Khi nói đến Tết thì ai trong chúng ta cũng nhớ đến chuyện ăn và uống.Nhớ ăn thì cũng nhớ uống , và ta uống gì đây?
Uống nước , nhớ nguồn , nếu ngoại quốc có nhiều thứ rượu ngon , thì người Việt có món rượu Đế không thể không nhắc tới ...Lâu lắm mới tìm được 1 bài viết về món quốc hồn , quốc túy.
Hãy cùng đọc bài viết , dù đây là thức uống không thể dùng nhiều.
Cụng chén ngày Tết cho vui nhé các anh chị
CRTH
Rượu Đế Trong Dân Gian Tây Nam Bộ Dưới Góc Nhìn Văn Hóa
Bùi Tuý Phượng
1.
Khó có thể biết được rượu ra đời từ lúc nào, ở đâu, song nói về rượu,
về tác dụng chữa bệnh, về văn hóa uống rượu thì tất cả các dân tộc trên
thế giới đều có. Ở Việt Nam, rượu gắn với sinh hoạt cộng đồng, với các
nghi lễ, hội hè, đình đám, với những lời thề ước, nhưng nếu uống rượu
quá đà cũng gây nhiều phiền lụy... Chính vì vậy, chẳng biết tự bao giờ,
rượu đã đi đời sống văn hóa của người bình dân và bằng cách này hay cách
khác nó đã tồn tại trong cộng đồng người Việt nói chung, trong đó có
người dân đồng bằng sông nước Cửu Long.
Người Gò Đen cẩn thận trong các bước nấu rượu. Nếp được ngâm đến ngày thứ bảy thì mới bắt đầu cất rượu. Rượu đế Gò Đen dễ nhận biết. Dân sành rượu thường dùng cách lắc chai để nhận biết rượu ngon hay dở. Rượu ngon khi lắc chai sẽ nổi bọt và phân thành 3 tầng rõ rệt, bọt lại chậm tan.
Trong các loại rượu đế , ta có Rượu Đế Gò Đen , ngoài ra còn có Rượu Phú Lễ
Theo Cơ sở văn hoá Việt Nam của Trần Quốc Vượng (chủ biên), Nxb Giáo Dục, H. 2006, phần được coi là Tây Nam Bộ có diện tích khoảng 4.000 km2,
chủ yếu là vùng đồng bằng sông Cửu Long, một số đảo (lớn nhất là đảo
Phú Quốc) cùng một vài dãy núi thấp ở phía Tây An Giang, Kiên Giang.
Lịch sử hình thành vùng đất này gắn liền với bước chân những người đi mở
cõi thế kỷ XVII – XVIII
Tới đây xứ sở lạ lùng
Con chim kêu cũng sợ con cá vùng cũng kinh
Gắn
liền với đời sống sinh hoạt hàng ngày thức uống của họ ngoài nước mưa,
nước giếng, họ còn dùng trà hay các thứ rễ cây, lá cây pha nước để giải
khát. Rượu cũng là loại đồ uống không thể thiếu đối với người lao động
bình dân. Rượu là đồ uống, nhưng không phải là nước, chức năng của nó
không đơn thuần chỉ là giải khát, và đương nhiên rượu cũng được chế biến
kỳ công hơn là nước có sẵn từ tự nhiên. Xét về góc độ văn hóa, rượu đã
tạo nên một đặc trưng thú vị!
2.
Cách nấu rượu: Để có được rượu ngon tuyệt hảo người ta phải chăm chút
từng hạt nếp, cục men, từng động tác chưng cất, pha chế để được loại
rượu ngon nhất. Chọn nếp là bước quan trọng đầu tiên. Muốn được rượu
trong thì nếp phải ''rặt'', tuyệt đối không được lộn hạt gạo nào. Thường
là nếp mỡ và nếp mù u và nếp than đen tuyền, ... Sau khi chọn nếp ngon,
đem nấu thành cơm nếp, để nguội (còn âm ấm) thì rắc men vào (giã
nhuyễn) vào ủ kín. Men rượu nguyên thủy được mài rễ thảo mộc hoặc men bí
truyền chế từ các vị thuốc bắc: quế khâu, đinh hương, trần bì, quế chi,
đại hồi cộng thêm nhãn lồng, trầu hương... Sau ba đêm, men đã lên,
người ta chan nước vào ủ kín lại như lúc đầu, để thêm ba đêm sau nữa thì
nấu.
Lò
nấu rượu đắp bằng đất sét. Cơm rượu được cho vào trã (loại nồi bằng đất
nung lớn), dùng rơm, rạ, cũi khô đun lên, hỗn hợp cơm rượu có nước bay
hơi, người ta cho hơi nước ấy gặp lạnh (nước lạnh này chứa trên cái diệm
sành) thì ngưng lại thành giọt rượu, cứ thế hứng vào chai, ve, can
nhựa, …
Lúc
trước nấu bằng rơm, trấu nên phải mất cả ngày trời mới xong một mẻ
rượu, nay nấu bằng than đá nên nhanh hơn, chỉ cần khoảng 4 tiếng đồng hồ
là xong (một tiếng đun sôi, 3 tiếng chưng cất rượu).
Rượu
lấy được lúc đầu gọi là rượu gốc, nước trong veo, cao độ, cứ thế dần về
sau nước rượu nhạt dần. Khi nấu xong, tùy theo yêu cầu và mục đích dùng
người ta pha “nước gốc” và “nước ngọn” chung vào nhau, cũng có khi để
nguyên rượu gốc mà dùng, hay pha thêm nước cho nồng độ lạt bớt đi!
Xin
được nói thêm ngày nay, nhiều người đã thay nếp bằng gạo để nấu rượu,
chất lượng của loại rượu này đương nhiên thấp hơn so với nguyên thủy!
3.
Tên gọi các loại rượu: Rượu nấu bằng nếp như chúng tôi đã miêu tả nên
tên gọi đầu tiên của nó là rượu nép. Dân gian còn gọi bằng nhiều tên
khác như rượu trắng, rượu đế, …
Rượu
trắng là dựa vào màu sắc của nước rượu. Cũng loại rượu ấy, nhưng nhiều
người nấu nếp than (loại nếp hạt đen) làm cơm rượu (xin nói thêm cơm
rượu này cũng là cơm nếp ngon, được vò viên tròn nhỏ cỡ đầu ngón chân
cái, ủ men, chan nước đường, dùng ăn chơi lũ nhàn nhã, thức ăn này có
loại men riêng, còn “cơm rượu” dùng để nấu rượu ít người “ăn nổi” bởi
nồng độ men của nó “nặng” hơn nhiều!), nghiền nát cho thêm nước có đường
vào pha chung tạo thành loại rượu có màu hồng sẫm, được gọi là rượu nếp
than.
Rượu nếp than đậm đặc rồi chôn xuống đất, … mấy tháng đào lên uống rất ngon hơn nhiều lần, dân nhậu gọi là “lão tửu”!
Rượu trắng, rượu nếp than còn có những tên gọi khác: rượu đế, nước mắt quê hương!
Tên
gọi rượu đế được nhiều bậc lão nông tri điền miệt này giải thích rằng:
Đầu thập niên 1860, Pháp đến xâm chiếm vùng Sài Gòn – Gia Định, sau đó
lấn dần toàn cõi Nam
kỳ lục tỉnh. Chúng ngang nhiên “cấm người bản xứ nấu rượu” nhưng lại
buộc dân ta uống “rượu Tây!”. Bà con ta tất nhiên là không chịu để bọn
thực dân đô hộ lộng quyền nên quyết định … nấu rượu lậu. Rượu lậu vừa rẻ
lại vừa ngon hơn rượu của Nhà nước thực dân, cơm rượu được cho vào các
hủ sành rồi đem giấu trong những lùm tranh, lùm đế ở xa nhà, hoặc khi
thấy Tây đoan đến bắt, nghe động thì bê tất cả nồi rượu, bình rượu chạy
vội dấu dưới đồng cỏ hoang dại mọc toàn cây đế, một loài cây giống cỏ
năn, cỏ lác, cỏ tranh, hay lau sậy mọc cao vút đầu. Từ đó, dân gian gọi
rượu này là rượu đế!
Nhưng xem ra không mấy bợm nhậu hiểu tường tần nguyên lai của hai tiếng rượu đế này. Họ chỉ gọi rượu đế là rượu vua. Dân nhậu tự xưng là con Ngọc Hoàng, mà con Ngọc Hoàng thì không phải sợ ai cả!
Hiu hiu gió thổi đầu non
Mấy thằng cha uống rượu là con Ngọc Hoàng
Đặc
sản rượu đế có rượu đế Gò Đen. Gò Đen là một địa danh Bến Lức, tỉnh
Long An. Rượu đế Gò Đen có từ thời Pháp thuộc. Vì sao Gò Đen lại được
coi là ''đệ nhất tửu''? Truyền rằng, trước đây, dân Gò Đen nấu rượu bằng
tất cả cái tâm.
Người Gò Đen cẩn thận trong các bước nấu rượu. Nếp được ngâm đến ngày thứ bảy thì mới bắt đầu cất rượu. Rượu đế Gò Đen dễ nhận biết. Dân sành rượu thường dùng cách lắc chai để nhận biết rượu ngon hay dở. Rượu ngon khi lắc chai sẽ nổi bọt và phân thành 3 tầng rõ rệt, bọt lại chậm tan.
''Mỹ
tửu'' Gò Đen ''chinh phục'' người uống bởi rượu trong như nước mưa. Mỗi
khi rót rượu vào ly, tiếng rượu chảy, vị cay nồng đã đủ làm say, làm
khao khát lòng người uống.
Để đánh giá chất lượng rượu, người bình dân miệt này còn truyền tai câu hát:
Rượu ngon bởi vì men nồng
Người khôn bởi vị giống dòng mới khôn.
Rượu
đế được đem ngâm với bìm bịp (một loài chim mà theo kinh nghiệm dân
gian là một phương thuốc có tác dụng bổ thận tráng dương), gọi là rượu
bìm bịp, ngâm với con tắc kè (loài bò sát, đã được thẩm định là có chức
năng chữa bệnh gân cốt) gọi là rượu tắc kè, … Tương tự thế, rượu đế ngâm
với chuối hột (trái chuối hột chín, loại chuối rừng cho trái nhỏ, vỏ
dày, nhiều hột đen, được đem về ép phơi khô, nướng sơ qua lửa than rồi
cho vào keo đổ rượu đế vào ngâm) một tháng sau, rượu có màu đỏ au, gọi
là rượu chuối hột; rượu ngâm với rễ nhàu, hoặc trái nhàu chín tạo nên
màu vàng nhạt, gọi là rượu nhàu! (Nhàu ở đây còn được bợm nhậu chơi chữ,
uống vô … nhào luôn!)
Riêng
rượu rắn thì có nhiều loại tam xà, ngũ xà, nhiều khi người sành điệu
chỉ ngâm trong hủ duy nhất một con … hổ mang chúa! Rượu ngâm thuốc bắc
cũng rất đa dạng, những năm gần đây dân miệt này cũng rất hảo loại …
Minh Mạng thang!
Ngoài
những thứ rượu đế ngâm hoặc để nguyên chất uống, nhiều người còn ngâm
rượu để bóp chân tay, gân cốt, … thứ này không phổ biến, thường chỉ có
các thầy thuốc nam, hoặc các thầy dạy võ mới sử dụng!
4. Rượu trong lễ nghi, phong tục: đối với người miệt sông nước, bất cứ nghi lễ nào cũng không thể thiếu … rượu!
Đối với đời người, lễ đầy tháng, thôi nôi cho trẻ con mới sinh cũng dùng rượu để cúng mười hai mụ bà, mười ba đức thầy, cầu mong cho trẻ mau lớn, khỏe mạnh!
Trong
lễ cưới, hỏi của nam nữ thanh niên, rượu luôn luôn có mặt. Cách đây gần
thế kỷ, khi đi mời khách đến dự đám cưới, đám hỏi, nhiều gia đình khá
giả, hiểu lễ nghĩa thường cho người mặc áo dài, chít khăn đóng, mang
theo mâm trầu rượu đến nơi thì kính cẩn rót rượu mời gia chủ và sau đó
mới trình thưa chuyện. Ngày nay, trong thiệp hồng báo tin vui, người ta
vẫn dùng câu … Vui lòng đến dự tiệc RƯỢU, chung vui cùng gia đình chúng tôi,
…. Trong mọi hoạt động lẽ nghi của đám cưới, đám nói, luôn luôn có một
chiếc bình nhỏ và hai chiếc chung nhỏ (gọi là mâm trầu rượu). Muốn nói
gì, thưa chuyện gì chủ lễ đều phải rót rượu để trình rồi mới thưa
chuyện, …
Cũng từ đó mà đôi tân lang tân giai nhân vui mừng ra mặt khi dâng chung rượu cho đấng sanh thành:
Rượu lưu li chân quỳ tay rót,
Cha mẹ uống rồi nối gót theo anh.
Trong lễ tang, rượu cũng được dùng cúng tế, lễ cúng đám giỗ thì sau ba tuần rượu, hai tuần trà
mới được … lui mâm! Khi đốt áo quần vàng mả, đồ đốt cháy hết người ta
rưới vào đó ít rượu với tâm niệm để người dưới suối vàng … nhận lễ!
Trong
các lễ hội cúng đình, cúng miễu, rượu cũng luôn luôn có mặt, và giữ vai
trò quan trọng về mặt nghi lễ! (Trừ lễ Phật ở chùa, bởi rượu là thứ
giới cấm của Phật giáo)
Rượu ngon chắt để bàn thờ
Ba bốn năm không lạt (nhạt), sao giờ lạt đi?
5. Rượu để uống
Như chúng tôi vừa nói, rượu chủ yếu là để uống. Các hình thức uống rượu, mục đích của việc uống rượu vốn rất đa dạng, phong phú.
5.1.
Uống rượu … một mình: chỉ một người, một bình rượu đế nhâm nhi để giản
gân cốt sau một ngày đào mương, vét cỏ, làm vườn, cấy ruộng, … Hay người
trong cuộc có chuyện buồn đau trong đời không thể bày tỏ cùng cộng
đồng, người ta cũng mượn rượu để giải khuây.
Hồ Xuân Hương ngày trước đã có câu thơ nổi tiếng miêu tả tình cảnh đó: Chén rượu hương đưa say lại tỉnh (Tự tình)
Rượu càng uống cảng tỉnh, mới là nỗi đau lên đã lên đến tận cùng!
5.2. Rượu uống với bạn bè để vui vẻ: dân gian thường nói trà tam rượu tứ.
Uống rượu, ít khi một mình. Thường mâm rượu có hai, ba, bốn, … thậm chí
cả … chục người cùng nhau “nâng ly, cạn chén”. Người dân miệt sông nước
Cửu Long có đặc tính hào phóng mỗi khi rượu đã vào. Có khi lúc đầu mâm
rượu bày trước cửa sân nhà chỉ vài người, sau một hồi, … gặp bất cứ ai
đi ngang (không phân biệt quen hay lạ) đều được gia chủ mời vô … uống!
Chuyện cười ra nước mắt cũng xảy ra: những vị khách “trên trời rơi
xuống” này, uống đã, say lăn ra ngủ. Khi tỉnh lại cả chủ lẫn khách không
ai nhận ra ai, bởi họ chẳng … quen nhau!
Mỗi khi có khách ở xa đến chơi thì gần như chắc chắn sẽ có … nhậu, bởi khách đến nhà không gà thì vịt, vậy mà!
Đồ ăn, thức nhấm sang thì:
Bắt con cá lóc nướng trui
Làm mâm rượu trắng đãi người phương xa.
Nhiều
lúc cao hứng chỉ vài cần vài con khô cá sặt, khô cá trê, thậm chí chỉ
là trái chuối chát, trái khế, trái me dốt với chén mắm ruốc, vài cục
muối, mấy trái ớt, … họ cũng nhậu được!
Về chỗ nhậu thì trong nhà, ngoài vườn, trên bờ mương, đầu ruộng, … miễn là có chỗ ngồi được là xong.
Ở miệt này, thường uống bằng ly (loại dùng uống trà), kích cỡ lớn nhỏ khác nhau. Uống rượu cũng có nhiều cách. Chơi nguyên táo, tức là uống cạn cả ly; cưa hai
cho đậm đà tình nghĩa, tức là người trước uống nửa ly, người sau uống
nửa ly còn lại. Theo cách uống này, thì ai lớn tuổi hơn được kính trọng
mời uống, người nhỏ hơn uống sau. Có khi, để tỏ rõ sự sòng phẳng trong
bàn nhậu họ tự giao ai bưng ly nấy uống, như vậy đỡ tốn tiền đò! (tức chuyền tới chuyền lui)
Nếu
như ở nhiều nơi ngoài miền Bắc trong mâm rượu, mỗi người được “phân”
một chung, rượu rót đầy ai muốn uống sao thì tùy lượng, còn ở vùng này
ít khi uống rượu cách đó, cả mâm chỉ dùng chung một ly. Bàn rượu cử “chủ
xị” làm người cầm chai rót và chuyền. Chủ xị thường phải công bằng,
chuyền cho đủ và không được quên ai, kỵ nhất là “quên mình” (nếu xảy ra,
sẽ bị coi là ăn gian, bị phạt nặng). Muốn “từ chức”, chủ xị phải tự
uống 3 ly, ai cãi chủ xị, nếu sai cũng bị phạt 3 ly, nếu chủ xị (tức bỏ
qua ai đó trong mâm), sẽ bị phạt, … Uống rượu thì phải cạn đáy, ai uống
còn sót lại chút ít, bị cho là “kê tán” … sẽ bị cười, bị mất danh của …
người nhậu!
Ai đến sau, hoặc về trước cũng bị phạt theo “luật” vào ba, ra bảy (đi trễ uống liên tiếp 3 ly, về trước thì phải “nốc” … 7 ly!), ...
Đánh giá tửu lượng, dân ăn nhậu truyền nhau bài vè:
Một ly nhâm nhi tình bạn
Hai ly giải cạn tình sầu
Ba ly mũi chảy tới râu
Bốn ly nằm đâu gục đó
Năm ly cho chó ăn chè
Sáu ly ai nói nấy nghe
Bảy ly le le lội nước,
Tám ly chân bước chân quỳ
Chín ly còn gì mà kể
Mười ly khiêng để xuống xuồng
…
Xem
ra, đây chỉ là bài vè dùng để chế nhạo người có tửu lượng yếu, mới có
bảy, tám, … ly đã bước, đã quỳ! Sự thật, có người tửu lượng đến 1 – 2
lít là chuyện … thường! (đương nhiên còn tùy theo chất lượng nồng độ của
rượu nữa!)
Ngoài
uống, rượu còn dùng pha với để tắm cho trẻ con mà dân gian cho là phòng
gió độc, chóng trúng nước! Rượu dùng để tẩy rửa những nơi có mùi xú
khí!
6. Mấy điều suy ngẫm
6.1 Những nét đẹp
Rượu
trở thành “đối tượng” để người hiện tại giao tiếp với người khuất mặt.
Mượn men rượu nhờ thánh thần chứng kiến con cháu hiện tiền làm ăn, chung
sống vẹn tình trọn nghĩa.
Giúp con người thêm mạnh mẽ giữa vùng hoang vu thời mở cõi, giúp con người khuây khỏa tinh thần, …
Rượu thắt chặt tình thâm thủ túc, bằng hữu, người lạ hóa quen, nhiều khi nhờ một ly rượu … tình cờ.
Trong bữa rượu sự công bằng, nét đẹp trọng tình giữ nghĩa vẫn còn được lưu giữ qua từng ly rượu mời, rượu uống
Rượu giúp con người thêm khỏe mạnh nếu uống với lưu lượng vừa phải, hợp lý.
Rượu
cũng mang lại những giá trị kinh tế cho người miệt đồng. Hèm rượu được
nông dân dùng nuôi heo tăng thêm thu nhập, nhiều gia đình thoát nghèo
nhờ mô hình đó, …
6.2. Những mặt hạn chế
Không phải nói nhiều, dân gian đã cảnh báo ngay:
Rượu nhạt uống lắm cũng say,
Người khôn nói lắm dẫu hay cũng nhàm
Điều
thường gặp là “rượu vào, lời ra", nói nhiều, nói dài nhưng không ý thức
hết điều đã nói, gây chuyện “đa ngôn đa quá" (nhiều lời thì càng nhiều
lầm lỗi). Chí ít, cũng phiền nhiễu đến người xung quanh:
Ở đời chẳng biết sợ ai,
Sợ thằng say rượu nói dai tối ngày.
Sai be bét không làm chủ được mình, gây rối trật tự, … thậm chí dẫn tới phạm pháp, để lại những hậu quả không lường!
Nhiều
người, mượn rượu để đánh giá con người “nam vô tửu như kỳ vô phong” một
cách cực đoan, khích bác, vô lý, gây mất đoàn kết, hiềm khích không
trọn vẹn của tình làng nghĩa xóm!
Uống
rượu không điều độ, bỏ công ăn việc làm, hao tiền tốn của thiệt hại
không nhỏ về kinh tế. Dân gian phê phán những con người ấy, thế này:
Rượu chè, cờ bạc lu bù,
Hết tiền đã có mẹ thằng cu bán hàng
Hay:
Giàu đâu những kẻ ngủ trưa
Sang đây những kẻ say sưa tối ngày
Về
sức khỏe, rượu gây nhiều tác hại nghiêm trọng cho sức khỏe cho con
người, các chứng bệnh nan y phần lớn có nguyên nhân do rượu gây nên!
Không
thể tách rượu ra khỏi đời sống, nó đã trở thành nét sinh hoạt độc đáo,
thú vị mà người bình dân tạo nên. Vấn đề là làm sao người dùng đủ “tỉnh
táo” sử dụng nó một cách hiệu quả và hợp lý nhất!
Rượu Phú Lễ
Phú Lễ (Bến Tre) có 6 cái nổi tiếng: rượu đế, nghề đan lát, 505 phụ nữ không chồng, chiến khu Lạc Địa, ngôi đình Phú Lễ 180 tuổi, và cái nổi tiếng cuối cùng của xứ này là tuy có 5 cái nổi tiếng vừa nêu, đáng lý phải là gói du lịch hấp dẫn khách với nhiều ngôi làng còn nguyên nét cổ sơ, nhưng lại ít ai biết đến.
Chắc là chờ vài năm nữa, để rượu Phú Lễ trở thành “vị đại sứ” cho nó kịp đi khắp năm châu.
Những ngôi làng ở Phú Lễ còn giữ nguyên nét cổ xưa, nếu được bảo tồn chất lượng, sẽ trở thành những ngôi làng “miền Trung”, xứ Quảng, với hệ thống đường đất đỏ cũ kỹ, giữa miền Nam. Ba Tri sẽ trở thành bảo tàng làng cổ.
Ở đây, nhà của người dân phần đông là nhà rọi – loại nhà cột chống thẳng lên đầu kèo, chia không gian nhà làm hai – đặc trưng của những người dân miền Trung nghèo. Vả, ở cái xứ họ chọn làm nơi sinh sống “tị địa”, họ cũng đến bằng tay trắng, cũng nghèo, lại không có nhiều cây rừng, làm sao sắm nổi nhà rường – loại nhà cột chống ở trính và kèo chịu lực bằng trụ lỏng – rất tốn cây. Đặc trưng “tị địa” đến nay vẫn còn mạnh làng nào làng nấy sống, ít khi người dân làng này sang làng khác.
Gần đây Phú Lễ được nhiều người biết đến hơn khi tỉnh Bến Tre đầu tư vào một dự án 77 triệu đồng để phục hồi danh giá của rượu Phú Lễ vốn có tiếng từ thời Tây, lại dần dần lụi tàn chất lượng vào thời lương thực thiếu thốn sau năm 1975. Công trình kéo dài 18 tháng để chuẩn hóa công thức làm hồ men và thời gian kháp rượu. Ông Nguyễn Văn Chí, mọi người quen gọi là Ba Chí, cho biết tới nay, có khoảng 100 hộ nấu rượu, có khả năng sản xuất mỗi ngày 5.000 lít rượu.
Nhiều ý kiến cho rằng rượu Phú Lễ ngon tùy thuộc vào 4 yếu tố:
Một là: men; hai là, nước giếng của vùng này. Bởi vậy khi người con gái lấy chồng sang xứ khác vẫn không nấu được loại rượu giống y như ngày còn ở với mẹ. Ba là, nếp trồng trên chính vùng đất này. Một số nhà kháp thử bằng nếp khác, rượu đã không ngon bằng. Và bốn là, do những cái tỉn ủ cơm để lâu hằng trăm năm, chăng?
Rượu Phú Lễ có thể xếp vào hàng danh đế ngang hàng với làng Vân, Kim Long, Bàu Đá và Gò Đen.
Nghề đan lát ở Phú Lễ cũng là nghề có hàng trăm năm tuổi, và nhiều người dân hiện nay vẫn thực hành nghề này kiếm sống qua liên kết với những công ty làm hàng thủ công mỹ nghệ. Chị Trần Thị Lan, phó chủ tịch hội phụ nữ xã cho biết, các công ty Thanh Bình, Ngọc Ẩn đến liên hệ với địa phương bàn chuyện gia công sản xuất cho họ. Người dân chỉ cần bỏ công ra làm theo mẫu mã họ mang đến rồi được trả tiền theo sản phẩm đã làm. Niềm hy vọng nghề truyền thống ở đây vẫn tiếp tục sống và rồi sản phẩm của họ có lúc bán trực tiếp đến tay du khách.
Đình Phú Lễ cũng là một trong những di tích khá cao tuổi, một thời gian chiến tranh, được người dân làng tháo dàn trò cất. Và đến năm 1950 mới ráp lại. Đình được phong di tích văn hóa năm 1993, là một quần thể gồm 11 ngôi nhà, mỗi năm có hai lễ hội lớn là lễ hạ điền (còn gọi là lễ Kỳ Yên) tháng 3 và lễ thượng điền tháng 11. Qui mô của đình cũng nói lên được phần nào một thời trù phú của người dân làng.
Phú Lễ cũng là nơi lưu giữ một trữ lượng ca dao, dân ca phong phú, từ hò, lý, vè, nói thơ, hát bội đến điệu hát sắc bùa.
Từ đình Phú Lễ đi vài cây số là vào sâu căn cứ Lạc Địa. Gọi là Lạc Địa vì ai vào đây cũng có thể đi lạc và phải vái ông địa, một bô lão trong làng cắt nghĩa. Ông cụ còn kể lại kinh nghiệm: “Theo đường trâu đi thì ra được, không theo đường trâu thì không biết đường ra, dầu cho có ở đây mấy chục năm trời”. Đây là khu vực có gần 400 đìa lớn, đìa nhỏ không tính. Hiện đìa được giao khoán để nuôi cá. Tỉnh đã đầu tư vào đây 2,8 tỉ đồng để từng bước biến nơi này thành khu du lịch sinh thái.
Ý định là vậy nên con đường đất đỏ chính trong làng đã sắp sửa bị gạt sổ bởi qui hoạch đường liên huyện biến nó thành đường nhựa để du khách dễ tiếp cận với khu du lịch sinh thái Lạc Địa hơn? Nhưng người ta quên nghĩ rằng, du khách không nhất thiết phải đến đây để tìm phong vị đường nhựa . Và ba cái làng Phú Thạnh, Phú Lợi, Phú Khương, ngày mai nếu không có kế hoạch bảo tồn hợp lý sẽ hư mất. Và Ba Tri mất đi một mảng lớn về cái hấp dẫn du khách cộng hưởng với khu mộ các danh nhân văn hóa Võ Trường Toản, Phan Thanh Giản, Nguyễn Đình Chiểu; sân chim Vàm Hồ và những bến sông.
Theo SGTT
Tìm hiểu Rượu Đế Gò Đen
Đế Gò Đen
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Rượu đế Gò Đen, thường được gọi tắt là Đế Gò Đen, là tên một loại rượu trắng nổi tiếng của Việt Nam. Đây là một loại rượu được nấu từ gạo, hoặc nếp mỡ, nếp than, theo phương pháp cổ truyền, sản xuất ở địa danh Gò Đen, Bến Lức, tỉnh Long An.
Đây là một loại rượu đế có nồng độ cồn rất cao, có thể lên đến 50 độ cồn, là một đặc sản của Long An nói riêng và các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long nói chung. Cũng như nhiều loại rượu địa phương nổi tiếng trên thế giới (như rượu Mao Đài của Trung Quốc, đế Gò Đen được nhấn mạnh về vấn đề thổ nhưỡng, nên để có một sản phẩm ngon, đế Gò Đen phải được nấu tại vùng Gò Đen.
Dù theo truyền thống thì đế Gò Đen được nấu từ gạo. Tuy nhiên, ngày nay những người sàn rượu Việt Nam và thế giới thường rất chuộng loại đế Gò Đen được nấu từ gạo nếp. Tuy nhiên, số lượng sản xuất loại đế nếp này ít hơn nhiều so với loại nấu từ gạo truyền thống. Loại rượu gạo này rất nhiều địa phương ở Việt Nam nấu, (chất lượng cũng khác nhau tùy vùng), Rượu Nếp, Rượu Nếp Than.
Đặc sản Rượu Đế Gò Đen được nấu từ các lò rượu tại gia theo phương pháp truyền thống ở các vùng lân cận tại khu vực Gò đen, Long Hiệp, Mỹ Yên (huyện Bến Lức), Phước Vân, Long Cang, Long Định (huyện Cần Đước).
Cũng như nhiều thương hiệu địa phương nổi tiếng tại Việt Nam khác, đế Gò Đen cũng gặp nhiều vấn đề trong việc giữ gìn thương hiệu. Do nhu cầu quá cao của những người sành rượu đối với loại rượu đế nổi tiếng này, đã có nhiều trường hợp sản phẩm kém chất lượng cũng như bị làm giả, làm nhái, gây ảnh hưởng đến thương hiệu đế Gò Đen.
Vì thế từ vào tháng 12/2009 "Hội Rượu Đế Gò Đen" đã được thành lập, trụ sở đặt tại 192 Quốc Lộ 1A, Huyện Bến Lức, Tỉnh Long An. Nhằm kiểm soát chất lượng rượu đồng đều và không pha cồn hoặc nước lã, để thương hiệu Rượu Gò Đen mãi mãi là một "đệ nhất tửu".
"Rượu Đế Gò Đen ngày nay đã trở thành một thương hiệu nổi tiếng và được người dân khắp nơi trong cả nước tin dùng: rượu nếp than, rượu nếp trắng, rượu chuối hột... Tuy nhiên, có một số bộ phận người làm ăn vì hám lợi mà đi vào lò rượu mua về và pha lại với nước lạnh nên ít nhiều uy tín của làng rượu gò đen cũng bị ảnh hưởng.
Đây là một loại rượu đế có nồng độ cồn rất cao, có thể lên đến 50 độ cồn, là một đặc sản của Long An nói riêng và các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long nói chung. Cũng như nhiều loại rượu địa phương nổi tiếng trên thế giới (như rượu Mao Đài của Trung Quốc, đế Gò Đen được nhấn mạnh về vấn đề thổ nhưỡng, nên để có một sản phẩm ngon, đế Gò Đen phải được nấu tại vùng Gò Đen.
Dù theo truyền thống thì đế Gò Đen được nấu từ gạo. Tuy nhiên, ngày nay những người sàn rượu Việt Nam và thế giới thường rất chuộng loại đế Gò Đen được nấu từ gạo nếp. Tuy nhiên, số lượng sản xuất loại đế nếp này ít hơn nhiều so với loại nấu từ gạo truyền thống. Loại rượu gạo này rất nhiều địa phương ở Việt Nam nấu, (chất lượng cũng khác nhau tùy vùng), Rượu Nếp, Rượu Nếp Than.
Đặc sản Rượu Đế Gò Đen được nấu từ các lò rượu tại gia theo phương pháp truyền thống ở các vùng lân cận tại khu vực Gò đen, Long Hiệp, Mỹ Yên (huyện Bến Lức), Phước Vân, Long Cang, Long Định (huyện Cần Đước).
Cũng như nhiều thương hiệu địa phương nổi tiếng tại Việt Nam khác, đế Gò Đen cũng gặp nhiều vấn đề trong việc giữ gìn thương hiệu. Do nhu cầu quá cao của những người sành rượu đối với loại rượu đế nổi tiếng này, đã có nhiều trường hợp sản phẩm kém chất lượng cũng như bị làm giả, làm nhái, gây ảnh hưởng đến thương hiệu đế Gò Đen.
Vì thế từ vào tháng 12/2009 "Hội Rượu Đế Gò Đen" đã được thành lập, trụ sở đặt tại 192 Quốc Lộ 1A, Huyện Bến Lức, Tỉnh Long An. Nhằm kiểm soát chất lượng rượu đồng đều và không pha cồn hoặc nước lã, để thương hiệu Rượu Gò Đen mãi mãi là một "đệ nhất tửu".
"Rượu Đế Gò Đen ngày nay đã trở thành một thương hiệu nổi tiếng và được người dân khắp nơi trong cả nước tin dùng: rượu nếp than, rượu nếp trắng, rượu chuối hột... Tuy nhiên, có một số bộ phận người làm ăn vì hám lợi mà đi vào lò rượu mua về và pha lại với nước lạnh nên ít nhiều uy tín của làng rượu gò đen cũng bị ảnh hưởng.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire