Đọc lại bài trước
http://catbuicarolineth.blogspot.fr/2014/01/vuong-hong-sen-sai-gon-nam-xua-tua-kinh.htmlSài Gòn năm xưa - Phần hai
Vương hồng Sển
THỬ TÌM HIỂU BỞI ĐÂU MÀ CÓ DANH TỪ SÀI GÒN
Cuộc mở mang bờ cõi giải quyết xong, nay bắt qua tìm hiểu về lai lịch đất Sài Gòn.
Về danh từ “SÀI GÒN”
Đại Nam Quốc Âm Tự vịcủa Huỳnh Tịnh Của viết:
__:Sài tức là củi thổi.
__:Gòn tên loại cây có bông nhẹ xốp, nhẹ hơn bông thường, trong Nam hay dùng để dồn gối, dồn nệm, ngoài Bắc gọi làcây bông gạo (kapok, kapokier).
Điều nên nhớ là thuở cựu trào, mỗi lần chạy sớ tấu ra kinh, mỗi moxi lấy Hán tự làm gốc. Các quan trong Nam
thuở ấy, để gọi thành“Sài Gòn” đều viết hai chữ nôm như vầy _________.
Viết làm vậy, nhưng đến khi đọc thì luôn luôn đọc là“Sài Gòn”. Về sau,
có nhiều người, đọc“Sài Côn”, tưởng rằng đúng. Ngờ đâu, đọc như thế là
phản ý người xưa, tôi muốn nói những người cố cựu miền Nam
của đất Gia Định cũ. Cũng như có một ông tướng tên làVõ Tánh , vốn
người Gò Công, nay rất nhiều người đọc tên ông làVũ Tính . Lại như tên
một trái núi trên Biên Hòa, thuở nào đến nay, quen gọi là“núi Châu
Thới”. Nay thường nghe nhiều học giả đọc và viết “núi Chu Thái”, chúng
tôi không dám nói gì, nhưng thiết tưởng đến ông Trời cũng phải chịu! Còn
đến như nguyên do làm sao cổ nhân khi trước ghép chữ Hán“Sài” ____ với
một chữ Nôm"Gòn" _____làm vậy thì thú thật tôi xin chịu bí! Nói nhỏ mà
nghe, dốt nát như tôi, tôi hiểu rằng khi ông bà ta thiếu chữ“gòn” không
biết phải viết làm sao, thì ông bà cứ mượn chữ“côn” thế tạm, có hại gì
đâu, hại chăng là ngày nay con cháu không muốn đọc y như ông bà lại dám
chê xưa kia ông bà ta quá dốt!
Sài Gòn:tên riêng đất Chợ Lớn, bây giờ lại hiểu là đất Bến Nghé (trang 280 quyển II).
Sài Gòn:tên xứ ở về tỉnh Gia Định (trang 390 quyển I).
Tôi
xin hẹn sau sẽ giải nghĩa việc này. Điều nên chú ý liền đây là bộ Tự vị
Huỳnh Tịnh Của in vào năm 1895-1896 cho ta thấy rõ đời ấy đã có sự lẫn
lộn về danh từ “Sài Gòn” rồi.
Để
tìm hiểu sâu rộng và muốn biết rành rẽ về nguồn gốc tích “SÀI GÒN”,
phải dày công phăng từ ngọn ngành, căn cội và chịu khó tra cứu từng các
dân tộc một, đã sống qua các thời đại trải không biết mấy ngàn năm và
thay nhau khai thác cõi Nam này:
1) người Phù Nam,
2) người Cam Bốt,
3) người Tàu,
4) người Việt.
1. Trước hết, từ giống người Phù Nam[18]
Thời cổ đại, theo sử Trung Quốc ghi lại, thì có giống người Phù Nam chiếm cứ sơ khởi vùng gọi Phù Nam. Đất Phù Nam
sau đổi lại là “Thủy Chân Lạp” (le Chan-la des eaux ou Basse
Cochinchine) để phân biệt với đất Lục Chân Lạp (le Chan-la des montagnes
ou Cambodge).
THỜI ĐẠI NÀY, ĐẤT THỦY CHÂN LẠP CÒN LÀ RỪNG RẬM SÌNH LẦY, THÀNH SÀI GÒN CHƯA CÓ.
Khoảng
năm 1943 – 1944, nhà học giả Pháp, ông Louis Malleret nhân danh là hội
viên trường Viễn Đông Bác cổ và Giám đốc viện Bảo tàng Sài Gòn có thân
hành đến chặng giữa đường Long Xuyên đi Rạch Giá, noi dấu bọn thổ dân đã
đến chỗ này nhiều tháng trước để bòn vàng... Nơi đây, ông tìm ra di
tích một nền cổ Phù Nam
bị chôn vùi dưới đất từ ngàn xưa. Ông có đem về Viện Bảo tàng rất nhiều
món đồ nữ trang, cổ vật, trang sức phẩm và rất nhiều tài liệu cổ có
chơn giá trị về lịch sử (đồ đất nung, dót nấu kim khí, miểng bát chén,
phao lưới, trái trì lưới (poids de filet), cục đá căng nặng xe chỉ sợi
(fusaiolus), v.v...), hiện các vật này trưng bày làm một gian phòng
riêng biệt trong Viện Bảo tàng Sài Gòn. Nhờ đó, ta biết được cội đất
nước ta và biết tại đây xưa kia vào thế kỷ thứ hai, người dân La Mã đã
tìm theo con đường biển thả tàu buồm đến đây và đã từng đặt chân trên
đát này cũng như họ đã từng giao thiệp chặt chẽ cùng thổ dân bản xứ. Họ
(người La Mã, Ấn Độ di cư, Mã Lai, Phù Nam, v.v...) qua lại đổi chác với nhau, tỷ như vàng khối xứ Chiêm Thành (l’or du Cathay),
lụa Trung Quốc (soie de Chine), hoặc hương liệu (épices): sa nhân, đậu
khấu vùng Khmer (núi Cardamomes rất gần). Đặc biệt nhất là có một đồng
vàng tìm được tại chỗ và đó là một tài liệu quý hóa nhất chứng minh cho
thuyết nói trên. Đồng vàng ấy mang dấu hiệu của vua Antonin le Pieux,
sinh năm 86 và trị vì tại La Mã từ năm 138 đến năm 161 Tây lịch kỷ
nguyên. Hiện thời, các nhà thông thái tạm lấy chỗ tìm được cổ vật mà đặt
tên cho các vật tìm thấy, gọi đồ thuộcvăn minh Óc-Eo. (theo chính tả
Việt Ngữ. Nếu viết theo Phạn tự và theo giọng Khmer thì là ÂK EV). Nay
Óc-Eo thuộc về làng Mỹ Lâm, tổng Kiên Hảo, giáp ranh hai tỉnh Long xuyên
và Rạch Giá. Từ năm 1945 có chiến tranh, sự giao thông bất tiện, thêm
thiếu điều kiện bảo thủ canh gác nên người tại chỗ đã đào đã hôi rất
nhiều... Khó mà tiếp tục sưu tầm, tiếc thay![19]
2. Nối chân Phù Nam trên vùng Thủy Chân Lạp là người Cam Bốt.
Không
nói đâu xa, từ đầu thế kỷ thứ XVII, người Cam Bốt đã có mặt tại vùng
Sài Gòn lâu rồị Nhưng họ không khai thác chi cả. Họ chỉ ăn hoa lợi tự
nhiên: thú rừng, lâm sản; lá lợp nhà, cây làm củi, v.v... Bằng cớ hiển
hiện là khi lọt về tay người Việt, Sài Gòn vẫn là một thôn quê rừng,
ruộng, vô danh.
Nghiệm
ra rằng người Khmer sanh đẻ tại Nam Việt, phát âm không giống y giọng
Khmer trên Nam Vang. Tình trạng này có thể so sánh lại với tình trạng
người Việt vùng Cà Mau Bạc Liêu giọng nói vẫn khác giọng Sài Gòn hoặc
giọng Hà Nộị Đối với tiếng Khmer, trên Nam Vang, dùng nhiều chữ “r” có
thể nói mỗi tiếng nói, gần như mỗi có đánh lưỡị Trái lại miền Nam Lục
Tỉnh, dân Khmer nuốt gần mất chữ “r”. Tỷ dụ trên kia nói “Préam riet”
(là 5 đồng bạc) thì dưới này họ nói “Péam yiel”, v.v... chưa quen tai,
không hiểu họ muốn nói gì.
Bởi rứa, về danh từ “Sài Gòn” đối với người Cam Bốt, khi họ gọi:
a)Prei Kor
(nếu họ là người Nam Vang)
b)Prei Nokor
hoặc
c) Pẹi – ừ – Ko
(nếu họ là người Khmer Lục Tỉnh)
d) Pẹi - ằng – ko
Khiến người Việt ta điếc con ráy và... khó phân biệt được.[20]
Vả
trong bốn cách phát âm trên, tưởng cần ghi lại hai cách Nam Vang, có
phần khoa học, đáng tin cậy hơn, nhưng trong hai cách ấy cũng chưa phân
biệt cách nào đúng nghĩa của người xưa.
Prei, prey: rừng, không còn ai chối cãi.
Kor: Kô, Ku: có hai nghĩa khác hẳn nhau:
Khi “kor” làgòn , Prei-kor là “Rừng gòn”.
Khi khác thì“Kor”:“Kũ”: boeuf, Prei-Kor tức là “Rừng bò”?
Có
một tỷ dụ: Bockor: bâuk kũ: boeuf à bosse: bò u. Cố Tandart, sành về
Miên ngữ, lại cắt nghĩa: Nokor do “Nagaram” tiếng Nam Phạn (Pâli), đồng
nghĩa với chữ “thành” Việt Hán tự trong các danh từ: thành thị, đô thị
(cité); thành phố (ville).
Một tự vị Miên Pháp nữa dịch: Nokor: royaume: quốc. Vậy thì: Prei-Nokor là lâm quốc.
Các
thuyết trên cho phép ta định chừng“Nokor” là giọng kinh chợ, giọng các
nhà hay chữ thông thái trên Nam Vang, chớ người Khmer... miền lục tỉnh,
nước phèn cứng lưỡi, quen nói trại bẹ, thuở nay, để ám chỉ Sài Gòn, họ
dùng một danh từ lơ lớ nghe tương tự “Pei-ừ-ko” hay “Pẹằng-ko” không rõ
chắc được.
Bằng
như có ai hỏi họ sát đề quá, để tránh cái khó, họ dùng một danh từ
khác, rõ rệt không còn chối cãi và lầm lộn nữa, ấy là danh từ “srock
yuong” ta âm ra “Sốc Duồng” để chỉ xứ Sài Gòn.[21]Lấy theo điểm này và
căn cứ hai chữ nên thơ “Srock yuong”, thì người Cam Bốt tự ngàn xưa đã
ngấm ngầm nhìn nhận đất Sài Gòn là lãnh thổ Việt Nam không chối được.
Dân Khmer Lục Tỉnh là người trí óc mộc mạc chất phác, người củi lục làm
ăn, không biết nói láo và không biết ngụy biện!
Do các thuyết Lang sa kể trên, ta có thể kết luận:
Dưới
thời đại cam-bốt-diên, Sài Gòn là nước, xứ ở giữa rừng (Prei Mokor ).
Vịn theo thuyết này danh từ “Sài Gòn”, trước định do “Prei Nokor” là
“rừng gòn” không vững[22]. Nay nên dịch “lâm quốc” đúng hơn. Tóm lại.
danh từ “Sài Gòn” không ắt do điển “Prei Nokor” mà có.
3. Theo dấu người Tàu, năm 1680 đến miền Nam, năm 1778 lập Đề Ngạn.
Từ 1680, đã có dấu chân Hán tử trên dãy đất miền Nam nhưng họ lui tới đông đảo trên vùng Sài Gòn nhất là từ năm 1778.
Tài
liệu này thấy rõ ràng trong bộ sách “Annuaire de la Cochinchine
Francaise pour l’année 1866”. Nơi trang 83 và 84 của quyển sách hiếm có
này, mục nói về thành phố “CHỢ LỚN”, tác giả là hải quân Trung úy
Francis GARNIER, thanh tra chính trị bản xứ, viết nguyên văn bằng tiếng
Pháp, tôi xin sao lục ra đầy đủ sau:
“CHOLEN.-
Vers la fin du XVIIe siècle, plusuieurs milliers dr Chinois préférant
l’exil à la domination tartare, partirent de Canton, pour demander des
terres à l’empereur d’Annam. Celui-ci leur désigna la Basse Cochinchine:
il se débarassait de la sorte d’une multitude trop hardie pour ne pas
devenir bientôt dangereuse, et en faisait, en même temps, l’avantcoureur
de ses projets de conquête sur le Cambodge. Les émegrés se dirigèrent
donc vers le pays de Gia Dinh, et s’établirent à Mitho et à Bien Hoa. Ce
dernier point se développa rapidement sous leur influence, et l’ile
Cou-lao-pho devint le pôint fréquenté où chaque année de nombreuses
jonques vỉnent entreposer leurs marchandises.
“A
partir de ce moment, on voit les Chinois jouer un grand rôle dans
toutes les guerres qui eurent une partie de l’Indochine pur théâtre, et,
aussi redoutés comme adversaires, imposer parfois des conditions aux
diverses parties belligérantes. Ce fut ainsi que, à peu près à la même
époque, le Chinois MAC CUU s’empara de Hatien, sur le Cambodge, pour le
compte de la cour de Húe, et recut de celle-ci, pour lui et ses
descendants, l’investiture de la province dont cette ville est la
capitale. Hatien devint bientôt peuplée et florissante et garde encore,
aux yeux des Annamites, cette réputation d’élégance et de civilisation
dont la colonisation chinoise a toujours eu le prestige pour eux.
“Un
siècle plus tard (1773), la révolte des TÁYON qui’ectala tout, d’abord
dans les montagnes de la province de Qui-Nhon, et s’étendit repidement
dans le sud, chassa de Bien-Hoa le mouvement commercial qu’y avaient
attiré les Chinois. Ceux-ci abandonnèrent Cou-lao-pho, remontèrent de
fleuve de Tan-Binh, et vinrent choisir la position actuele de CHOLEN.
Cette création date d’envinron 1778. Ils appelèrent leur nouvelle
résidence TAI-NGON ou TIN-GAN. Le nom transformé par les Annamites en
celui de SAIGON fut depuis appliqué à tort, par l’expédition francaise,
au SAIGON actuel dont la dénomination locale est BEN-NGHE ou BEN-THANH.
“Mais
la rébellion ne s’arrêta pas à la conquête de la province de Bien-Hoa:
le chef des TAY-SON Nguyen Van Nhac pénétra peu après dans la province
de PHAN-YEN (Gia-Dinh), battit les troupes impériales, et passa au fil
de l’épée tous les Chinois établis à Saigon (1782).
“Il
en périt plus de dix mille, dit l’auteur du “Gia Dinh Thanh thung chi”,
à qui nous empruntons tous ces détails; la terre fut couverte de
cadavres depuis Ben-Nghe jusqu’à Saigon, et comme on les jetait dans la
rivière, elle en fut réellement arrêtée dans son cours; personne ne
voulut manger du poisson pendant un escape de temps qui ne dura pas
moins de trois mois. Les marchandises de toutes sortes appartenant aux
Chinois telles que thé, étoffes de soie, remèdes, parfums, parpiers,
joinchèrent la route pendant longtemps, sans que personne osât y
toucher. L’année d’après (année Qui-Meo - 1873), le prix du thé
s’élevait jusqu’à 8 ligatures la livre, une aiguille coutait jusqu’à 1
tayen; toutes les marchandises augmentèrent de prix à proportion
(Traduction AUBARET).
“On
peut juger par ces lignes de l”historien officiel de Gia-Dinh, de
l’importance qu’avait déjà à cette époque a colonie chinoise de CHOLEN,
et dans quelle dépendance du commerce chinois était tombée la contrée
entirère.
“Quand
GIA-LONG, maitre enfin de ces états, eut rétabli la paix dans les
provinces de la Basse Cochinchine, Cholen recouvra bientôt toute son
activité et toute sa richesse, et la persévérance chinoise, triomphant
des restrictions commerciales et des vexations de tout genre, en fit
bientôt la marché le plus important des six provinces. La défense
d’exportation étendue à presque toutes les denrées autres que le riz,
l’édit qui limitait le nombre des Chinois, les lois somptuaires qui leur
étaient appliquées, ne lassèrent ni leur habileté, ni leur génie
commercial. Toutes mesures qui n’etaient, d’ailleur, pour les mandarins
que des occasions de corruption de plus, n’empêchèrent pas les Chinois
de construire à leurs frais à Cholen des quais en pierre sur une étendue
de plusieurs kilomètres, et de contribuer pour une part considérable au
creusement de canal destiné à relier le Binh-Duong ou Vam-Ben-Nghe
(arroyo Chinois) au Ruot-Ngua qui aboutit au Rach-Cat (1819).
Le-Ruot-Ngua avait été lui même canalisé en 1772. En même temps, on
acheva les travaux de l’arroyo de la Poste, dont le creusement avait été
ébauché des 1755. En 1820, la route commerciale du Cambogde à Saigon
par Mitho se trouva complètement terminée, et à partir de ce moment,
Cholen redevint l’entrepôt nécessaire de toutes les denrées de cette
riche zone” (Annuaire de la cochinchine Francaise pour l’année 1886,
pages 83-84).
Cứ
theo thuyết này, người Tàu dùng thuyền buồm chuyên chở hàng hóa, tơ
lụa, trái cây khô và tươi v.v... của xứ họ qua dự trữ tại Cù lao Phố
(Biên Hòa). (22) (Mãi về sau, họ vẫn dùng thuyền cây chạy buồm để chở
lúa gạo, cá khô, trầm hương của Nam Việt qua Trung Quốc, và bận trở về
Nam nếu không đủ tơ lụa hàng hóa, họ còn có sáng kiến chở đá, gạch, đồ
gốm, để vừa cho thuyền đủ sức khẳm sóng ít nhồi, vừa có đủ đồ dùng để
xây cất chùa chiền tại Việt Nam y một thể thức như bên xứ họ). Vào thời
ấy, người Tàu vẫn là những tay lợi hại và đắc lực ám trợ mọi cách và cả
hai bên vào các cuộc nội loạn miền Nam. Có thể nói hễ họ dựa vào bên nào
là bên ấy có phần chắc thắng địch thủ dễ dàng. Dân chúng nể uy danh họ
và kiêng sợ võ lực bạo tàn của họ, thậm chí các tay lãnh tụ đương thời:
Nhạc, Huệ, Nguyễn Ánh cũng lợi dụng họ để mượn thế “lấy giáo Tàu đâm
Chệc” cho họ sát hại lẫn nhau bớt. Xét ra đời nào cũng có họ ám trợ ta
chống lại Trung Quốc với danh nghĩa “di thần Minh Mạt”, họ là người gốc
Hán tộc lại “tả” rất sướng tay lính để đuôi sam Mãn Thanh và biết đâu
chừng, trong trận Đống Đa, há chẳng có quân sĩ Tàu hươi mã tấu ám trợ
vua Quang Trung đánh giặc Chệc!
Cũng
như dưới danh từ hội kín, như gần đây có “Thiên Địa Hội”, nào “Nghĩa
Hòa Đoàn”, nào “Nghĩa Hưng Đoàn”, từ ngàn xưa họ đã từng làm mưa làm gió
một thời và đánh giặc mướn cho cả hai phe, khi theo chúa Nguyễn Ánh,
khi theo Tây Sơn Nhạc Huệ và về sau cùng, thì có họ núp dưới bóng cờ
Đen, trợ giúp triều đình Huế chống quân đội Pháp thời Tự Đức, và núp
dưới hiệu lịnh “Tư Mắt, Phan Xích Long” phá khám cũ Sài Gòn và làm phản
chống chánh phủ Đô hộ Pháp lối 1914-1915. Anh hùng bất đắc chí, sẵn tánh
phiêu lưu, họ cư xử không khác các nhân vật, các “đại ca” trong truyện
Tàu bất hủ, khi làm tướng cướp khi lại tế khổn phò nguy! Nhưng cũng bởi
tánh ăn ở không minh bạch, nên khi Tây Sơn nổi dậy (1773), kéo cờ bách
thắng vào Nam, thuận tay, họ bèn quét đuổi quân Tàu ra khỏi Cù lao Phố
(Biên Hòa) là nơi tàn quân Minh đến lập cơ sở từ năm 1680. Khi ấy, những
khách thương Tàu mất chỗ bèn rút lui theo con sông Tân Bình (Bến Nghé),
họ nhắm xem địa thế, cân nhắc kỹ càng thiên thời địa lợi và sau rốt họ
lựa vùng đất ở giữa chẹn đường Mỹ Tho đi Cù lao Phố mà xây dựng tân sở,
tân sở này sau trở nên thành phố Chợ Lớn ngày nay vậy. Tác giả Grancis
Garnier, quả quyết: THỊ TRẤN CHỢ LỚN DO NGƯỜI TÀU TẠO LẬP VÀO NĂM 1778
ĐÂY THÔI. Thị trấn này vừa phát đạt chưa được bốn năm năm đến 1782, thì
ngộ nạn lớn: năm ấy, chúa Tây Sơn Nguyễn Văn Nhạc đánh lấy được thành
Phan Yên (Gia Định), thừa cơ làm cỏ sạch người Tàu một phen nữa (Sở dĩ
Tây Sơn giận dai như thế, theo một giả thuyết tôi được nghe gia nghiêm
kể lại, có lẽ một phần do hậu quả những cờ gian bạc lận giữa các tay tổ
Tàu và Biện Nhạc năm xưa, một phần khác quan trọng hơn, là lại đã không
tiếp tay chống Nguyễn Ánh mà còn tiếp tế lương phạn, v.v...). Sau trận
giặc 1782, theo Trịnh Hoài Đức thuật lại, thì hàng hóa các tiệm buôn Tàu
như trà, vải lụa, thuốc men, hương liệu, giấy má đủ loại bị tuôn ra bỏ
bừa bãi lềnh khên ngập đường sá, hèn lâu như vậy mà không ai dám rớ dám
mót lượm về xài. Qua năm 1783, giá hàng hóa vụt lên mà ngợp: kim may mỗi
cây một lượng bạc, trà Tàu tám quan tiền một cân,... Còn nói chi số
binh sĩ và thường dân Tàu bị chết đâm chết lụi kể trên số muôn, thậm chí
thây ma lớp nằm chật đất, ngổn ngang từ vàm Bến Nghé đến tận kinh Chợ
Lớn, lớp khác bị chuồi xuống nước, xác ma da, thằng chỗng kẹo lềnh một
khúc sông, làm cho ngót ba bốn tháng trường, dân nghe nhắc mà ớn xương
sống không dám rớ đến miếng thịt xương thịt cá! Nhưng người Tàu quả là
giống dân giàu tính nhẫn nại nhất thế giới: tính coi họ thất bại to tát
làm vậy mà họ không bỏ cơ sở làm ăn. Ít lâu sau họ gầy dựng lại cơ sở
Chợ Lớn, có mòi sung túc thịnh vượng hơn trước bá bội. Họ lấy đất đắp
thêm bờ kinh chỗ mới tạo lập, cẩn đá thêm cao ráo và kiên cố. Và có lẽ
để ghi nhớ công trạng này họ đặt tên chỗ mới là “Tai-Ngon”, hoặc
“Tin-Gan”, mà phát âm theo giọng Quảng Đông thì nghe ra “Thầy Ngồnn” hay
“Thì Ngòn”. Xét theo mặt chữ, thì “Tai-Ngon”, “Tin-Gan”, “Thầy Ngồnn”,
“Thì Ngòn” đọc theo giọng Việt là “Đề Ngạn”:
Đề, Đê: là cái bờ, cái đê ngăn nước.
Đề:cũng
có nghĩa là nắm lấy (Đề cương khiết lãnhlà nắm lấy cái dây lớn của cái
lưới, tức nhiên cả cái lưới sẽ trương ra; kéo cái cổ áo thì cả chiếc áo
nhấc lên. Nghĩa bóng:nắm lấy chỗ chủ yếu . Kể ra khi đi lựa địa thế, đã
là đặt cả một hy vọng lớn rồi.)
Ngạn:bờ sông cao dốc.
Đề Ngạn là vùng Chợ Lớn cũ ngày nay vậy (truy ra là xóm Quảng Đông Nhai chỗ miếu Quan Đế, miếu Tam Hội).
Còn
khi khác nữa, họ dùng danh từ “Tây Cống” mà họ phát âm nghe “Xi-cóon”
hoặc “Xây-cóon” (theo giọng Quảng). Theo ý tôi đây là cách phát âm giữa
người Tàu với nhau để ám chỉ vùng đất mà người Pháp hiểu là “Sài Gòn”
ngày nay, vùng ghi theo tiếng "Sài Gòn" do giọng Tàu, vùng của người
Việt ăn và ở, vùng ấy tức là vùng chợ cũ Sài Gòn, ngót trăm năm về
trước, xưa kia thuở Nam Triều gọi là "Chợ Vải", thuộc khu phố lầu chung
quanh Tổng Ngân khố ngày nay: đường Nguyễn Huệ, Ngô Đức Kế, Võ Di Nguy,
Phủ Kiệt, ăn lan ra phố Kinh lấp (Hàm Nghi), v.v... và đây là cách nhái
giọng nói, nhại tiếng “Sài Gòn” của ta, chớ không đúng theo chữ viết sẵn
_________. “Xi-cóon” giọng Quảng viết ra Hán tự thành “Tây Cống” như
vậy là chắc chắn rồi! Xin đừng hiểu theo một văn sĩ trẻ, giàu óc tưởng
tượng nhưng túng đề, ghi trên tạp chí “Phổ thông” độ nọ cắt nghĩa “Tây
Cống” là thành trì của vua Tự Đức ngày xưa cống hiến cho Tây!Tôi không
theo phái bảo hoàng nhưng tưởng viết làm vậy, nhơ ngòi bút, nhục quốc
thể, người nước ngoài cười; thêm đắc tội với tiền nhân.
Tóm
lại: Tây Cống ________, Xi-cóon, là xóm Việt, Sài Gòn của người Nam,
không phải xóm Tàu trong Chợ Lớn, tức Thầy-Ngồnn, chữ viết đọc là Đề
Ngạn.
Có
ý nghe người Tàu khi nói chuyện với nhau, khi rủ đi chơi vùng “Sài
Gòn”; họ nói gọn lỏn “hui Cái Xị”, mà “Cái Xị” ở dây là “nhai thị” tức
“chợ”, hoặc giả họ nói “xánh cái xị” là “tân nhai thị”, tức là “chợ
mới”(chợ Việt mới). Khi nào muốn ám chỉ Chợ Lớn Tàu, họ lại dùng danh từ
“Thầy Ngồnn”, là Đề Ngạn vậy.
Việt – ta nói: SÀI GÒN.
Tàu – họ nói: THẦY NGỒỒN, XÌ CỤN.
Ai muốn hiểu thế nào thì hiểu!
Gần
đây hơn hết, khi hai đô thị sát nhập làm một “Tây Cống dồn với Đề Ngạn
làm một khối duy nhất”, Tàu họ dùng một danh từ hết sức gọn và sáng, ấy
là Tây Đề.
Trở lại dấu vết tổ tiên Việt.
Cái
lộn xộn rắc rối làm cho ngày nay chúng ta điên đầu khó biết địa điểm
đâu là Sài Gòn chính thức, truy ra, cũng tại Lang sa mà có!
1.Thành Sài Gòn do Minh Mạng dạy xây năm 1836, vị trí ở gần Ba Son.
2.Chợ Bến Thành (ở gần bến và thành) phân ra hai chợ:
a. Chợ Cũ ở chỗ Tổng Ngân Khố ngày nay, do Chợ Vải ngày xưa Tây cất lại bằng gạch và sườn kèo sắt, phá bỏ năm 1913.
b.
Chợ Mới là chợ ngày nay quen gọi Chợ Mới Bến Thành, Tàu gọi "Tân Nhai
thị" hay vỏn vẹn "Cái Xị", khởi công năm 1912, đến tháng 3 năm 1941, chợ
cất rồi, ăn lễ lạc thành, tiếng đồn rùm beng có cộ đèn, chưng cộ bảy
bang, xe bông, hát ngoài trời v.v...; các bài báo viết mừng bài "mừng lễ
khai tân thị" xướng họa không dứt.
3. Hai vùng này gộp lại có tên là Bến Nghé.
Trong
lúc ấy thì người Tàu dùng danh từ “Thầy Ngồnn” (Đề Ngạn) để gọi vùng
buôn bán “Chợ Lớn” và danh từ “Xi-Cóon” (Tây Cống) để ám chỉ xóm Việt
tức chợ Bến Thành (từ xưa đến 1919 sự buôn bán vẫn nằm trong tay Hoa
kiều, người Việt bắt đầu qua nghề thương mãi chỉ từ 1920 về sau).
Kịp
đến buổi Tây qua, đứng trước danh từ “Bến Nghé” và “Sài Gòn” thì hai
chữ “Bến Nghé” đối với Tây líu lưỡi khó nói quá, nên chỉ sẵn uy lực kẻ
chiến thắng trong tay, Tây bèn ép các sắc dân Nam, Chà, Chệc đều phải bỏ
danh từ “Bến Nghé”, và để thay vào đó, Tây ép dùng hai tiếng “Sài
Gòn”[23], vừa kêu giòn, vừa dễ đọc (cũng như họ đã đọc và nói “Cholen”
thay vì “Chợ Lớn”, rồi đọc và nói “Da Kao” thay vì “Đất Hộ”. Dân ta bắt
chứơc theo mà còn ăn nói mạnh dạn hơn nữa, cho đến ngày nay họ đi rồi mà
các danh từ ngoại lai này chưa hết hẳn). Một lúc, để chọn tên dặt cho
kinh đô Nam Việt, Tây đã nghĩ đến danh từ “Gia Định” nhưng họ lại chê là
di tích cựu trào, khêu gợi chuyện xưa nên họ không dùng. Kế đó, họ muốn
chọn danh từ “Bà Chiểu”, nhưng họ cũng không thâu nhận vì “Bà Chiểu”
như “Gia Định” là tên cũ của trào xưa, họ cố tránh, lại nữa “khi viết
lại viết tháu, hoặc dùng gởi điện tín, sợ e có khi đọc hiểu lầm là “Bạc
Liêu”thì khốn”.
Tóm
lại, danh từ “Sài Gòn” trở nên bất tử vì người Việt, người Tàu trong
lúc đàm thoại với Lang sa hoặc viết thơ hay ký giao kèo với họ; một nửa
chiều ý người mới, một nửa “nịnh Tây”, bèn dùng luôn danh từ “Sài Gòn”
thay thế danh từ “Bến Nghé”, lâu ngày quen tai quen mắt và càng phổ biến
rộng thêm mãi, khiến nên “Sài Gòn” đã soán ngôi “Bến Nghé” và “Bến
Nghé” thỉnh thoảng chỉ còn nghe nói trong giới người cố cựu đất Gia Định
chính cống mà thôi.
--------------
[18]Về danh từ “Phù Nam”, có đến hai thuyết khác nhau:
a
– Trong sử Tàu, gọi đó là đất Phù Nam, tức xứ Nam nổi phù. Đời Thượng
Cổ, vùng đất này có lẽ quanh năm ngập lụt, không ai thấy được: đất chỉ
lồi lên khỏi mặt nước cho ngó thấy vào mùa hạn, khi nước rút đi hết và
trời dứt mưa.
b
– Nhà lão thành, thông thái người Pháp, ông G.Coedès lại cắt nghĩa:
“Phù Nam” do tiếng Khmer “Phnom” đọc ra làm vậy. (Còn trong vòng cãi cọ,
chưa thuyết nào ngã ngũ nhất định).
c
– Theo cố học giả người Pháp Pierre Dupont, thì xứ Phù Nam gồm đất Nam
Kỳ cũ (Thủy Chân Lạp), đất Cao Miên (Lục Chân Lạp) và một phần xứ Xiêm
La, và Phù Nam là một nước có từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ thứ V sau
Gia-tô. (BEFEO, năm 1959, tập II, trang 635)).
[19]Muốn
biết rành rẽ, nên chờ xem bộ luận án thi Tiến sĩ của học giả Malleret,
đăng trong tập kỷ yếu Trường Viễn Đông Bác cổ (Bulletin de l’Ecole
Francaise d’Extrême-Orient) đang in. Theo tác giả, sẽ gồm bốn tập lớn.
Hiện nay Viện Bảo Tàng Sài Gòn đã nhận tập thứ nhứt chia làm hai quyển
nhan đề: "L'exploration arche'ologique et les fouilles d ' Oc-Eo", Paris
1959, Tome Premier, "Texte", Tome Premier "Planches" (Sách tham cứu
khảo cổ nói về cuộc đào tìm cổ tích tại Oc-Eo, tập nhứt chia ra một
quyển về luận văn, một quyển về hình ảnh.)
(Nay trọn bộ đã xuất bản rồi.)
[20]Tôi xin sao lục ra đây đoạn Pháp Văn nói về điển này:
"
sur les origines de cette dénomination ghéographique, les hypotheses
les plus ingénieuses ont eté avancéẹ Selon Pétrus Ky, qui prétend avoir
découvert cette interprétation dans l'ouvrage de Trịnh Hoài Đức, les
deux caracteres
Saigon,
signifieraientbois des ouatiers , contenant ainsi une allysion aux
nombreux kapokiers qui se rencontraient, parait-il, autregois dans la
région. Le Đốc-Phủ-Sứ Lê Văn Phát avait cru pouvoir pousser cette
interprétation très loin, et en déduire que là Plaine des Tombeaux avait
été jadis une forêt inépuisablẹ Comme dans le domaine des étymologies
on n'en est guère à une hypothese, l'abile Đốc-Phủ n'avait pas manque de
soliciter le sens des mots de desverses facons, afin d ' en tirer une
explication propre à satisfaire des exugenees de son esprit. Il en
résultait que Sài Gòn pouvait être dérivé du nom cambodgien Prei Kor (a)
qui signigie fores des kapokiers.Il pouvait être aussi l'adaptation des
mots siamois Cai-ngon, c'est-àđire brousse des kapokiers, que les
Laotiens emploient encore, affirmait-il, pour désigner la capitale de la
Cochinchine (b).
"En
réalité, l'ancienne ville cambodgienne, dont la tradition a conservé le
souvenir, s'appelait Prei Nokor, désignation qúEtienne Aymonier traduit
par les termes forêt royalẹ mais que le P. Tandart, dans son
dictionnaire cambodgien-francais, propose de représenter par
l'expression ville de la foret, en rapportant Norkor au mot pali nagaram
qui équivaut à cité, ville ou forteresse".
a)
- Seule à notre connaissance, Adhémard Leclere, a mentionné le nom de
Prei Kor qúil a identifié à Prei Nokkor dans le Sdach Kan, bulletin de
la Société des Etudes Indochinoises, deuxieme semestre 1910, page 26.
Prei Kor pourrait se traduire plutôt par Forêt des bouefs que par Forêt
des Kapokiers.
b)-
Note sur l'érymologie du nom de Saigon - extreme- Asie, octobre 1931.
page 227-229. Dans une revue ephémere Tourisme, publiée à Saigon,
diverese étymologies avaient été antéricurement proposées. ef N.16 ( 7
Aout 1925)
[21]Srock
biến ra tiếng Việt là “Sốc” tức xứ của người Miên ở. Về sau, “sốc”
nghĩa là xứ, vùng. Tỷ dụ: Sốc thổ, sốc mọi, sốc việt (Sock yuong). Về
danh từ “Yuong” hay “Yuônn” hoặc “duong”, chưa ai giải nghĩa nghe ổn
thỏa. Có thuyết cho “duong” do tiếng Phạn trong “Yuong na” tức là người
ngoại kiều. Cắt nghĩa làm vậy e thông thái quá, sợi tóc chẻ làm đôi,
theo ý tôi phải chăng “duong” do tiếng chót danh từ “An nam quốc vương”
của vua chúa ta dùng để xưng hô đời trước mà có. Người Khmer quen nói
tiếng một, danh từ “An nam quốc vương” quá dài dòng bẻ miệng, bẻ môi,
khó nói, nên họ dùng gọn chữ “vương” cũng đủ và “vương” biến lần “yuong”
v.v... Có danh từ năm 1945-1946 người Miên dùng làm khẩu hiệu là “Cáp
duồng”. “Cáp” là chém đầu, “Cáp duồng” là chém đầu thằng Việt! ).
[22]Trong
tập “Souvenirs historiques” cụ Trương Vĩnh Ký quả quyết người Khmer xưa
có trồng gòn chung quanh đồn Cây Mai và chính người còn trông thấy vài
gốc cổ thụ này tại vùng ấy năm 1885.
[23]Hồi
đời Linh mục Bá Đa Lộc đã năng dùng danh từ “Sài Gòn” trong thư tín
nhưng đến lối 1860 danh từ này mới phổ biến rộng và thống nhất.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire