn đọc một năm mạnh khoẻ vui tươi, đạt nhiều thắng lợi.
o Bút Xuân TRẦN ÐÌNH NGỌC
Trích từ Tuyển Tập Truyện
Ngắn “Những Con Dốc Đứng” cùng tác giả xb 1999.
(Phụ chú: Cô Ngô thị Kim Th., sau này ở Hà Nội, là
phu nhân của Thi sĩ (đối kháng) Phùng Cung.)
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire